Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Phân tích sự biến động của giá vàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 90 trang )

Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG 6
1. GIỚI THIỆU VỀ KIM LOẠI VÀNG 6
1.1 Giới thiệu về kim loại vàng 6
1.2 Ứng dụng của vàng 7
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ 9
2.1 Vàng với vai trò là một loại tiền tệ 9
2.1.1 Các tính chất để vàng trở thành phương tiện lưu thông tiền tệ 9
2.1.2 các tính chất của vàng để làm một loại tiền tệ 10
2.2 Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ 10
2.2.1 Chế độ đồng bản vị (hai bản vị vàng – bạc) 11
2.2.1.1 Chế độ bản vị song song 11
2.2.1.2 Chế độ bản vị kép 12
2.2.1 Chế độ bản vị vàng 13
2.2.2.1. chế độ bản vị tiền vàng 14
2.2.2.2 chế độ bản vị vàng thỏi 15
2.2.2.3 Chế độ bản vị hối đoái vàng 15
2.2.3 Chế độ lưu thông tiền giấy 17
3. GIÁ VÀNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG GIÁ VÀNG 22
3.1 Mức cung về Vàng 22
3.1.1. xu hướng chung của mức cung 22
3.1.2. Mức khai thác hầm mỏ của các nước có sản lượng lớn 22
3.1.3. Những giao dịch của các nước có dự trữ chủ lực và các cơ quan quốc
tế 24
3.2 Mức cầu về vàng 25
3.2.1 Mức cầu của khu vực kim hoàn 25
3.2.2 Mức cầu của các ngành công nghiệp sử dụng vàng 27
3.2.3 Mức cầu dự trữ của các ngân hàng quốc gia 27
3.2.4 Mức cầu về đầu tư và đầu cơ 27
3.2.5 Tình hình đầu tư và đầu cơ vàng ở các nước 28


3.3 Tổng hợp các yếu tố cơ bản của giá vàng 30
3.4 Một số yếu tố tác động đến giá vàng thế giới 31
3.4.1 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá dollar Mỹ 31
3.4.2 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá dầu thô 32
3.4.3 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá cả của các hàng hóa khác 34
3.4.4 Ảnh hưởng do các chính sách của Nhà nước đối với vàng 35
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA GIÁ VÀNG VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA 39
1. Diễn biến giá vàng Việt Nam trong thời gian qua 39
2. Nguyên nhân biến động giá vàng Việt Nam trong thời gian qua 42
2.1. Do ảnh hưởng của giá vàng thế giới 42
1
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1 Biến động của giá vàng thế giới 42
2.2.2 Nguyên nhân biến động của giá vàng thế giới 45
2.2.2.1 Mất giá và xu hướng tiếp tục mất giá của đồng USD 45
2.2.2.2 Hành động cắt giảm lãi suất của FED 56
2.2.2.3 Giá dầu tăng cao 60
2.2 Do sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam 63
2.3 Do lạm phát 67
3. Tác động của sự biến động giá vàng đối với Việt Nam 69
3.1 Thị trường ngoại tệ 70
3.2 Thị trường bất động sản 70
3.3 Thị trường chứng khoán 71
3.4 Việc huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng 71
3.5 Hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế 72
CHƯƠNG III. DỰ BÁO GIÁ VÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM 75
1. Dự báo giá vàng trong thời gian tới 75
1.1 cơ sở dự báo 75

1.1.1 Tình hình thế giới 75
1.1.1.1. Triển vọng kinh tế Mỹ 75
1.1.1.2 Xu hướng đồng USD 76
1.1.1.3 Quan hệ cung cầu về vàng 76
1.1.1.4 Giá dầu thế giới 77
1.1.2 Tình hình trong nước 78
1.1.2.1 Kế hoạch xây dựng một sàn giao dịch vàng quốc gia 78
1.1.2.2 Thuế xuất nhập khẩu vàng – kho ngoại quan vàng 80
1.1.2.3 Lạm phát 81
1.2 Dự báo giá vàng VN trong trung và dài hạn 83
2. Một số biện pháp phát triển thị trường vàng Việt Nam 84
2.1 Kiềm chế lạm phát 84
2.2 Phát huy hiệu quả của kho ngoại quan vàng 85
2.3 Phát triển kế hoạch xây dựng sàn giao dịch vàng quốc gia 86
2.4 Phát triển thị trường chứng khoán và bất động sản 87
2.5 Quản lý việc kinh doanh bất hợp pháp vàng qua mạng 88
KẾT LUẬN 89
2
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ năm 2001 trở lại đây, giá vàng diễn biến liên tục theo chiều hướng
gia tăng. Đặc biệt từ tháng tư năm 2006, giá vàng trong nước diễn biến theo chiều
hướng đột biến, liên tục gia tăng từ mức 0,98 triệu đồng/chỉ vào thời điểm đầu năm
2006 lên đỉnh điểm 1,5 triệu đồng/chỉ vào tháng 5 năm 2006. Sau đó duy trì ổn
định ở mức 1,3 triệu đồng/chỉ. Nhưng từ tháng 9 năm 2007 đến nay, giá vàng thế
giới và Việt Nam đột ngột tăng mạnh phá kỷ lục năm 1980, có lúc đạt mức đỉnh
điểm trên 1,9 triệu đồng/chỉ vào giữa tháng 3 năm 2008. Việc giá vàng tăng cao đã
gây nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ xô đi mua vàng, một số đã rút
tiền tiết kiệm để mua vàng. Tuy nhiên, trước sự trồi sụt thất thường của giá vàng

thế giới đã khiến không ít người dân bị thua thiệt nghiêm trọng do đầu tư theo
“phong trào” – giá lên thì đổ xô đi mua, giá hạ thì ào ạt bán. Đây cũng là một
nguyên nhân kỳ vọng tác động đẩy giá vàng trong nước tăng cao ngoài nguyên
nhân chính là do giá vàng thế giới biến động. Giá vàng thế giới liên tục trong xu
hướng tăng mạnh, có lúc tăng đột biến gây tâm lý bất ổn cho một bộ phận không
nhỏ tầng lớp dân chúng. Vậy đâu là nguyên nhân của những sự biến động này, tác
động và giải pháp ra sao đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều người.
Xuất phát từ tình hình và yêu cầu thực tế đó, em quyết định chọn “Phân tích sự
biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua” làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận nhằm tìm ra quy luật biến động của giá vàng trong
mối quan hệ mật thiết với với hai yếu tố: giá trị của đồng USD và giá dầu thô thế
giới, cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá vàng như tình hình cung cầu về
vàng, tình hình lạm phát, sự phát triển của thị trường chứng khoán, bất động sản…
3
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Từ đó giải thích sự biến động mang tính chất đột biến của giá vàng trong thời gian
qua, đồng thời đưa ra dự đoán trung và dài hạn cho giá vàng trên cơ sở sự phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến động của giá vàng, mối quan hệ
giữa giá vàng, giá dầu và USD và các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng. Phạm vi
nghiên cứu là giá vàng Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến tháng 5 năm
2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện
đại: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic, phương pháp so sánh,
tổng hợp, thống kê từ các bảng biểu, báo cáo thường niên của các bộ, cơ quan ban
ngành và các tổ chức quốc tế.

