Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đạo đức kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 82 trang )








BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH

1
Lời mở đầu
Đạo đức kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
và cũng là vấn đề gây nhiều hiểu nhằm nhất trong xã hội kinh doanh hiện
nay.
Trong vòng hơn 20 năm vừa qua, đạo đức kinh doanh đã trở thành
một vấn đề thu hút được nhiều quan tâm. Ngày nay, các doanh nghiệp phải
đối mặt với sức ép của người tiêu dùng về các hành vi đạo đức, các quy định
pháp luật cũng được thiết kế khuyến khích các hành vi tốt của doanh nghiệp
- từ hoạt động marketing đến bảo vệ môi trường.
Hoạt động kinh doanh tác động đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống
xã hội, nên nhà kinh doanh cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp và không
thể hoạt động ngoài vòng pháp luật mà chỉ có thể kinh doanh những gì pháp
luật xã hội không cấm. Phẩm chất đạo đức kinh doanh của nhà doanh
nghiệp là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên uy tín của nhà kinh doanh,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt được những thành
công trên thương trường, tồn tại và phát triển bền vững.
Việc xây dựng đạo đức kinh doanh, trước hết, là trách nhiệm của


chính các doanh nghiệp; đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của nhà nước,
của cộng đồng và toàn xã hội. Xây dựng đạo đức kinh doanh là nhiệm vụ
cần được quan tâm, coi trọng nhằm hình thành động lực thúc đẩy việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Chính vì điều này mà nhóm em chọn đề tài “Đạo đức kinh doanh”.
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót,mong thầy cô và
các bạn đóng góp để bài làm của nhóm em được hoàn thiện hơn.
Phương pháp nghiên cứu:
Nhận diện các vấn đề đạo đức;
Nghiên cứu các hành vi đạo đức trong kinh doanh;
Xậy dựng đạo đức trong kinh doanh;
Đưa ra biện pháp khắc phục và giải quyết các hạn chế và thiếu sót.
Thông tin được thu thập từ:
Sách “ Đạo đức kinh doanh & Văn hóa doanh nghiệp”
“PGS.TS.Nguyễn Mạnh Quân”

2
Website: />doanh 316958.html
Website: />nam-thuc-tai-va-giai-phap.316952.html
Và một số thông tin từ các website khác.



ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Phần 1. Khái niệm đạo đức và kinh doanh
A. Đạo đức:
1. Đạo đức là gì?
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm
điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan
hệ với người khác và với xã hội.

2. Sự khác nhau giữa đạo đức và luật pháp:

ĐẠO ĐỨC
LUẬT PHÁP
Tính cưỡng chế
Tự nguyện
Bắt buộc
Thể hiện văn bản
Không

Phạm vi điều chỉnh
Rộng bao quát mọi
lĩnh vưc của thế giới
tinh thần .
Hẹp chỉ điều chỉnh
hành vi liên quan đến
chế độ xã hội, chế độ
nhà nước .
Đạo lý đúng đắn tồn tại
bên trên luật.
Chỉ làm rõ những mẫu
số chung nhỏ nhất của
các hành vi hợp lẽ phải.
B. Kinh doanh:
1. Kinh doanh là gì?
Kinh doanh là toàn bộ hay một phần quá trình đầu tư từ sản xuất,
tiêu thụ đến cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Là hoạt động kinh tế xã hội thường ngày.
2. Các loại hình kinh doanh:
a. Sản xuất kinh doanh:



Là hoạt động của các doanh nghiệp chế tạo các sản phẩm cho xã hôi,
bán được trên thị trường và đạt một mức lời nhất định.
b. Thương mại:
Góc ở chữ “mãi mại”, mua ở chỗ nhiều, bán ở chỗ ít; mua ở chỗ rẻ,
bán ở chỗ đắt.
Thương mại không chỉ đơn thuần là hành vi mua bán hàng hóa, mà
còn là các dịch vụ mua bán như: môi giới, đại lý … và xúc tiến thương mại.
c. Dịch vụ:
Là các hoạt động đáp ứng nhu cầu con người một cách hợp pháp để
hưởng thù lao.
Ngày nay, tỷ lệ dịch vụ đóng góp vào GDP của các quốc gia phát triển
rất cao.
d. Đầu tư:
Phải góp vốn cụ thể để làm ăn chính đáng thì mới gọi là đầu tư.
Có đầu tư trong nước và nước ngoài: đầu tư trực tiếp FDI và đầu tư
gián tiếp FII .
3. Vấn đề xã hội của hoạt động kinh doanh:
Hoạt động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi công dân và
an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường làm nảy sinh ra nhiều
vấn đề xã hội cần được giải quyết như:


Những vấn đề này cần được giải quyết như thế nào?
a. Lợi nhuận:
Lợi nhuận ngày nay phải hiểu là “hai bên cùng có lợi”, lợi ích cá nhân
phải đặt trong nhiệm vụ xã hội.
b. Cạnh tranh:
Cạnh tranh luôn phải đặt trong lợi ích xã hội để không làm thiệt hại

quyền lợi người tiêu dung, mà phải tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn.
c. Môi trường:
Sản xuất ngày nay nảy sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài
nguyên và mất cân bằng sinh thái.
Phần 2. Đạo đức kinh doanh:
A. Sơ lược đạo đức kinh doanh:
I. Khái niệm đạo đức kinh doanh:
Là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh,
đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Vấn đề
xã hội
Cạnh
tranh
Lợi
nhuận
Môi
trường


II. Lịch sử phát triển của đạo đức kinh doanh:
1. Ở phương Đông, theo quan điểm nho giáo thì hoạt động kinh
doanh không được xem trọng do tư tưởng trọng nông.
Phường buôn bán là những kẻ tiểu nhân, ti tiện.
Hành vi “buôn bán” bị coi rẻ, bị đánh đồng với các hành vi “lừa
đảo”.
“Đồ con buôn!” là một câu chửi rất nặng nề ở miền bắc Việt Nam
cách đây 30 năm.
2. Ở phương Tây, đạo đức kinh doanh xuất phát từ tín điều tôn
giáo:
a. Luật tiên tri Mose Law) – Do Thái giáo:

Tới mùa thu hoạch không nên gặt hết.
Ngày Sabbath chủ và thợ được nghỉ.
Sau 50 năm, mọi món nợ được hủy bỏ.
b. Giáo hội công giáo đề ra tiêu chuẩn:
Tiền nào của nấy.
Không trả lương cho thợ dưới mức có thể sống được.
c. Luật hồi giáo ngăn cản việc cho vay lãi.
3. Đạo đức kinh doanh thời cận đại:
a. Nhiều tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh đã được luật hóa:
Luật chống độc quyền Sherman - act of America 1896 .
Luật tiêu chuẩn chất lượng.
Luật bảo vệ người tiêu dùng.
b. Hoa Kỳ 1900 – 1970:
Trước 1960: Giáo hội đề nghị mức lương công bằng, quyền công
dân, quan tâm mức sống và các giá trị khác.
Năm 1963, Kennedy đã đưa ra thông báo đặc biệt bảo vệ người tiêu
dùng.
Năm 1965, yêu cầu ngành ôtô coi trọng sự an toàn và sự sống của
người sử dụng.


Năm 1970, luật về kiểm tra phóng xạ, luật về nước sạch, luật về
chất độc hại.
c. Hoa Kỳ - thập niên 1970s:
Đạo đức kinh doanh trở thành một lĩnh vực nghiên cứu.
Bắt đầu viết và giảng dạy về trách nhiệm xã hội, những nguyên tắc
cần được áp dụng trong kinh doanh.
Thành lập trung tâm nghiên cứu đạo đức kinh doanh.
Cuối những năm 70, bùng nổ vấn nạn hối lộ, quảng cáo lừa gạt,
thông đồng cấu kết với nhau để đặt giá: đạo đức kinh doanh đã trở thành vấn

đề nóng của xã hội.
d. Hoa Kỳ - thập niên 1980s:
Hơn 30 cơ quan nghiên cứu đạo đức kinh doanh được thành lập.
500 khóa học và 70.000 sinh viên được học về đạo đức kinh doanh
ở các trường Đại học ở Mỹ.
Các công ty lớn như Johnson & Jondson, Carterpilar đã thành lập
ủy ban đạo đức và chính sách xã hội để giải quyết những vần đề trong công
ty.
e. Hoa Kỳ - thập niên 1990s:
Chính quyền Clinton:
Thể chế hóa đạo đức kinh doanh.
Ủng hộ thương mại tự do.
Ủng hộ trách nhiệm của doanh nghiệp.
11/1991, chỉ dẫn xử án đối với các tổ chức vi phạm.
Khuyến khích các doanh nghiệp có biện pháp trành hành vi vô đạo
đức.
f. Thế giới - từ năm 2000 đến nay:
Đạo đức kinh doanh là lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm.
Đạo đức kinh doanh được xem xét từ nhiều góc độ: luật pháp, triết
học và các khoa học xã hội khác.
Đạo đức kinh doanh đã gắn chặt khái niệm trách nhiệm đạo đức với
việc ra quyết định.


Các hội nghị thường xuyên về đạo đức kinh doanh.
B. Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh:
I. Tính trung thực:
Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa,
giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong
chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu

thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm. Thực hiện
những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục, trung thực trong giao tiếp với
bạn hàng (giao dịch, đàm phán, kí kết) và người tiêu dùng: không làm hàng
giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn
hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp, trung thực ngay
với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, khiếm công vi tự.
Chữ “Tín” là đức tính hàng đầu của doanh nhân, là tôn trọng sự thật
và lẽ phải trong hành vi ứng xử, là cơ sở cho các quan hệ hợp tác trong hoạt
động kinh doanh.
“Một sự thất tín, vạn sự bất tin”.
II. Tôn trọng con người:
Đối với những người cộng sự và dưới quyền: tôn trọng phẩm giá,
quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển
của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn
hợp pháp khác.
Đối với khách hàng: tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh: tôn trọng lợi ích của đối thủ.
III. Tính sáng tạo:
Hoạt động kinh doanh diễn ra trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Để có thể tồn tại và phát triển nhất thiết đòi hỏi bạn phải sang tạo biết kết
hợp tính khoa học và tính nghệ thuật trong kinh doanh .
Hãy nghĩ đến điều người khác chưa nghĩ,
hãy làm điều người khác chưa làm,
Nếu họ làm rồi, hãy làm … tốt hơn!


C. Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội:
I. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp:
Là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền
vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng

về giới tính, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào
tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng… theo cách có lợi cho cả
doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
II. Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội:

1. Khía cạnh kinh tế:
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá
có thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp
Kinh tế
Đạo đức
Nhân văn
Pháp lý
TRÁCH
NHIỆM


với các nhà đầu tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những
nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là
phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ
thống xã hội.
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp
phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo
công ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ
hội phát triển nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi
trường lao động an toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân nơi làm
việc.
i với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là

cung cấp hàng hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn
liên quan đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về
sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh.
Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, trách nhiệm kinh tế của doanh
nghiệp là bảo tồn và phát triển các giá trị và tài sản được ủy thác. Những giá
trị và tài sản này có thể là của xã hội hoặc cá nhân được họ tự nguyện giao
phó cho tổ chức, doanh nghiệp - mà đại diện là người quản lý, điều hành -
với những điều kiện ràng buộc chính thức.
Ví dụ: Yêu cầu về đạo đức đối với chiến lược
kinh doanh
Ken Wasch, chủ tịch hiệp hội Software Publishers
Association Mỹ đã tuyên bố rằng “Rõ rang công lý đã
xác nhận rằng chiếm giữ một sân chơi riêng trong công
nghệ và phần mềm máy tính là nhân tố quyết định để
đảm bảo sự lựa chọn của người tiêu dùng và tiếp tục
phát triển sản phẩm”. Tuyên bố này đã được đưa ra sau
cuộc điều tra của Bộ Tư pháp Mỹ. Các đối thủ cạnh
tranh của Microsoft đã khiếu nại rằng Microsoft
Network Explorer đã được “bán kèm” với phần mêm
Windows có tác dụng quy định bộ kết nối Internet mà
người tiêu dùng phải sử dụng. Vào thời điểm đó, hệ
thống điều hành của Microsoft được khoảng 90% người
khách hàng sử dụng. Như vậy, người tiêu dùng và các
đối thủ cạnh tranh cho rằng Microsoft có thể có quyền


