Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại nghành nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.58 KB, 16 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH
NHẬN DIỆN RỦI RO LÃI SUẤT VÀ RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP
MỤC LỤC
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 1
A. TỔNG QUAN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Vị trí ngành nông nghiệp Việt Nam
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế như hiện nay, nông nghiệp trở thành
một ngành kinh tế với vai trò trụ đỡ. Trong chỉ số tăng trưởng chung của nền kinh tế
5,03% năm 2013, ngành nông nghiệp đóng góp tới 2,7%, xuất siêu với hơn 10 tỷ USD,
khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu thế giới.
Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến
xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ, như:
nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo
hiểm Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan mật thiết đến sức mua của dân cư và sự
phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực lượng lao động cả nước đang làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân số sống ở nông thôn, mức thu nhập trong nông
nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sức cầu của thị trường nội địa và tiềm năng đầu tư
dài hạn. Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo
an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân cư, là
nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn
định chính trị - xã hội của đất nước.
2. Đặc điểm ngành Nông nghiệp Việt Nam
Cơ cấu ngành nông nghiệp đang có sự dịch chuyển theo hướng sản xuất hàng
hóa, đa dạng hóa. Nông nghiệp đang có xu hướng kết hợp với ngành công nghiệp chế
biến để hướng ra xuất khẩu, điều này đòi hỏi quy mô của sản xuất nông nghiệp tăng,
nhu cầu về nguồn vốn cũng như sự liên kết trong các giao dịch thương mại khác khiến
cho những thay đổi vĩ mô của nền kinh tế như lãi suất, hay những tác động vi mô như
các khoản tín dụng thương mại gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngành
này, những tác động đi chệch với dự tính do những yếu tố này gây ra sẽ dẫn đến những
rủi ro mà ngành phải đối mặt.


Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 2
Sự công nghiệp hóa ngành nông nghiệp tạo ra một chu trình khép kín từ khâu
sản xuất, chế biến đến phân phối, tiêu thụ; điều này dẫn đến sự phát triển của các
khoản tín dụng thương mại nhằm làm “trơn” chu trình này; tuy nhiên, bất kể sự tắc
nghẽn ở khâu nào trong việc sử dụng các khoản tín dụng thương mại sẽ đều gây ảnh
hưởng hoạt động trong doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành Nông nghiệp nói chung.
3. Thực trạng ngành Nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng của ngành tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng có xu hướng
giảm dần. Năm 2011 xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng
29% so với năm 2010. Thặng dư thương mại toàn ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ
USD, góp phần giảm nhập siêu cả nước; nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và
chiếm 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà
tăng trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước
tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%. Tốc độ
tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,7%. Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp
và thủy sản cả nước tăng 3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%,
thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,6%.
 Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do ảnh hưởng của
rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng đã tác động đến các hộ nông dân, các doanh nghiệp
đang tham gia trong ngành này. Sau đây, nhóm xin được trình bày chi tiết hơn về hai
loại rủi ro này.
B. RỦI RO LÃI SUẤT
I. Lý thuyết
1. Khái niệm rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất. Loại rủi ro này phát
sinh trong quan hệ tín dụng, theo đó ngân hàng hoặc công ty có những khoản vay hoặc
cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường
tăng khiến chi phí trả lãi tăng theo. Ngược lại, nếu cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi
suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi vay giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 3

trọng khi nào chúng ta có khoản vay hoặc đầu tư tài chính lớn theo lãi suất thả nổi trên
thị trường.
2. Biến động lãi suất giai đoạn 2010 – 2013
Năm 2010
Sau 11 tháng duy trì mức lãi suất không đổi thì thị trường lãi suất quý IV/2010
biến động trước áp lực lạm phát. Ngày 5/11/2010 Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) ban
hành quyết định số 2619/QĐ-NHNN và quyết định 2620/QĐ-NHNN quy định các
mức lãi suất. Cụ thể, tăng 1% lên lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho
vay qua đêm (từ 8% lên 9%), lãi suất tái chiết khấu (từ 6% lên 7%). Ngay lập tức các
NHTM đã đồng loạt áp mức lãi suất mới từ 11% lên 12%/năm. Không dừng lại ở đó,
lãi suất huy động vẫn tiếp tục tăng theo từng ngày từ 13% đến 14% và đỉnh điểm là
việc ngân hàng Techcombank công bố lãi suất huy động lên tới 17% trong ngày
8/12/2010.
Năm 2011
Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III/2011 đã có rất nhiều diễn biến khá
phức tạp qua các thời kì. Trong quý III, thực hiện chỉ thị số 02/CT-NHNN của Ngân
hàng Nhà Nước, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng phổ biến ở mức 14%/năm;
tuy nhiên, một số các ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất 14%/năm đối với cả
các khoản tiền gửi kì hạn ngày, tuần. Lãi suất cho vay ổn định trong tháng 7, tháng 8,
từ nửa đầu tháng 9 bắt đầu có xu hướng giảm. Lãi suất cho vay trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu phổ biến ở mức 17% - 19%; lãi suất cho vay sản xuất –
kinh doanh khác phổ biến mức 17% - 21%/năm. Tuy nhiên, có một thực tế là lượng
vốn có lãi suất từ 17 - 19% như vậy thực sự vẫn chưa được nhiều và chưa đến được
với các đối tượng cần vốn thực sự mà các đối tượng này vẫn phải vay với mức lãi suất
20%/năm. Một vấn đề nữa là chi phí thực của ngân hàng để huy động vốn tiền gửi trên
thực tế cao hơn 14% như công bố bởi các ngân hàng này còn mất những khoản chi phí
ngoài luồng khác như chi phí thưởng cho các đối tượng giới thiệu được người gửi tiền,
chi phí khuyến mại cho khách hàng,… để có thể huy động được vốn. Chính vì vậy, các
chuẩn mực lãi suất mà NHNN muốn các NHTM đạt tới là chưa thực sự có được.
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 4