5. Nội dung của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận tốt
nghiệp được chia làm ba chương
Chương I: Tổng quan về vàng và thị trường vàng.
Chương II: Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian
qua.
Chương III: Dự báo giá vàng trong thời gian tới và một số biện pháp phát
triển thị trường vàng Việt Nam.
Nội dung của đề tài khóa luận tốt nghiệp hướng tới là rất rộng và phức tạp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nỗ lực nhưng do những hạn chế về thời gian, tài liệu
và khả năng của bản thân, nên khóa luận không tránh khỏi có những thiết sót. Vì
vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để
khóa luận được hoàn thiện hơn.
4
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường đại học Ngoại
Thương đã trang bị cho em các kiến thức quý báu trong thời gian học tập ở trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Th.S Đào Thị Thu Giang, người đã hết lòng
hưỡng dẫn, tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm khóa luận. Em xin gửi lời
cảm ơn tới ban lãnh đạo công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC, cô Phạm Thị Tuyết
– phòng kinh doanh công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC – đã nhiệt tình giúp đỡ,
cung cấp số liệu, tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
5
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG
1. GIỚI THIỆU VỀ KIM LOẠI VÀNG
1.1 Giới thiệu về kim loại vàng
Vàng là một nguyên tố hóa học với ký hiệu Au (từ La tinh aurum nghĩa là
tỏa sáng) có số hiệu nguyên tử trong bàng tuần hoàn hóa học là 79. Là kim loại
chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1)

Tính chất vật lý và hóa học.
- Mềm, dễ uốn dát nhất được biết. Thực tế, 1 g vàng có thể được dập
thành tấm 1 m², hoặc 1 ounce thành 300 feet². Là kim loại mềm, vàng thường tạo
hợp kim với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm.
- màu vàng và chiếu sáng, có màu vàng khi thành khối, nhưng có thể có
màu đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn.
- vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất
- Vàng được dùng làm một tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều nước và cũng
được sử dụng trong các ngành trang sức, nha khoa và điện tử. Mã tiền tệ ISO của
nó là XAU.
- Vàng có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí và
phần lớn hoá chất (chỉ có bạc và đồng là những chất dẫn điện tốt hơn). Nó không bị
ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn mòn; vì vậy nó
thích hợp để tạo tiền kim loại và trang sức. Các halogen có tác dụng hoá học với
vàng, còn nước cường toan thì hoà tan nó.
- Màu của vàng rắn cũng như của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm,
thường tía) được tạo ra bởi tần số plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng
thấy được, tạo ra ánh sáng vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ.
6
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Vàng nguyên thuỷ có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế.
Hợp kim tự nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. Khi
lượng bạc tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm.
- Vàng tạo hợp kim với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu
đỏ hơn, hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim
cho màu trắng, bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Đồ trang sức được
làm bằng các kết hợp vàng nhiều màu được bán cho du khách ở miền Tây nước Mĩ
được gọi là "vàng Black Hills".
- Trạng thái ôxi hoá thường gặp của vàng gồm +1 (vàng(I) hay hợp chất
aurous) và +3 (vàng(III) hay hợp chất auric). Ion vàng trong dung dịch sẵn sàng

được khử và kết tủa thành vàng kim loại nếu thêm hầu như bất cứ kim loại nào
khác làm tác nhân khử. Kim loại thêm vào được ôxi hoá và hoà tan cho phép vàng
có thể được lấy khỏi dung dịch và được khôi phục ở dạng kết tủa rắn.
1.2 Ứng dụng của vàng.
Vàng nguyên chất quá mềm không thể dùng cho việc thông thường nên
chúng thường được làm cứng bằng cách tạo hợp kim với bạc, đồng và các kim loại
khác. Vàng và hợp kim của nó thường được dùng nhiều nhất trong ngành trang sức,
tiền kim loại và là một chuẩn cho trao đổi tiền tệ ở nhiều nước.
Vì tính dẫn điện tuyệt vời, tính kháng ăn mòn và các kết hợp lí tính và hóa
tính mong muốn khác, vàng nổi bật vào cuối thế kỉ 20 như là một kim loại công
nghiệp thiết yếu.
Các ứng dụng khác:
• Vàng có thể được làm thành sợi và dùng trong ngành thêu.
• Vàng thực hiện các chức năng quan trọng trong máy tính, thiết bị
thông tin liên lạc, đầu máy máy bay phản lực, tàu không gian và nhiều sản phẩm
khác.
7
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
• Tính dẫn điện cao và đề kháng với ôxi hoá của vàng khiến nó được sử
dụng rộng rãi để mạ bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và trở kháng
thấp.
• Vàng được dùng trong nha khoa phục hồi, đặc biệt trong phục hồi răng
như thân răng và cầu răng giả.
• Vàng keo (hạt nano vàng) là dung dịch đậm màu hiện đang được
nghiên cứu trong nhiều phòng thí nghiệm y học, sinh học, v.v. Nó cũng là dạng
được dùng làm nước sơn vàng lên ceramic trước khi nung.
• Chlorauric acid được dùng trong chụp ảnh để xử lí ảnh bạc.
• Disodium aurothiomalate dùng để điều trị viêm khớp dạng thấp.
• Đồng vị vàng Au-198, (bán huỷ: 2,7 ngày) được dùng điều trị một số
ung thư và một số bệnh khác.