lực độc quyền quá lớn trên thị trường phần mềm máy
tính.
Đối với các bên liên đới khác, nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp là
mang lại lợi ích tối đa và công bằng cho họ. Nghĩa vụ này được thực hiện

bằng việc cung cấp trực tiếp những lợi ích này cho họ qua hàng hoá, việc
làm, giá cả, chất lượng, lợi nhuận đầu tư, vv
Nghĩa vụ kinh tế còn có thể được thực hiện một cách gián tiếp thông
qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong kinh doanh phản ánh những khía cạnh liên
quan đến lợi ích của người tiêu dùng và lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có thể sử dụng để phân phối cho người lao động và chủ sở hữu. Các
biện pháp cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể làm thay đổi khả năng
tiếp cận và lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng ; lợi nhuận và tăng trưởng
trong kinh doanh so với các hãng khác có thể tác động đến quyết định lựa
chọn đầu tư của các chủ đầu tư. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã rất ý
thức trong việc lựa chọn biện pháp cạnh tranh; và triết lý đạo đức của doanh
nghiệp có thể có ý nghĩa quyết định đối với việc nhận thức và lựa chọn
những biện pháp có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Những biện pháp
cạnh tranh như chiến tranh giá cả, phá giá, phân biệt giá, có định giá, câu kết
có thể làm giảm tính cạnh tranh, tăng quyền lực độc quyền và gây thiệt
hại cho người tiêu dùng. Lạm dụng các tài sản trí tuệ hoặc bí mật thương
mại một cách bất hợp pháp cũng là biện pháp thường thấy trong cạnh tranh.
Điều này không chỉ liên quan đến vấn đề sở hữu và lợi ích mà còn liên quan
đến quyền của con người.
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế
trong kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý.
2. Khía cạnh pháp lý:
Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức
đối với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được
cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và
an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các
nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản,
nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh:



(1) Điều tiết cạnh tranh:
Do quyền lực độc quyền có thể dẫn đến những thiệt hại cho xã
hội và các đối tượng hữu quan, như nền kinh tế kém hiệu quả do
“mất không” về phúc lợi xã hội, phân phối phúc lợi xã hội không
công bằng do một phần “thặng dư” của người tiêu dùng hay người
cung ứng bị tước đoạt, như đã được chứng minh trong lý thuyết Kinh
tế học thị trường. Khuyến khích cạnh tranh và đảm bảo môi trường
cạnh tranh lành mạnh là cách thức cơ bản và quan trọng để điều tiết
quyền lực độc quyền. Vì vậy, nhiều nước đã thông qua nhiều sắc luật
nhằm kiểm soát tình trạng độc quyền, ngăn chặn các biện pháp định
giá không công bằng (giá độc quyền) và được gọi chung là các luật
pháp hỗ trợ cạnh tranh.
(2) Bảo vệ người tiêu dùng:
Để bảo vệ người tiêu dùng, luật pháp đòi hỏi các tổ chức kinh
doanh phải cung cấp các thông tin chính xác về sản phẩm và dịch vụ
cũng như phải tuân thủ các tiêu chuẩn về sự an toàn của sản phẩm.
Điển hình về các luật bảo vệ người tiêu dùng là những quy định
giám sát chặt chẽ về quảng cáo và an toàn sản phẩm. Mặc dù công
nhận trách nhiệm tự bảo vệ và “tự thông tin” của mọi đối tượng và
người tiêu dùng, luật pháp vẫn cố gắng bảo vệ người tiêu dùng qua
việc nhấn mạnh tính chất khác nhau về trình độ nhận thức và khả
năng tham gia khi ra quyết định tiêu dùng của các đối tượng khác
nhau, trong đó người sản xuất và người quảng cáo có trình độ cao
hơn hẳn và năng lực gắn như tuyệt đối so với những đối tượng khác.
Luật pháp cũng bảo vệ những người không phải đối tượng tiêu
dùng trực tiếp. Do các biện pháp kinh doanh và marketing chủ yếu
được triển khai thông qua các phương tiện đại chúng, chúng có thể
gây tác động khác nhau đồng thời đến nhiều đối tượng. Ngay cả

những tác động bất lợi nằm ngoài mong đợi đối với các nhóm người
không phải là “đối tượng mục tiêu” vẫn bị coi là phi đạo đức và
không thể chấp nhận được, vì có thể dẫn đến những hậu quả không
mong muốn ở những đối tượng này.
Trong những năm gần đây, mối quan tâm của người tiêu dùng
và xã hội không chỉ dừng lại ở sự an toàn đối với sức khỏe và lợi ích
của những người tiêu dùng trong quá trình sử dụng các sản phẩm
dịch vụ cụ thể, mà được dành cho những vấn đề mang tính xã hội,
lâu dài hơn liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm dịch vụ như
bảo vệ môi trường.