Năm 2012
Quý I được đánh dấu bằng việc NHNN điều chỉnh giảm 1% đối với các mức lãi
suất điều hành và trần lãi suất huy động VND của các tổ chức tín dụng kể từ ngày
13/3/2012 nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay.
Từ tháng 3/2012, Ngân hàng Nhà nước liên tục 5 lần giảm các lãi suất chủ chốt
với tổng mức giảm là 5%, trần lãi suất huy động cũng được giảm từ 14%/năm về
9%/năm. Ngân hàng Nhà nước cũng cho phép các ngân hàng được thỏa thuận lãi suất
với các khoản tiền gửi trên 1 năm và yêu cầu các ngân hàng áp lãi suất cho các khoản
vay cũ là 15%/năm từ 15/7/2012.
Hàng loạt ngân hàng thương mại công bố những gói tín dụng cho vay với lãi
suất thấp hơn tới 3-4% so với mặt bằng lãi suất chung (15-18%/năm) đối với một số
lĩnh vực khuyến khích cho vay như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ
trợ và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Năm 2013
Lãi suất huy động VNĐ vẫn trong xu hướng giảm nhưng tốc độ đã chậm lại so
với năm 2012 và đường cong lãi suất được hình thành rõ nét hơn.
Thay vì bám sát trần lãi suất cho phép như thời gian trước, một số ngân hàng
thương mại (NHTM), tiên phong là các NHTM Nhà nước đã chủ động điều chỉnh lãi
suất trên cơ sở cân đối nguồn vốn. Trong khi trần lãi suất huy động chỉ giảm 0,5-1%,
mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức giảm mạnh hơn, vào khoảng 0,8-1,5% đối với
các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới 2,5-3,5% đối với các kỳ hạn trên 1 năm so với cuối
năm 2012.
Đến cuối năm 2013, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng (TCTD) phổ
biến ở mức 1-1,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng, 5,5-
7,0%/năm kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng, 6,5- 7,5%/năm kỳ hạn từ 6 tháng đến
dưới 12 tháng, 8-9%/năm kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Diễn biến cùng chiều với lãi suất huy động, lãi suất cho vay VNĐ cũng được
điều chỉnh giảm thêm 3-4%/năm để hỗ trợ khách hàng. Đến cuối năm 2013, lãi suất
cho vay phổ biến trong khoảng 8-11,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 5

hạn. Trong đó, các lĩnh vực ưu tiên lần lượt là 8-9%/năm & 11-12%/năm và các lĩnh
vực khác là 9-11%/năm & 11,5-13%/năm. Đặc biệt, một số doanh nghiệp có tình hình
tài chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả đã
được vay với mức lãi suất chỉ từ 7-7,5%/năm.
Quý I/2014
Theo Văn bản số 1711/NHNo-KHNV mà Tổng Giám đốc Agribank vừa ký ban
hành (có hiệu lực kể từ ngày 18.3.2014), với lãi suất cho vay ngắn hạn, áp dụng lãi
suất VND cho vay tối đa là 8%/năm (trong đó lãi suất cho vay tạm trữ lúa gạo
7%/năm). Mức lãi suất này áp dụng cho 5 đối tượng cho vay, trong đó có lĩnh vực phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định 41. Với mức lãi suất cho vay
nói trên, các đối tượng vay vốn sẽ được giảm lãi suất vay 1%/năm so với hiện nay 
Quyết định này được cho là rất kịp thời, tạo thêm động lực sản xuất cho nông dân và
doanh nghiệp nông nghiệp.
Biểu đồ lãi suất 2010 – 2013
II. Phân tích rủi ro lãi suất trong ngành Nông nghiệp giai đoạn 2010 – 2013
Nhóm sẽ chia ngành nông nghiệp thành ba nhóm ngành: trồng trọt và chăn nuôi;
lâm nghiệp và thủy sản. Mỗi nhóm ngành sẽ chọn 3 công ty đại diện, sau đó phân tích
xu hướng của nhóm ngành này.
1. Nhóm ngành trồng trọt và chăn nuôi
Qua các số liệu trên nhóm muốn phân tích làm rõ mối tương quan giữa chi phí
lãi vay và khoản nợ vay chính thức của công ty để từ đó chỉ ra lãi suất ảnh hưởng như
thế nào đến chi phí lãi vay của công ty.
Nhìn vào bảng 4 ta có thể thấy chi phí lãi vay của 3 công ty không có xu hướng
rõ rệt tương ứng với mức độ nợ vay của công ty. Thường thì chi phí lãi vay sẽ có xu
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 6
hướng tăng giảm theo vay và nợ chính thức của công ty. Tuy nhiên nếu như chịu ảnh
hưởng của lãi suất thì có thể mức độ tăng, giảm của chi phí lãi vay sẽ không cùng
“nhịp” với vay và nợ chính thức. Qua 2 bảng trên có thể thấy việc tăng giảm chi phí lãi
vay của các công ty tuy cùng có xu hướng chung với việc sự thay đổi của nợ vay
nhưng mức độ là khác nhau. Điều này phản ánh rõ nét tác động của sự thay đổi lãi suất