• Vàng được dùng để tạo lớp áo phủ, giúp cho các vật chất sinh học có
thể xem được dưới kính hiển vi điện tử quét.
1. Đơn vị đo lường và Cách qui đổi giá vàng thế giới và vàng trong nước
- Các đơn vị đo lường của Vàng: Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối
lượng của vàng được tính theo đơn vị là cây (lượng hay lạng) hoặc là chỉ. Một cây
vàng nặng 37,50 gram. Một chỉ bằng 1/10 cây vàng. Trên thị trường thế giới, vàng
thường được tính theo đơn vị là ounce hay troy ounce. 1 ounce tương đương
31.103476 gram.
- Tuổi vàng (hay hàm lượng vàng) được tính theo thang độ K (karat). Một
Karat tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 9999 tương đương với 24K. Khi
người ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong mẫu
xấp xỉ 75%. Vàng dung trong ngành trang sức thông thường còn gọi là vàng tây có
tuổi khoảng 18K.
• Thị trường vàng thế giới
o Đơn vị yết giá (thông thường): USD/ounce
8
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
o 1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng
o 1lượng = 1.20556 ounce
• Thị trường vàng trong nước
o Đơn vị yết giá: VND/lượng
o Công thức chuyển đổi giá vàng thế giới (TG) sang giá vàng trong nước
(TN):
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ
2.1 Vàng với vai trò là một loại tiền tệ
2.1.1 Các tính chất để vàng trở thành phương tiện lưu thông tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, vàng có các tính chất cơ
bản sau đây:
- Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ,
người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không

được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành
cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta không
chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
- Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết,
người ta có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Người ta có thể dùng
lửa để nhận biết được vàng có thật hay không.
- Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao
cho người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán
bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này
giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu
một người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn
9
TN = (TG + phí vận chuyển) * 1.20556 * (1+thuế NK)* tỉ giá USD/VND + phí gia công
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
mức anh ta cần trong khi lại không có được những thứ khác cũng cần thiết không
kém.
- Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ
giá trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để
làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao
còn tiền xu thì được làm bằng kim loại bền chắc.
- Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang
theo, tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những
đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in khổ
rộng ví dụ như khổ A4.
- Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm
vì nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong
việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong lịch
sử những kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân
hàng trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
- Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau

không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra
cách đây 2 năm cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu
thông. Có như vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ
dàng và thuận tiện trong trao đổi.
2.1.2 các tính chất của vàng để làm một loại tiền tệ
2.2 Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ.
Để đánh dấu sự phát triển của các hình thái tiền tệ trong quá khức, người ta
thường nhắc tới các chế độ bản vị tiền tệ. Đó là những tiêu chuẩn để một quốc gia
xây dựng nên thể chế tiền tệ của mình. Hay hiểu một cách đơn giản hơn, bản vị có
nghĩa là quốc gia sử dụng hàng hóa đúc tiền theo thể chế như thế nào.
10
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
2.2.1 Chế độ đồng bản vị (hai bản vị vàng – bạc)
Trong lịch sử, vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn
hẳn các kim loại khác, bởi vì những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất
những gì mà một đồng tiền hàng hóa (commodity money) cần có: sự khan hiếm,
tính bến, có thể chuyên chở, dễ chia nhỏ, đồng chất, và chất lượng được duy trì lâu
bền. Sự chấp nhận vàng và bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế là các
kim loại này được thừa nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các
ngành công nghiệp và trang sức. Hơn nữa giá trị của vàng và bạc được ổn định
tương đối so với các hàng hóa khác; ngoài ra, chất lượng của chúng có thể kiểm tra
một cách chính xác và được các chuyên gia (thợ vàng) chứng nhận.
Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận chính thức
trong lịch sử loài người. Nguyên nhân hình thành chế độ đồng bản vị là sự tăng của
sản xuất xã hội làm cho khối lượng trao đổi ngày càng lớn, dẫn đến việc đồng tiền
bạc được sử dụng trước đó trở nên không còn phù hợp nữa. Lúc này người ta bắt
đầu sử dụng thêm vàng như kim loại thứ hai để đúc tiền tệ. Vì vậy bạc và vàng
đồng thời được coi là bản vị. Cả vàng và bạc đều được tự do đúc thành tiền và cùng
có giá trị trong thanh toán và trao đổi. Trong chế độ đồng bản vị này có hai cách
quy đổi giữa giá trị đồng tiền vàng và giá trị đồng tiền bạc nên cũng có hai chế độ

đồng bản vị.
2.2.1.1 Chế độ bản vị song song
Ở dạng tinh khiết, bản vị vàng hàng hóa kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị
đầy đủ của các đồng xu (full-bodied coins), tức giá trị tiền tệ của chúng cũng chính
là giá trị kim loại của đồng xu. Điều này hàm ý, khi giá vàng thay đổi so với giá
bạc, sẽ làm cho tỷ lệ trao đổi giữa các đồng xu vàng và bạc thay đổi theo. Mặc dù
tiền xu được đúc mang theo nhãn hiệu riêng của từng quốc gia làm bằng chứng bảo
đảm về nội dung và chất lượng kim loại, nhưng trong thực tế các quốc gia thường
đúc những đồng xu bằng hỗn hợp kim loại là vàng và bạc hay với các kim loại khác
11
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
có giá trị thấp hơn. Các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng của vàng
(hay bạc) trong các đồng xu; hành động này được gọi là “bào mòn giá trị thực tế
của tiền xu – debasement”. “Bào mòn giá trị thực tế tiền xu” làm cho các đồng xu
mất giá trị dần trong lưu thông, cho nên hành động này được xem như là tiền thân
của hành động phá giá trong thời hiện đại.
Quá trình đồng tiền được định giá cao loại đồng tiền bị định giá thấp ra khỏi
lưu thông được thể hiện bằng thành ngữ quen thuộc với tên gọi là Quy luật
Gresham: “đồng tiền xáu đuổi đồng tiền tốt” (Bad money drives out good money).
Quy luật này được Thomas Gresham áp dụng để giải thích tại sao phương tiện lưu
thông tiền tệ của nước Anh lại giảm xuống, và trong thực tế chỉ còn các đồng tiền
bị bào mòn giá trị là tồn tại trong lưu thông. Điều này đã thuyết phục được Nữ
Hoàng Anh đi đến quyết định thay thế toàn bộ các đồng tiền đã bị bào mòn giá trị
bằng cách đúc các đồng tiền mới có giá trị đầy đủ.
Nhược điểm của chế độ tiền tệ này cũng bắt nguồn từ chính sự thay đổi
tương quan liên tục giữa vàng và bạc. Người nắm giữ tiền sẽ không thể quyết định
được việc nắm giữ tiền nào là có lợi cho mình, do đó thường có tâm lý lựa chọn
một loại tiền được sử dụng phổ biến hơn.
2.2.1.2 Chế độ bản vị kép
Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép lại quy định một tỉ lệ cố