(3) Bảo vệ môi trường:
Luật bảo vệ môi trường được ban hành lần đầu tiên vào những
năm 1960 ở nước Mỹ, xuất phát từ những câu hỏi đặt ra từ việc phân
tích về lợi ích và thiệt hại của một quyết định, một hoạt động kinh
doanh đối với các đối tượng khác nhau trong phạm vi toàn xã hội.
Kết quả phân tích đã không làm thỏa mãn những nhà phân tích do
những khiếm khuyết và khó khăn trong việc xác định các đối tượng
hữu quan và việc đo lường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối
với họ. Điều trở nên đặc biệt khó khi đánh giá hệ quả lâu dài gây ra
đối với sức khỏe con người, hiệu quả sản xuất và nguồn lực chung
của xã hội do những quyết định và hoạt động sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng hiện nay gây ra.
Những vấn đề phổ biến được quan tâm hiện nay là việc thải
chất thải độc hại trong sản xuất vào môi trường không khí, nước, đất
đai, và tiếng ồn. Bao bì được coi là một nhân tố quan trọng của các
biện pháp marketing, nhưng chúng chỉ có giá trị đối với gười tiêu
dùng trong quá trình lựa chọn và bảo quản hàng hóa. Chất thải loại
này ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhất là ở các đô thị, khi các

hãng sản xuất ngày càng coi trọng yếu tố marketing này.
Ví dụ: Luật bảo vệ môi trường ở Mỹ
Clean Air Act, 1970. Quy định tiêu chuẩn chất
lượng không khí, yêu cầu lập kế hoạch thực thi tiêu
chuẩn này và phải được chính quyền phê chuẩn.
National Environmental Policy Act, 1970. Xây
dựng các mục tiêu chính sách tổng quát cho các cơ
quan chính phủ; thành lập Hội đồng Chất lượng Môi
trường làm cơ quan điều phối.
Coastal Zone ManagementAct, 1972. Cung cấp
nguồi tài chính cho các tiểu bang để ngăn chặn tình
trạng ô nhiễm bờ biển quá mức.
Federal Water Pollution Control Act, 1972. Đảm
bảo việc ngăn chặn, hạn chế, tiến tới loại trừ tình trạng
ô nhiễm nguồn nước.
Noise Pollution Control Act, 1972. Đảm bảo việc
kiểm soát tiếng ồn phát ra từ một số hạng mục sản phẩm
cơ khí nhất định.


Toxic Substances Control Act, 1972. Yêu cầu thử
nghiệm và hạn chế sử dụng một số hóa chất nhất định,
nhằm bảo đảm sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Bên cạnh những vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, vật chất,
vấn đề bảo vệ môi trường văn hóa – xã hội, phi vật thể cũng được
chú trọng ở nhiều quốc gia. Tác động của các biện pháp và hình thức
quảng cáo tinh vi, đặc biệt là thông qua phim ảnh, có thể dẫn đến
những trào lưu tiêu dùng, làm xói mòn giá trị văn hóa và đạo đức
truyền thống, làm thay đổi giá trị tinh thần và triết lý đạo đức xã hội,
làm mât đi sự trong sáng và tinh tế của ngôn ngữ. Những vấn đề này

cũng được nhiều đối tượng và quốc gia quan tâm.
(4) An toàn và bình đẳng:
Luật pháp cũng quan tâm đến việc đảm bảo quyền bình đẳng
của mọi đối tượng khác nhau với tư cách là người lao động. Luật
pháp bảo vệ người lao động trước tình trạng phân biệt đối xử. Sự
phân biệt có thể là vì tuổi tác, giới tính, dân tộc, thể chất. Luật pháp
thừa nhận quyền của các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng những
người có năng lực nhất vào các vị trí công tác khác nhau theo yêu
cầu trong bộ máy tổ chức. Tuy nhiên, luật pháp cũng ngăn chặn việc
sa thải người lao động tùy tiện và bất hợp lý. Những quyền cơ bản
của người lao động cần được bảo vệ là quyền được sống và làm việc,
quyền có cơ hội lao động như nhau. Việc sa thải người lao động mà
không có những bằng chứng cụ thể về việc người lao động không đủ
năng lực hoàn thành các yêu cầu hợp lý của công việc bị coi là vi
phạm các quyền nêu trên.
Ví dụ: Lao động nữ - nhiều rào cản trên đường
mưu sinh và thăng tiến
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam VCCI khoảng 31% trong số 70.000 doanh nghiệp
vừa và nhỏ đăng ký hoạt động tại Việt Nam là do phụ nữ
làm chủ. Trong khi cả hai giới doanh nhân nam và nữ
đề đối mặt với nhiều rào cản do việc khó tiếp cận với
vốn và công nghệ thì phụ nữ lại phải đương đầu thêm
với sự kiềm hãm khi phấn đấu để đạt được sự bình đẳng
trong vai trò lao động sản xuất và tái sản xuất.
Theo kết quả khảo sát của VCCI và Swisscontact,
“có sự phân biệt rõ rệt trong đối xử với lao động nữ”.


Mặc dù lao động nữ chiếm đến 41% số lao động trong

các doanh nghiệp được khảo sát, chủ yếu họ chỉ được
phân công thực hiện những công việc giản đơn thuộc
các khâu hoàn tất sản phẩm và gói bao. Đó là những
công việc được trả công thấp, đồng thời cũng ít có cơ
hội thăng tiến và nắm bắt kỹ năng nghề nghiệp mới.
Cũng theo báo cáo khảo sát trên, đến 70% doanh
nghiệp được khảo sát không cho lao động nữ được
hưởng trợ cấp thai sản, thậm chí còn đe dọa sa thải lao
động nữ nếu kết hôn và có thai. Nhiều doanh nghiệp trả
lương cho người lao động khi sinh con thấp hơn mức
quy định của Luật Lao động và tiền trợ cấp thai sản
thường bị bỏ qua, không được đề cập đến trong hợp
đồng lao động khi thỏa thuận với công nhân.
Từ năm 1996, Chính phủ Việt Nam đã có chính
sách Nghị định 23/CP ưu đãi cho doanh nghiệp sử
dụng lao động nữ và Bộ Tài chính cũng đã có hướng
dẫn cụ thể để thực thi. Tuy nhiên, đến nay chỉ có rất ít
doanh nghiệp trong diện này được hưởng ưu đãi. Hiện
nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có trên 100
doanh nghiệp được công nhận có đủ điều kiện để hưởng
chính sách ưu đãi nhưng thực tế mới chỉ có 1 doanh
nghiệp chính thước được hưởng.
Luật pháp cũng bảo vệ quyền của người lao động được hưởng
một môi trường làm việc an toàn. Sự khác nhau về đặc trưng cấu trúc
cơ thể và thể lực có thể dẫn đến việc nhận thức và khả năng đương
đầu với những rủi ro trong công việc khác nhau. Luật pháp bảo vệ
người lao động không chỉ bằng cách ngăn chặn tình trạng người lao
động phải làm việc trong các điều kiện nguy hiểm, độc hại, mà còn
bảo vệ quyền của họ trong việc “được biết và được từ chối các công
việc nguy hiểm hợp lý”. Trong trường hợp các công việc nguy hiểm