định giữa giá trị của đồng tiền vàng và bạc, không phụ thuộc vào giá trị thực tế của
hai kim loại này. Nước Mỹ đã trải qua thời kỳ đồng bản vị từ năm 1792 đến 1861.
Luật đúc tiền năm 1792 đã thông qua đồng đôla là đơn vị tiền tệ của Mỹ có giá cố
định với vàng và bạc. Như vậy, ở Mỹ đã chính thức hình thành chế độ đồng bản vị.
Giá trị của đôla được ấn định bằng 24,75 grains vàng (1grain = 0,0648 gam) hay
371,25 grains bạc. Điều này nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa vàng và bạc là cố định “1
USD = 274 grains vàng = 371,25 grains bạc”. Như vậy, cùng một khối lượng như
nhau thì vàng luôn có giá gấp 15 lần bạc (371,25 : 24,75 = 15), và tỷ lệ 15:1 này là
12
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
tương đương với giá vàng bạc trên thị trường tự do lúc bây giờ; tuy nhiên, càng về
cuối thế kỷ 18 thì giá bạc trên thị trường đã bắt đầu giảm. Ngoài ra, các nước khác,
ví dụ như Pháp, đã hình thành chế độ đồng bản vị với tỷ lệ “bạc:vàng là 15,5:1”.
Kết quả là so với nước Mỹ thì ở các nước khác vàng đã có giá trị hơn bạc. Nếu bỏ
qua chi phí giao dịch và vận chuyển thì lãi ròng thu được khi đem 15 ounce bạc để
đổi lấy 1 ounce vàng ở Mỹ rồi bán số vàng này ở nước ngoài là 0,5 ounce bạc. Điều
này đã kích thích kích thích luồng bạc chạy vào và luồng vàng chạy ra khỏi nước
Mỹ. Kết quả là với vai trò là phương tiện lưu thông thì ở Mỹ vàng đã bị định giá
thấp và bạc đã được định giá cao, vàng từ từ biến khỏi lưu thông ở nước Mỹ; do đó,
xét về mặt danh nghĩa thì Mỹ vẫn áp dụng chế độ đồng bản vị kim loại, nhưng trên
thực tế chế độ này đã chấm dứt để nhừng chỗ cho chế độ đơn bản vị của bạc.
Chế độ đơn bản vị bạc tồn tại cho tới năm 1834, khi Quốc hội Mỹ quyết định
tăng giá vàng từ $19,394/ounce lên $20,76/ounce, trong khi đó giá bạc vẫn giữ
nguyên nhằm khôi phục lại chế độ đồng bản vị kim loại. Như vậy tỷ lệ bạc : vàng
là 16, trong khi trên thế giới vẫn là 15,5. Mộ lần nữa trong thực tế nước Mỹ lại chỉ
còn chế độ đơn bản vị kim loại là Vàng.
Năm 1879, Mỹ quyết định chuyển đổi trở lại USD ra vàng mà không chuyển
đổi ra bạc, đây là một bước quan trọng trong việc hình thành chế độ đơn bản vị
vàng (bản vị vàng) ở Mỹ. Tuy nhiên chế độ này vẫn không được chính thức phê
chuẩn cho tới khi có Đạo luật Bản vị vàng vào năm 1990.

2.2.1 Chế độ bản vị vàng
Mặc dù nước Anh hoạt động dưới chế độ bản vị vàng trong hầu hết thể ký
19, nhưng nhìn chung chế độ này vẫn chưa được áp dụng một cách phổ biến cho tới
những năm 1870. Hầu hết các nước châu âu, mà dẫn đầu là Đức, đã chuyển sang
chế độ bản vị vàng trong thấp niên 1870, và tiếp sau à Mỹ vào năm 1879. Năm
1880, bản vị vàng từ một ít quốc gia đã phát triển thành Hệ thống tiền tệ quốc tế
với hầu hết các nước áp dụng. Khi bùng nổ chiến tranh Thế giới Thứ nhất 1914,
13
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
bản vị vàng bị bỏ rơi; và trong hơn 30 năm từ 1880 đến 1914 hệ thống bản vị vàng
quốc tế đã thống trị hầu khắp các nước, nó đã liên kết chặt chẽ các quốc gia lớn với
nhau cũng như giữa các nước thống trị và các nước thuộc đại trong suốt thời gian
này.
Trong chế độ bản vị vàng, vàng là kim loại duy nhất được sử dụng để đúc
tiền. Chế độ này phát triển theo ba giai đoạn khác nhau.
2.2.2.1. chế độ bản vị tiền vàng
Đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo như
quy định của chế độ này vàng được tự do đúc thành tiền, các loại tiền phụ, giấy bạc
ngân hàng cũng như tiền tín dụng được tự do đổi thành vàng nếu muốn, và bên
cạnh đó pháp luật cũng cho phép tự do xuất nhập khẩu vàng. Theo cách quy định
này, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có khả
năng xảy ra hiện tượng lạm phát.
Những đặc điểm cơ bản trong hoạt động của chế độ bản vị vàng có thể mô tả
thông qua 3 quy tắc cơ bản:
Thứ nhất, Các quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng,
và sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá đã quy định.
Thứ hai, Việc xuất khẩu và nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do
hoạt động.
Thứ ba, Ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong
mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự trữ này cho phép NHTW

xử lý uyển chuyển việc chuyển đổi tiền ra vàng mà không gặp bất cứ một trở ngại
nào, tiền được tự do chuyển đổi ra vàng không hạn chế. Quy tắc bảo đảm bằng
vàng buộc NHTW khi mở rộng cung ứng tiền cho nền kinh tế phải tuân thủ kỷ luật
“chỉ phát hành tiền khi có luồng vàng từ công chúng chảy vào NHTW”. Kết quả là,
khả năng thay đổi cung ứng tiền chính là sự thay đổi lượng vàng có sẵn trong tay
những người cư trú. Lượng vangf có sẵn được xác định bằng khối lượng vàng được
14
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
sản xuất ra. Vai trò của NHTW trong chế độ bản vị vàng là mua vàng từ người cư
trú và thông qua đó phát hành tiền ra lưu thông.
Đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo như
quy định, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có khả
năng xảy ra hiện tượng lạm phát.
Nhược điểm của chế độ tiền tệ này là đồng tiền vàng vẫn là hàng hóa, do đó
với nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, việc sản xuất vàng không thể theo kịp để
đáp ứng. Them vào đó giá trị thực của đồng tiền trong lưu thông càng ngày càng
kém đi so với lượng giá trị mà nó đại diện.
2.2.2.2 chế độ bản vị vàng thỏi
Người ta gọi là chế độ bản vị vàng thỏi vì vàng không còn tồn tại dưới dạng
tiền nữa mà được đúc thành thỏi. Trong chế độ bản vị vàng thỏi, vàng không còn
được tự do đúc thành tiền để đưa vào lưu thông nữa, lúc này tiền trong lưu thông
phải được quy định chặt chẽ về hàm lượng vàng. Bên cạnh đó, các loại giấy bạc
ngan hàng không được đổi ra vàng một cách tự do mà phải đạt một tiêu chuẩn nhất
định do Nhà nước đề ra thì mới có thể đổi ra vàng. Hoạt động xuất nhập khẩu vàng
cũng bị kiểm soát chặt chẽ và có lúc bị cấm.
2.2.2.3 Chế độ bản vị hối đoái vàng
Chế độ bản vị hối đoái vàng cùng được áp dụng trong một quãng thời gian
tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi. Cũng có những quy định tương tự như chế
độ bản vị vàng thỏi, điểm khác biệt là các loại tiền ngân hàng trong chế độ này sẽ
không được chuyển ra vàng mà chuyển ra ngoại tệ của nước thực hiện chế độ bản