được nhận thức đầy đủ và được người lao động tự nguyện chấp
nhận, luật pháp cũng buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo trả mức
lương tương xứng với mức độ nguy hiểm và rủi ro của công việc đối
với người lao động.
(5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái:


Hầu hết các trường hợp vi phạm về đạo đức đều là do các
doanh nghiệp vượt khỏi giới hạn của các chuẩn mực đạo đức do
doanh nghiệp hay ngành quy định. Những chuẩn mực này một khi đã
được thể chế hóa thành luật để áp dụng rộng rãi đối với mọi đối
tượng, các trường hợp vi phạm đạo đức sẽ trở thành vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, ranh giới giữa chuẩn mực đạo đức và pháp lý
thường rất khó xác định, nhất là đối với những người quản lý ít được
đào tạo kỹ về luật. Khó khăn là những người quản ý chủ yếu được
đào tạo để ra các quyết định tác nghiệp kinh doanh nhưng đồng thời
lại phải chịu trách nhiệm về cả những vấn đề đạo đức và pháp lý.
Hầu như không thể tách rời các khía cạnh này trong một quyết định
kinh doanh, và những bất cần về mặt đạo đức trong hành vi kinh
doanh rất dễ dẫn đến những khiếu nại dân sự. Hệ quả về mặt tinh
thần, đạo đức và kinh tế thường rất lớn. Hành vi sai trái bị phát hiện
càng chậm, trách nhiệm hay vị trí của những người có hành vi sai
trái càng cao, hậu quả càng nặng nề. Xử lý càng thiếu nghiêm minh,
hành vi sai trái càng lan rộng, hậu quả càng nghiêm trọng và càng
khó khắc phục.
Phát hiện sớm những hành vi sai trái hay dấu hiệu sai trái tiềm
tàng có thể giúp khắc phục có hiệu quả và giảm thiểu hậu quả xấu.
Tuy nhiên, những người phát hiện sai trái thường xuyên phải chịu
những rủi ro và bất hạnh khi doanh nghiệp không có biện pháp hữu
hiệu phát hiện, xử lý sai trái hay bảo vệ người cáo giác. Xây dựng

các chương trình giao ước đạo đức trong đó thiết lập được một hệ
thống phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành vi sai trái,
và bảo vệ người phát giác là một trong những biện pháp hữu hiệu
được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm.
Những người quản lý quan niệm rằng “đạo đức là tuân thủ
nghiêm ngặt các yêu cầu về pháp lý” không thể mang lại cho doanh
nghiệp một sắc thái riêng mà chỉ là một hình ảnh mờ nhạt. Đó là vì
những cam kết về pháp lý chỉ có tác dụng ngăn chặn vi phạm pháp
luật. Những giá trị đạo đức riêng của doanh nghiệp mới có tác dụng
tạo nên hình ảnh cho chúng. Vì vậy, các chương trình giao ước đạo
đức chỉ có thể góp phần tạo nên hình ảnh đáng trân trọng đối với
doanh nghiệp nếu chúng lấy những giá trị và chuẩn mực đạo đức
đúng đắn đã được xây dựng làm động lực.
Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực
thi các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ
không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình.


3. Khía cạnh đạo đức:
Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
những hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng
không được quy định trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa
thành luật.
Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng,
công bằng vượt qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ nhũng
hành vi và hoạt động mà các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội
mong đợi từ phía các doanh nghiệp dù cho chúng không được viết thành
luật.
Các công ty phải đối xử với các cổ đông và những người có quan tâm
trong xã hội bằng một cách thức có đạo đức vì làm ăn theo một cách thức

phù hợp với các tiêu chuẩn của xã hội và những chuẩn tắc đạo đức là vô
cùng quan trọng. Vì đạo đức là một phần của trách nhiệm xã hội nên chiến
lược kinh doanh cần phải phản ánh một tầm hiểu biết, tầm nhìn và các giá trị
của các thành viên trong tổ chức và các cổ đông và hiểu biết về bản chất đạo
đức của những sự lựa chọn mang tính chiến lược.
Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông
qua những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ
mệnh và chiến lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và
giá trị đạo đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi
thành viên trong công ty và với các bên hữu quan.
Ví dụ:
“Mục tiêu của chúng tôi ở Unilever là đáp ứng
nhu cầu hàng ngày của con người ở khắp mọi nơi - đoán
trước nguyện vọng của khách hàng và người tiêu dùng
của chúng tôi, đáp ứng một cách sáng tạo và cạnh tranh
với các sản phẩm và dịch vụ có thương hiệu nâng cao
chất lượng.
Gốc rễ sâu của chúng tôi trong văn hoá bản địa
và các thị trường trên toàn thế giới là sự thừa kế không
thể sánh kịp của chúng tôi và nền tảng cho phát triển
trong tương lai của chúng tôi.
Chúng tôi sẽ mang kiến thức và kinh nghiệm quốc
tế của mình để phục vụ những người tiêu dùng trong
nước - thực sự là một công ty đa quốc gia đa nội địa (a