vị vàng thỏi. Việc chuyển đổi này cũng không được thực hiện tự do mà phải thực
hiện với một số lượng đủ lớn.
Năm 1914, đại chiến Thế giới thứ nhất nổ ra buộc các nước chấm dứt chuyển
đổi các đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ giá cố định đã hoạt động trong
suốt 35 năm phải nhường chỗ cho hệ thống tỷ giá thả nổi. Nước Mỹ vẫn duy trì
15
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
chuyển đổi đôla ra vàng, nhưng bởi vì các đồng tiền khác đã không còn được tự do
chuyển đổi ra đôla, do đó đôla thực chất cũng được thả nổi với các đồng tiền còn
lại.
Trong thời gian xảy ra đại chiến Thế giới lần thứ nhất, do các chính phủ thay
đổi chính sách tiền tệ nhằm tài trợ cho chiến tranh đã làm cho lạm phát bùng nổ.
Do Mỹ tham gia cuộc chiến muộn hơn (1917) và trung tâm tàn phá của cuộc chiến
là châu Âu, nên lạm phát ở chấu Âu cao hơn ở Mỹ. Kết quả là sức cạnh tranh
thương mại quốc tế của Mỹ tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, do đôla được chuyển
đổi ra vàng, trong khi các đồng tiền khác thì không, đã làm tăng sự hấp dẫn đầu tư
vào các tài sản ghi bằng đôla. Đôla ngày càng trở thành đồng tiền có vị thế trong
các giao dịch quốc tế. Tất cả những nhân tố này đều làm tăng cầu về đôla; và kết
quả là làm tăng luồng vàng ròng chảy vào Mỹ làm cho dự trữ bằng vàng của Mỹ
tăng lên nhanh chóng.
Sau cuộc chiến, các nước châu Âu tiếp tục thả nổi đồng tiền và hầu hết các
đồng tiền đã bị phát giá đáng kể so với đôla. Thả nổi đồng tiền chỉ được xem như
biện pháp tình thế tạm thời. Vấn đề chính trong thời gian này là: nên ấn định bản vị
vàng của đồng tiền quốc gia ở mức nào. Nhiều cuộc tranh luận nổ ra xung quanh
vấn đề có nên chọn mức bản vị vàng trước khi chiến tranh xảy ra hay không. Nhiều
nhà kinh tế, mà đứng đầu là Gustay Cassel, đã áp dụng học thuyết ngang giá sức
mua (PPP) để chứng minh cho sự cần thiết phải ấn định giá vàng cao hơn so với
thời kỳ trước chiến tranh. Họ lý luận rằng, để duy trì tương quan giữa giá vàng và
giá hàng hóa giống như trước chiến tranh thì phải tiến hành một cuộc giảm phát
nặng nề. Thay vì phải chịu đựng giảm phát, các quốc gia có thể lựa chọn phương án

ấn định lại mức bản vị vàng cho đồng tiền nước mình. Như vậy, thay vì phải chịu
đựng thiểu phát thì chỉ cần ấn định bản vị vàng ở mức cao hơn phù hợp với tỷ lệ
lạm phát của hàng hóa.
16
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Sự trở lại của chế độ bản vị vàng trong những năm 1920 đã không kéo dài
được lâu. Cuộc Đại suy thoái kinh tế vào năm 1929 đã làm sụp đổ hệ thống ngân
hàng trên thế giới và làm tan biến mọi lòng tin vào vàng. Gánh anựng đã đè lên
nước Anh và một cuộc hỗn loạn đã xảy ra vào ngày 21/9/1931, buộc nước Anh
cùng các nước khác phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và việc chuyển đổi đồng tiền
nước mình ra vàng, tiếp theo sau là Mỹ vào năm 1933. Hệ thống tiền tệ quốc tế
bước vào giai đoạn các khối tiền tệ không liên kết với nhau, như: Khối bảng Anh,
khối đôla Mỹ, và khối các đồng tiền tiếp tục gắn với vàng. Ngoài ra, các biện pháp
kiểm soát ngoại hối, thuế quan, và các hạn chế thương mại khác được áp dụng phổ
biến. Kết quả là: sự sụp đổ của hệ thống tài chính và thương mại quốc tế.
2.2.3 Chế độ lưu thông tiền giấy
Trong chế độ này tiền giấy thay thế cho vàng thực hiện chức năng của tiền
tệ, nhưng tiền giấy gần như không có giá trị mà nó chỉ là loại tiền mang dấu hiệu
giá trị mà thôi. Sở dĩ tiền giấy được thừa nhận chung là do nó được Nhà nước công
nhận, bảo đảm và bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Một lý do khác không kém
phần quan trọng là lòng tin của người dân đối với đồng tiền giấy. Một khi lòng tin
này mất đi thì người dân sẽ lựa chọn không nắm giữ đồng tiền giấy nữa và thay vào
đó nẵm giữ vàng hoặc những vật dụng có giá khác.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods (BWS)
Động cơ tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế mới là để tránh sự tan rã của các
mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế như đã từng xuất hiện vào những năm
1930. Vào những năm 1920, nước Đức dã từng chứng kiến những cuộc lạm phát
phi mã và vào năm 1929 nước Mỹ phải đứng nhìn sự sụp đổ của thị trường chứng
khoán, đây là tín hiệu báo trước một cuộc đại suy thoái sẽ diễn ra trên quy mô toàn
thế giới. Trong những năm 1930 được đánh dấu bằng sự mất cân đối nghiêm trọng

trong thương mại quốc tế, khiến cho hầu hết các nước buộc phải áp dụng các chính
sách như: bảo hộ mậu dịch, thiểu phát, phá giá tiền tệ, và thay đổi bản vị vàng.
17
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Năm 1944, trong một bản báo cáo có sức thuyết phục trước Liên đoàn các dân tộc
(League of Nations), Ragnar Nurke lý luận rằng những gì đã trải qua cho thấy chế
độ tỷ giá thả nổi không khuyến khích mà trái lại nó luôn kìm hãm phát triển thương
mại quốc tế, làm cho phân bố các nguồn lực trở nên không hiệu quả, và nhìn chung
đây là chế độ không có tính ổn định do các hoạt đông của đầu cơ tư nhân.
Những đặc điểm của Bretton Woods
- Hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng có thể điều chỉnh.
- Hình thành hai tổ chức quốc tế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International
Monetary Fund – IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (International
Bank for Recostruction and Development – IBRD) và thường được gọi tắt là Ngân
hàng Thế giới (World Bank – WB).
Nhiệm vụ của IMF là theo dõi và giám sát BWS, còn nhiệm vụ ban đầu của
WB là trợ giúp công cuộc tái thiiết những nền kinh tế châu Âu bị chiến tranh tàn
phá. Trong thực tế, WB được bao gồm hai tổ chức là IBRD và Hiệp hội Phát triển
Quốc tế (International Development Association – IDA); Hiệp hội có vai trò là huy
động vốn từ nước giàu để cho vay lại các nước nghèo kém phát triển (Less
Developed Countries – LDCs) với những điều kiện ưu đãi về lãi suất. Một tổ chức
thứ ba là Công ty Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation – IFC); IFC
được gắn với WB và cung cấp các dịch vụ về đánh giá rủi ro trong đầu tư cho các
thành phần kinh tế tư nhân của các nước LDCs.
BWS hình thành hệ thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh.
Theo thỏa ước về IMF, mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm
với USD và được phép dao động trong biên độ +/- 1%. Tỷ giá đồng USD tự nó
được cố định với giá vàng là $35/ounce.
Ý tưởng cố định tỷ giá USD vào giá vàng là để cho BWS có được sự tin cậy
tuyệt đối. Vào năm 1945, chính phủ Mỹ nắm giữ gần 70% lượng vàng dự trữ của

thế giới. Do đó, thật là có lý do để các NHTW nước ngoài tin tưởng và sẵn sàng
18
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
nắm giữ USD làm dự trữ của mình, bởi vì chính phủ Mỹ cam kết duy trì chuyển đổi
USD ra vàng không hạn chế tại mức giá cố định là $35/ounce; do đó các NHTW
biết rằng mỗi USD trong dự trữ đều được đảm bảo đổi ra vàng tại mức giá đã cho.
Trong thực tế, cam kết của chính phủ Mỹ chuyển đổi USD ra vàng là sự bảo đảm
duy trì sức mua củ USD ngang với sức mua của vàng.
Mỗi quốc gia được yêu cầu duy trì tỷ giá trung tâm của đồng bản tệ với
USD, nhưng trong những trường hợp cán cân thanh toán quốc tế bị mất cân đối cơ
bản (mất cân đối trong cán cân vãng lai) thì có thể tiến hành phá giá hay nâng giá
đồng tiền. Trong trường hợp tỷ giá thay đổi nhỏ hơn 10%, thì IMF không có ý kiến
can thiệp, nhưng nếu thay đổi ở mức cao hơn thì phải có sự chấp thuận của IMF.
Khả năng thay đổi tỷ giá trung tâm là giải pháp cuối cùng nhằm giúp cân bằng cán
cân thanh toán và đây được xem như một trong những đặc điểm cơ bản của BWS.
Khi hệ thống tỷ giá cố định được đưa vào vận hành tháng 3 năm 1947, thì
nhìn chung các đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi và lượng USD là rất hạn chế
để mua bán trên thị trường ngoại hối; trong khi đó hầu hết các NHTW đều cảm
thấy thiếu hụt dự trữ càng làm cho cầu về USD tăng lên mạnh mẽ. Trong những
năm đầu sau chiến tranh Thế giới II, nước Mỹ luôn bội thu cán cân vàng lai trong
khi các nước châu Âu thì bị thâm hụt nặng. Điều này xẩy ra vì sau chiến tranh năng
lực xuất khẩu của châu Âu bị tàn phá, mặt khác nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết
bị phục vụ cho sản xuất vài tài thiết đất nước lại tăng lên. Năm 1949, Mỹ tuyên bố
trợ cấp một khoản trọn gói cho các nền kinh tế châu Âu (trợ cấp Marshall). Sự ra
đời của “Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu – OEEC” (sau trở thành “Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế - OECD”) đã giúp giải quyết được vấn đề thiếu hụt USD,
góp phần thúc đẩy và phát triển quá trình tự do hóa thương mại làm cho thương
mại châu Âu phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, trong quá trình tích lũy USD, nhiều NHTW nước ngoài đã tiến
hành chuyển đổi USD ra vàng dẫn đến một dòng vàng chảy ra khỏi nước Mỹ.

19
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
Vào năm 1954, thị trường vàng ở London được mở cửa trở lại cho các nhà
buôn tư nhân. Trong năm 1961, do có đầu cơ xung quanh vấn đề USD phá giá so
với vàng, làm cho vàng chịu sức ép lên giá liên tục. Mục đích của thỏa hiệp này là
tăng cung ứng vàng trên thị trường tư nhân khi nhu cầu vàng tăng nhằm duy trì giá
vàng chính thức ổn định ở mức $35/ounce. Vào năm 1965, tổng thống Pháp De
Gaulle đã đọc bài diễn văn ca ngợi những ưu điểm của vàng trên cơ sở so sánh với
USD; sau bài diễn văn này cả nước Pháp bắt đầu chuyển đổi USD thành vàng tại
các NHTW Mỹ. Vào năm 1967, người ta phát hiện ra rằng tài snr nợ của Mỹ bằng
USD đã vượt quá số vàng dự trữ hiện có; do đó, nếu các NHTW nước ngoài tiếp
tục đổi USD dự trữ của mình ra vàng thì đồng nghĩa với sự sụp đổ của BWS. Để
tránh cho BWS khỏi sụp đổ, các NHTW đã thỏa thuận với nhau răng sẽ không tiếp
tục chuyển đổi USD dự trữ ra vàng nữa. Ngoài ra, các NHTW cũng quyết định từ
bỏ can thiệp lên giá vàng trên thị trường tư nhân. Như vậy, từ đây đã hình thành hai
loại giá vàng: giá vàng chính thức vẫn duy trì $35/ounce và giá vàng tự do được thả
nổi theo cung cầu trên thị trường.
Trong những năm đầu 1960, cán cân thanh tóan của Mỹ tương đối ổn định,
nhưng vào giữa những năm 1960 cùng với sự dính líu vào cuộc chiến tranh Việt
Nam làm cho cán cân thanh toán trở nên ngày một xấu đi. Người ta bắt đầu có cảm
nhận rằng USD và một số đồng tiền khác đã được định giá quá cao; trong khi đó
một số đồng tiền còn lại đang được định giá quá thấp. Những toan tính đầu cơ được
nhen nhóm và trở thành hiện thực khi vào năm 1967, một loạt các đồng tiền của các
nước phải điểu chỉnh tỷ giá.
Cho dù một số đồng tiền đã lên giá, song những nhà đầu cơ vẫn cho là chưa
đủ liều lượng. Hơn nữa giá vàng trên thị trường tự do cao hơn giá vàng chính thức
làm cho các nhà đầu cơ tin tưởng rằng một cộc phá giá USD là không tránh khỏi.
Một làn sóng đầu cơ khốc liệt tấn công vào USD bằng cách bán ồ ạt USD để mua
đồng Mác Đức và Yên Nhật. Trước áp lực của đầu cơ ngày càng tăng, buộc tổng
20

Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
thống Nixon vào ngày 15 tháng 8 năm 1971 phải chính thức tuyên bố “đồng USD
không tiếp tục được chuyển ra vàng nữa”.
Trong một nỗ lực nhằm khắc phục chế đột tỷ giá cố định, các nước G-10 đã
cố gắng giải quyết vấn đề đồng USD được định giá quá cao bằng cách phá giá USD
đối với vàng từ $35/ounce xuống $38/ounce và nâng giá các đồng tiền khác trung
bình 8% so với USD, ngoài ra còn cho phép mở rộng biên độ dao động của các
đồng tiền so với USD từ +/- 1% lên +/- 2,5%. Dù G-10 đã cố gắng duy trì sự ổn
định trở lại của BWS nhưng phá giá và thả nổi đồng tiền lại trở nên hiện thực sau
đó, đặc biệt là chênh lệch trong tỷ lệ lạm phát giữa các nước công nghiệp ngày
càng lớn.
Việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi được coi là chế độ tỷ giá ngược với BWS.
Như vậy đã không có bất cự một thỏa thuận chung nào được áp dụng cho chế độ tỷ
giá thả nổi và cũng không có thỏa thuận nào về những quy tắc áp dụng đối với
chính sách tỷ giá trong tương lai dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống Bretton
Woods.
21
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
3. GIÁ VÀNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG GIÁ VÀNG
Giá vàng tại một thời điểm nào đó, ở một địa điểm cụ thể nào đó thường là
kết quả tổng hợp của tình hình tài chính – tiền tệ, mức độ tin tưởng lạc quan hay bi
quan của công chúng về nền kinh tế, về các biến cố chính trị, quân sự tại thời điểm
đó. Nhưng trước hết, về cơ bản, giá vàng được cân bằng giữa hai lực lượng chủ
yếu: số cung và số cầu về vàng.
3.1 Mức cung về Vàng
Mức cung về vàng của thế giới bao gồm các nguồn chính: sản lượng của các
nước ngoài khối XHCN, số lượng bán của các nước XHCN, số lượng giao dịch về
vàng của các nước có dự trữ mạnh, sự tuần hoàn của các ngành công nghiệp có sử
dụng vàng.
3.1.1. xu hướng chung của mức cung

- Từ 1970 – 1987, mức cung đã tăng từ 1.034 tấn/năm lên 1.606 tấn/năm,
tăng 55%. Nhìn chung, mức phát triển của các hầm mỏ không đều: gia tăng mạnh
vào đầu thời kỳ và sau đó dừng lại ở mức ổn định 1.200 tấn/năm. Các nguồn cung
khác cũng biến động ít nhiều qua các năm với nhiều nguyên nhân khác nhau.
- Chi phí khai thác vàng của các hầm mỏ quan trọng là nhân tố chủ yếu của
giá vàng thế giới. Nam Phi khai thác được khoảng 40-50% sản lượng vàng hầm mỏ
với giá thành khoảng 200USD/oz. Còn 95% sản lượng vàng hầm mỏ của toàn thế
giới năm 1996 có giá thành bình quân khoảng 300USD/oz.
3.1.2. Mức khai thác hầm mỏ của các nước có sản lượng lớn
- Nam Phi khai thác vàng nhiều nhất thế giới từ năm 1905, đạt xấp xỉ 40-
50% sản lượng vàng khai thác hàng năm của thé giới. Hiện nay, 40 mỏ ở Nam Phi
đang được sáu nhóm tài chính Anh – Mỹ (dưới hình thức tập đoàn) tham gia khai
thác chéo bằng cách hoạt động hỗ trợ nhau. Nam Phi có mỏ Witwatersrand là mỏ
vàng lớn nhất thế giới, với trữ lượng hàng trăm nghìn tấn, được phát hiện từ năm
22
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
1884 và được khai thác liên tục từ đó đến nay. Sản lượng khai thác trung bình mỗi
năm lên đến 350 tấn.
- Canada, nước khai thác vàng đứng thứ hai sau Nam Phi. Năm 1987 đã cung
ứng cho thị trường 120 tấn. Suốt thập niên 70, mức thuế không ổn định đã ảnh
hượng mạnh đến tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài và làm cho sản lượng
khai thác hàng năm giảm liên tục, chỉ khoảng 50 tấn/năm.
Từ năm 1980, nhờ giá vàng thế giới biến động mạnh, Canada đã có hơn 150
dự án phục hồi và khai thác mới, đưa sản lượng khai thác hàng năm của nước này
đạt khoảng 130 tấn/năm.
- Mỹ - nước đứng thứ ba trong công nghiệp khai thác vàng từ năm 1985 trở
về trước. Gần đây, sản lượng vàng của Mỹ cung ứng cho thị trường đã vượt qua
Canada. Sự phát triển trong ngành khai thác vàng ở Mỹ cũng tương tự như ở
Canada. Cuộc biến động tăng giá vàng năm 1980 đã kích thích sản xuất, nâng sản
lượng khai thác của Mỹ lên năm lần. Cũng trong thời kỳ tăng trưởng này, một số