truly multilocal multinational).
Thành công dài hạn của chúng tôi cần phải có sự
cam kết toàn bộ cho các chuẩn mực đặc biệt về kết quả
hoạt động và năng suất, về làm việc cùng nhau một cách

hiệu quả và về mong muốn nắm lấy những ý tưởng mới
và liên tục học hỏi.
Chúng tôi tin rằng để thành công cần phải có các
chuẩn mực cao của hành vi doanh nghiệp đối với nhân
viên, người tiêu dùng, xã hội và thế giới mà chúng ta
đang sống.
Đây là con đường của Unilever để đi đến phát
triển bền vững, sinh lợi cho hoạt động kinh doanh của
chúng tôi và tạo ra giá trị dài hạn cho các cổ đông và
nhân viên của mình.”
Những người quản lý có kinh nghiệm thường chọn cách thực hiện
mục tiêu tổ chứ thông qua việc tác động vào hành vi của người lao động.
Kinh nghiệm quản lý cho thấy, nhận thức của một người tao động thường bị
ảnh hưởng bởi quan điểm và hành vi đạo đức của những người xung quanh,
cộng sự. Tác động này nhiều khi còn lớn hơn sự chi phối bởi quan niệm và
niềm tin của chính người đó về sự đúng-sai, và đôi khi làm thay đổi quan
niệm và niềm tin của họ. Vì vậy, việc tạo lập một bầu không khí đạo đức
đúng đắn trong tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều chỉnh hành
vi đạo đức của mỗi nhân viên. Những nhân cách đạo đức được chọn làm
điển hình có tác dụng như những tấm gương giúp những người khác soi rọi
bản than và điều chỉnh hành vi.
Ví dụ: Sứ mệnh của công ty FBT
“FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới,
hung mạnh, bằng bỗ lực, lao động, sáng tạo và công
nghệ, góp phần hưng thịnh quốc gia, tao điều kiện cho
tất cả mọi người phát triển tài năng của mình, đem lại
cho mỗi thành viên một cuộc sống đầy đủ về vật chất và
phong phú về tinh thần”.
Được thành lập vào tháng 9 năm 1988 bởi những
nhà trí thức trẻ tuổi với hai bàn tay trắng, một bầu nhiệt

huyết và hoài bão vượt lên trên cái đói, nghèo bằng
cách làm chủ tri thức, những người sáng lập công ty


FPT phải mất 5 năm suy nghĩ và vật lộn với thực tế mới
khẳng định được rõ rang sự mệnh nêu trên của mình.
Để thực hiện sứ mệnh, FPT đã chọn cách tiếp cận và
học hỏi những kiến thức tiên tiến nhất và kinh nghiệm
thế giới trong lĩnh vực tin học, họ “học” rất nhanh và
tiếp thu rất tốt. Văn hóa doanh nghiệp FPT được xây
dựng không chỉ bằng tình bằng hữu, tôn trọng tài năng,
mà còn ở việc luôn có ý thức giữ gìn những giá trị của
văn hóa Việt Nam, như các lễ nghi theo phong tục Tết
cổ truyền Việt Nam, lấy đó làm bản sắc riêng của chính
mình.
Sau 15 năm, FPT tự đánh giá là đã đạt được một
phần sứ mệnh của mình là “trở thành một tập đoàn
hùng mạnh” với doanh số hàng năm trên 200 triệu dôla,
đứng đầu quốc gia về nhiều lĩnh vực quan trọng trong
ngành công nghệ thông tin và còn là biểu tượng về khát
vọng Việt Nam sánh vai bốn bể, năm châu.
4. Khía cạnh nhân văn (lòng bác ái).
Khía cạnh nhân văn trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
những hành vi và hoạt động thể hiện những mong muốn đóng góp và hiến
dâng cho cộng đồng và xã hội. Ví dụ như thành lập các tổ chức từ thiện và
ủng hộ các dự án cộng đồng là các hình thức của lòng bác ái và tinh thần tự
nguyện của công ty đó.
Những đóng góp có thể trên bốn phương diện:
(1) Nâng cao chất lượng cuộc sống;
(2) San sẻ bớt gánh nặng cho chính phủ;

(3) Nâng cao năng lực lãnh đạo cho nhân viên;
(4) Phát triển nhân cách đạo đức của người lao động.
Khía cạnh này liên quan tới những đóng góp về tài chính và nguồn
nhân lực cho cộng đồng và xã hội lớn hơn để nâng cao chất lượng cuộc
sống. Khía cạnh nhân ái của trách nhiệm pháp lý liên quan tới cơ cấu và
động lực của xã hội và các vấn đề về chất lượng cuộc sống mà xã hội quan
tâm.
Người ta mong đợi các doanh nghiệp đóng góp cho cộng đồng và
phúc lợi xã hội.


Các công ty đã đóng góp những khoãng tiền đáng kể cho giáo dục,
nghệ thuật, môi trường và cho những người khuyết tật. Các công ty không
chỉ trợ giúp các tổ chức từ thiện địa phương và trên cả nước mà họ còn tham
gia gánh vác trách nhiệm giúp đào tạo những người thất nghiệp. Lòng nhân
ái mang tính chiến lược kết nối khả năng của doanh nghiệp với nhu cầu của
cộng đồng và của xã hội.
Đây là thứ trách nhiệm được điều chỉnh bởi lương tâm. Chẳng ai có
thể bắt buộc các doanh nghiệp phải bỏ tiền ra để xây nhà tình nghĩa hoặc lớp
học tình thương, ngoài những thôi thúc của lương tâm. Tuy nhiên, thương
người như thể thương thân là đạo lý sống ở đờii. Nếu đạo lý đó ràng buộc
mọi thành viên trong xã hội thì nó không thể không ràng buộc các doanh
nhân. Ngoài ra, một xã hội nhân bản và bác ái là rất quan trọng cho hoạt
động kinh doanh. Bởi vì trong xã hội như vậy, sự giàu có sẽ được chấp nhận.
Thiếu điều này, động lực của hoạt động kinh doanh sẽ bị tước bỏ.
1. Chăm sóc sức khỏe và vệ sinh cộng đồng
1.1. Chương trình bảo vệ nụ cười Việt Nam của P/S
1.2. Dự án "Cho đôi mắt sáng của trẻ thơ"
2. Giáo dục
2.1. Tăng cường năng lục đào tạo nghề (tổng ngân sách 4,5 tỷ đồng)