mỏ mới được phát hiện – nhất là ở vùng California – và là những mỏ lộ thiên nên
giá thành khai thác đạt thấp (từ 140 – 200 USD/oz năm 1996)
- Úc – sau hai cơn sốt vàng vào năm 1850 và 1890, Úc đã là một nước sản
xuất vàng quan trọng trên thế giới, cung cấp khoảng 70 tấn/năm. Trữ lượng ở các
mỏ cũ này cũng cạn dần đã làm giá thành khai thác ngày càng cao, nên sản lượng
khai thác của Úc đã giảm mạnh qua các năm. Chỉ từ năm 1980, hoạt động khai thác
vàng ở vùng này mới nhộn nhịp trở lại. Việc thăm dò khai thác và mua bán quyền
khai thác diễn ra mất trật tự, nhưng nhờ vậy mà trong vòng 8 năm (1980 – 1987),
sản lượng khai thác đã tăng gấp sáu lần, đạt mức 108 tấn/năm.
- Brazil là nước khai thác vàng mới đây đã đứng vào danh sách năm nước
sản xuất vàng lớn trên thế giới, nhưng lại có nhiều khả năng vươn lên hàng đầu
trong những thập niên tới. Vào những năm 1970, Brazil chỉ đạt sản lượng khiêm
23
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
tốn 9 tấn/năm, từ 1976 nâng sản lượng lên 35 tấn/năm. Sức sản xuất của Brazil tăng
đều đến năm 1996 đạt 80 tấn/năm.
Brazil được đặc biệt chú ý là do tiềm năng trữ lượng vàng của nước này
được đánh giá vào khoảng 30.000 tấn, lớn hơn trữ lượng đã biết của Nam Phi. Đây
là yếu tố quyết định cho tương lai thị trường vàng thế giới.
- Đối với những nước khai thác vàng khác, đều có những nét chung nhất:
chưa đánh giá đầy đủ tiềm năng trữ lượng, phương pháp khai thác rất thô sợ hoặc
bằng thủ công, sản lượng và năng suất chưa cao. Một số nước có sản lượng cao
nhưng việc khai thác lại do các nhà sản xuất nhỏ đảm nhận, họ thường thiếu vốn đề
mua kỹ thuật nước ngoài cần thiết cho việc khai thác mỏ với quy mô công nghiệp.
Trong khi đó, các công ty lớn, chuyên ngành khai thác mở vàng ở nước ngoài lại tỏ
ra thận trọng khi quyết định đầu tư vào các nước thuộc thế giới thứ ba, vì tình hình
chính trị khôn ổn định và các chính sách thuế khóa, tài chính luôn thay đổi.
3.1.3. Những giao dịch của các nước có dự trữ chủ lực và các cơ quan
quốc tế.
Qua thực tế, chung ta thấy có nhưng năm các quỹ dự trữ có số dư âm, phải

nhập khẩu nhiều hơn sản xuất, và ngược lại, những năm khác khi có số dư dương
thì cần xuất nhiều hơn nhập để cho quỹ dự trữ ở một mức hợp lý. Hiện nay, các
chính sách giao dịch về vàng từ quỹ dự trữ của các ngân hàng Trung ương và của
các cơ quan tiền tệ quốc tế được chia làm ba loại:
- Các cơ quan tiền tệ và ngân hàng Trung ương mua số vàng từ nguồn khai
thác và sản xuất ngay trong nước (như các nước thuộc châu Phi và châu Mỹ La
Tinh). Lý do là vàng sản xuất trongnước thường có giá thấp hơn giá vàng thế giới
lại được trả bằng bản tệ. Sự gia tăng các quỹ dự trữ này chủ yếu nhằm cải thiện khả
năng giải quyết các món nợ nước ngoài.
- Những nước không sản xuất vàng nhập vàng từ nước ngoài với một tỉ lệ
nhất định nào đó trong tổng quỹ dự trữ (cân đối cùng với các ngoại tệ khác) nhằm
24
Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua
hạn chế những rủi ro do đã quá lệ thuộc vào một đồng tiềnnào đó (chẳng hạn USD)
hoặc để thực hiện một chính sách kinh tế đối ngoại nào đó với các nước bạn hàgn.
Ví dụ như mua hàng để giảm mức thặng dư ngoại tệ trong cán cân thương mại giữa
một số nước khác so với Mỹ. Tiêu biểu cho nhóm này gồm có Ả Rập Xêut, Đài
Loan.
- Những nước bán đứt hoặc mua bán theo phương thức “Gold Swap” nhằm
có nguồn ngoại tệ thanh toán nợ nước ngoài. Tuy nhiên, khó có thể thanh toán nợ
nước ngoài bằng cách bán vàng dự trữ để rồi sau đó, lại vội vàng mua vàng trở lại
khi điều kiện kinh tế cho phép.
3.2 Mức cầu về vàng
Cần phân biệt vàng nguyên liệu dùng để chế biến ra sản phẩm hàng hóa và
vàng tiền tệ dùng như một phương tiện đầu tư, dự trữ. Ngoài ra, có một số lớn vàng
vừa là nguyên liệu (như vàng trong công nghiệp kim hoàn) vừa mang tính chất dự
trữ. Dạng vàng này thường tập trung ở Trung Đông, Viễn Đông và Ấn Độ. Mặt
khác, các khu vực công nghiệp có nhu cầu sử dụng vàng nguyên liệu còn có thể tự
cung ứng lại theo quy trình hoàn toàn (tái chế). Đối với vàng tiền tệ, mức cầu thuần
túy đáp ứng dữ trữ cũng rất khó xác định vì nó bị chi phối bới mức độ tăng giảm dự

trữ tùy theo sự thay đổi giá vàng tính bằng bản tệ và tình hình hối đoái.
3.2.1 Mức cầu của khu vực kim hoàn
- Khu vực kim hoàn là nguồn tiêu thu chủ yếu trên thị trường vàng, hàng
năm tiêu thụ từ ½ đến ¾ sản lượng vàng khai thác từ các hầm mỏ. Mức cầu hàng
năm của khu vực này đã tăng dần trong những năm gần đây. Mức cầu thuần túy của
khu vực kim hoàn cũng rất biến động tùy thuộc sự biến động của giá vàng tính
bằng bản tệ của nước tiêu thụ. Trong những năm vàng có xu hướng tăng giá, phong
trào đúc lại nữ trang phát triển mạnh. Ngược lại, việc sản xuất nữ trang tại các nước
phát triển được ổn định hơn. Từ đó cho thấy việc mua sắm nữ trang ở mỗi nước có
một ý nghĩa khác nhau. Tại châu Âu, vật trang sức nói lên vị trí xã hội. Tại Trung
25

×