2.2. Nhà tài trợ xây dựng "Trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết
tật và mồ côi tại thành phố Hồ Chí Minh"
3. Bảo vệ môi trường - Dự án "Tự hào Hạ Long"
4. Đưa cánh tay trợ giúp những người cần
4.1. Làng Hy Vọng
4.2. Xây dựng ngôi nhà tình nghĩa cho người nghèo do OMO tài trợ.
Công ty cam kết trong giai đọan 2001-2005 đóng góp 2 triệu đô la (khoảng
30 tỷ đồng) mỗi năm cho phát triển cộng đồng và các hoạt động từ thiện.
Dưới đây chúng ta sẽ kiểm định 4 thành tố của trách nhiệm xã hội:
(1) Chấp nhận:
Đầu tiên, thông qua trách nhiệm pháp lý - cơ sở khởi đầu cho mọi
hoạt động kinh doanh, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các hành vi
được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không thực
hiện trách nhiệm pháp lý của mình.
(2) Lưu tâm:


Tiếp theo, các tổ chức cần lưu tâm là trách nhiệm đạo đức. Các công
ty phải quyết định những gì họ cho là đúng, chính xác và công bằng theo
những yêu cầu nghiêm khắc của xã hội. Nhiều người xem pháp luật chính là
những đạo đức được hệ thống hoá.
(3) Ra quyết định:
Một sự quyết định tại thời điềm này có thể sẻ trở thành một luật lệ
trong tương lai nhằm cải thiện tư cách công dân của tổ chức. Trong việc thực
thi trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm xã hội của mình, các tổ chức cũng
phải lưu tâm tới những mối quan tâm về kinh tế của các cổ đông. Thông qua
hành vi pháp lý và đạo đức thì tư cách công dân tốt sẽ mang lại lợi ích lâu
dài.
(4) Thể hiện lòng bác ái:
Cuối cùng, của trách nhiệm xã hội là trách nhiệm về lòng bác ái. Bằng

việc thực thi trách nhiệm về lòng bác ái, các công ty đóng góp các nguồn lực
về tài chính và nhân lực cho cộng đồng để cải thiện chất lượng cuộc sống.
Khía cạnh lòng bác ái và kinh tế của trách nhiệm xã hội có mối liên hệ mật
thiết với nhau bởi vì tổ chức càng làm được nhiều lợi nhuận bao nhiêu thì cơ
hội họ đầu tư vào các hoạt động nhân đức càng lớn bấy nhiêu. Mỗi khía cạnh
của trách nhiệm xã hội định nghĩa một lĩnh vực mà các công ty phải đưa ra
quyết định biểu thị dưới dạng những hành vi cụ thể sẽ được xã hội đánh giá.
Tóm lại, trong thực tế, các khái niệm trách nhiệm xã hội và
đạo đức kinh doanh thường được sự dụng lẫn cho nhau. Mặc
dù vậy, chúng có những ý nghĩa khác nhau. Trách nhiệm xã
hội trong kinh doanh đề cập đến những nghĩa vụ của tổ chức,
công ty trong việc tạo ra nhiều nhất các tác động xã hội tích
cực, trong khi gây ra ít nhất những hậu quả xã hội bất lợi.
Những nghĩa vụ đó được phản ánh trên các phương diện
khác nhau là kinh tế, pháp lý, đạo đức và nhân văn. Các
nghĩa vụ pháp lý được xã hội yêu cầu nhằm loại trừ những
hành vi không mong muốn. Các nghĩa vụ đạo đức quan tâm
đến quan niệm và cách thức các tổ chức ra quyết định đúng-
sai, công bằng và công lý ngoài những gì đã được xác định
trong các nghĩa vụ pháp lý. Các nghĩa vụ kinh tế là cơ sở cho
các hoạt động của một tổ chức, công ty, và chủ yếu liên quan
đến các đối tượng hữu quan chính như người tiêu dùng,
người lao động, chủ sở hữu hay nhà đầu tư. Trong khi đó,
các nghĩa vụ nhân đạo quan tâm đến những đối tượng rộng


hơn như cộng đồng và xã hội nhằm giúp họ cải thiện cuộc
sống và phát triển kinh tế - xã hội.
Trách nhiệm và nghĩa vụ của các tổ chức, công ty đối với xã
hội là rất nhiều. Để thực hiện tốt những trách nhiệm và

nghĩa vụ này, bên cạnh việc nhận thức đầy đủ và rõ rang,
cách thức tiếp cận khi thực hiện cũng có ý nghĩa rất quan
trọng.
D. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh:
I. Xét trong các chức năng của doanh nghiệp:

1. Đạo đức trong quản trị nguồn nhân lực
a. Đạo đức trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động
Trong hoạt động tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự sẽ xuất hiện một
vấn đề đạo đức khá nan giải, đó là tình trạng phân biệt đối xử. Phân biệt đối
xử là việc không cho phép của một người nào đó được hưởng những lợi ích
nhất định xuất phát từ định kiến về phân biệt. Biểu hiện ở phân biệt chủng
tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, vùng văn hoá, tuổi tác
Có những trường hợp cụ thể, sự phân biệt đối xử lại là cần thiết và
không hoàn toàn sai. Chẳng hạn như một người quản lý không bao giờ để
tôn giáo trở thành một cơ sở để phân biệt đối xử khi tuyển chọn nhân sự.
Tuy nhiên, trong trường hợp phải chọn nhân sự cho Nhà thờ đạo Tin lành thì
việc để tôn giáo là một cơ sở để lựa chọn là hoàn toàn hợp lý. Tương tự vậy,
Đạo đức trong quản trị nguồn nhân lực
Đạo đức trong hoạt động Marketing
Đạo đức trong hoạt động tài chính,
kế toán
Xét trong các chức
năng của doanh
nghiệp


một nhà quản lý kiên quyết chỉ phỏng vấn những phụ nữ để tuyển người cho
vị trí giám đốc chương trình giáo dục phụ nữ hoặc một người gốc Phi cho
chương trình giáo dục người Mỹ gốc Phi là hợp lý.

Ví du: Giải quyết lao đông dôi dư thế nào?
Khách sạn Rạng Đông khi cổ phần hoá gặp khó
khăn trong giải quyết lao động. Để đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng, nhân viên khách sạn phải trẻ, khoẻ,
nhanh nhẹn, hoà nhã, lịch sự, ứng xử có văn hoá và đối
với một số bộ phận phải có trình độ. Trong số lao động
hiện có rất ít người đáp ứng được yêu cầu này. Theo
cách thông thường thì có mấy biện pháp giải quyết như
sau:
Tuyển lao động mới đáp ứng đòi hỏi của thị
trường và cho những người còn lại thôi việc hoặc
chuyển công tác.
Tuyển dụng thêm một số người mới, cho đi đào
tạo lại một số có khả năng phát triển. Số lao động còn
lại cho chuyển công tác hoặc nghỉ việc.
Tuyển chọn lao động mới đáp ứng nhu cầu của
thị trường, đồng thời mở thêm nghề mới để thu nạp số
lao động dôi dư. Những ai tự nguyện nghỉ việc thì giải
quyết theo chế độ.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người quản lý dựa trên cơ sở
phân biệt đối xử để tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự. Quyết định của họ dựa
trên cơ sở người lao động thuộc một nhóm người nào đó, đặc điểm của
nhóm người đó sẽ được gán cho người lao động đó bất kể họ có những đặc
điểm đó hay không và dựa trên giả định là nhóm người này kém cỏi hơn
nhóm người khác. Ví dụ, như phụ nữ dường như không thể đưa ra được
những quyết định hợp lý vì họ quá thiên về tình cảm. Người da màu kém cỏi
hơn người da trắng. Như vậy quyết định của người quản lý dựa trên cơ sở
phân biệt đối xử chứ không phải dựa trên khả năng thực hiện công việc.
Quyết định như vậy ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động như vị trí,
thu nhập

Một vấn đề đạo đức khác mà các nhà quản lý cần lưu ý trong tuyển
dụng, bổ nhiệm và sử dụng người lao động đó là phải tôn trọng quyền riêng
tư cá nhân của họ. Để tuyển dụng có chất lượng, người quản lý phải thu


nhập thông tin về quá khứ của người lao động xem có tiền án tiền sự không,
về tình trạng sức khoẻ xem có thích hợp với công việc không, về lý lịch tài
chính xem có minh bạch không Đó là tính chính đáng của công tác quản
lý. Song sẽ là phi đạo đức nếu người quản lý từ thông tin thu thập được can
thiệp quá sâu vào đời tư của người lao động, tiết lộ bệnh án/(hồ sơ y tế), xuất
bản về những vấn đề riêng tư của họ và sử dụng tên của họ vì các mục đích
thương mại khác.
Trong công tác tuyển dụng và sử dụng người lao động, trong một số
trường hợp cụ thể, với những công việc cụ thể (lái máy bay, lái tầu, điều
khiển máy móc ) người quản lý phải xác minh người lao động có dương
tính với ma tuý không, hoạt động này hoàn toàn hợp đạo lý. Tuy nhiên, nếu
việc xác minh này phục vụ cho ý đồ cá nhân của người quản lý (để trù dập,
để trả thù cá nhân, để thay thế các quan hệ khác ) thì lại là vi phạm quyền
riêng tư cá nhân và đáng bị lên án về mặt đạo đức.
Một vấn đề đạo đức mà các nhà quản lý không thể xem nhẹ trong
tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng người lao động đó là sử dụng lao động, sử
dụng chất xám của các chuyên gia nhưng không đãi ngộ xứng đáng với công
sức đóng góp của họ. Đây là một hình thức bóc lột lao động để gia tăng lợi
nhuận tiêu cực. Lợi nhuận của một công ty luôn có tương quan với sự đóng
góp của người lao động. Công ty kinh doanh muốn gia tăng lợi nhuận thì
nhất định phải quan tâm đến lợi ích của người lao động trực tiếp làm ra của
cải vật chất. Quan hệ chủ thợ sẽ tốt đẹp nếu chủ nhân quan tâm tới lợi ích
công nhân, ngược lại công nhân luôn lao động tích cực và tìm cách gia tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đó là 2 vế tương hỗ của một bài toán kinh tế,
cần được xử lý một cách lành mạnh, phù hợp với lợi ích của đôi bên.

b. Đạo đức trong đánh giá người lao động
Hành vi hợp đạo đức của người quản lý trong đánh giá người lao động
là người quản lý không được đánh giá người lao động trên cơ sở định kiến.
Nghĩa là đánh giá người lao động trên cơ sở họ thuộc một nhóm người nào
đó hơn là đặc điểm của cá nhân đó, người quản lý dùng ấn tượng của mình
về đặc điểm của nhóm người đó để xử sự và đánh giá người lao động thuộc
về nhóm đó. Các nhân tố như quyền lực, ganh ghét, thất vọng, tội lỗi và sợ
hãi là những điều kiện duy trì và phát triển sự định kiến.
Để đánh giá người lao động làm việc có hiệu quả không, có lạm dụng
của công không, người quản lý phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật để
giám sát và đánh giá. Như quan sát các cuộc điện thoại hoặc sử dụng máy
ghi âm ghi lại những cuộc đàm thoại riêng tư, kiểm soát các thông tin sử
dụng tại máy tính cá nhân ở công sở, đọc thư điện tử và tin nhắn trên điện

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×