lên chi phí trả lãi của công ty. Đặc biệt đối với các công ty càng có khoản nợ vay chính
thức lớn thì mức độ chịu rủi ro lãi suất sang cao. Đặc biệt trong giai đoạn lãi suất đầy
biến động 2010 – 2013 thì các công ty cần lưu ý khi quyết định trong việc huy động
nguồn vốn để tránh các rủi ro lãi suất có thể gặp phải.
2. Nhóm ngành thủy sản
Từ những số liệu và chỉ số liên quan đến rủi ro lãi suất của các doanh nghiệp
ngành thủy sản, chúng ta có cái nhìn khái quát như sau khi nhìn nhận trên mối liên hệ
tương quan giữa các chỉ số ta thấy: có sự biến động không theo xu hướng rõ ràng của
chi phí lãi vay và chỉ số cơ cấu nợ vay (Nợ/Tổng tài sản). Bên cạnh đó qua những
phân tích chúng ta cũng phát hiện ra những mối liên hệ giữa chi phí lãi vay, cơ cấu nợ
vay và lãi suất thị trường. Điều này là những thông tin và phân tích đặc biệt quan trọng
để những nhà quản trị tài chính có thể có những kế hoạch nhằm hạn chế những rủi ro
lãi suất có thể gặp phải trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Bảng, biểu đồ chi phí lãi vay
Qua phân tích các số liệu, ta nhận thấy rằng chi phí lãi vay của các công ty cổ
phần ngành thủy sản có xu hướng biến đổi không đồng nhất qua các năm. Từ những số
liệu bảng phân tích khuynh hướng chi phí lãi vay, đối với công ty cổ phần thủy sản
Bến Tre có sự tăng lên rất mạnh trong chi phí lãi vay tăng hơn 300% từ 1640 triệu
đồng lên tới 6971 triệu đồng. Tuy nhiên trong giai đoạn từ năm 2012-2013 chi phí lãi
vay của công ty cổ phần thủy sản Bến Tre không có sự thay đổi lớn. Qua đó chúng ta
thấy một sự biến đổi rất thất thường trong chi phí lãi vay, công tác quản trị tài chính
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 7
cần được ưu tiên xem xét về vấn đề này. Chúng ta sẽ tìm hiểu ro hơn những nguyên
nhân của sự thay đổi và những rủi ro tiềm ẩn sẽ gặp phải
Với những số liệu về chi phí lãi vay ta thấy công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ
và công ty cổ phần thực phẩm số 4 cũng có những chiều hướng biến động không đồng
nhất. Trong giai đoạn từ năm 2010-2011, hai công ty này đều có mức tăng chi phí lãi
vay tương đối lớn, đặc biệt công ty cổ phần thực phẩm số 4 tăng tới gần 200%. Sau đó
những năm tiếp theo từ năm 2011-2013 thì chi phí lãi vay giảm qua từng năm
Bảng, biểu đồ Nợ/tổng tài sản

Một trong những chỉ tiêu khác nhằm đánh giá mức độ rủi ro lãi suất trong ngành
thủy sản là chỉ tiêu nói lên cơ cấu nợ của doanh nghiệp Nợ/Tổng tài sản. Qua những số
liệu tổng hợp, cơ cấu này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố đặc biệt là công tác hoạt định
tài chính của bản thân mỗi doanh nghiệp trong ngành. Nhìn chung từ số liệu chỉ số,
các công ty thuộc nhóm ngành thủy sản có cơ cấu nợ/tổng tài sản rất khác nhau bao
gồm nhiều các doanh nghiệp sử dụng nợ vay khá nhiều. Những công ty tiêu biểu mà
chúng tôi đưa ra để phân tích là đại diện cho những chính sách tài chính duy trì cơ cấu
nợ/tổng tài sản khác nhau. Đối với công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre
chi phí nợ/tổng tài sản mức trung bình là 0.27, công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ chi
phí nợ/tổng tài sản mức trung bình là 0.7, công ty cổ phần thực phẩm số 4 nợ/tổng tài
sản mức trung bình 0.66.
Bảng khuynh hướng Nợ/tổng tài sản
BẢNG KHUYNH HƯỚNG NỢ/ TỔNG TÀI SẢN
STT MÃ CK 2010 2011 2012 2013
1 ABT -35.94 -29.63 45.94
2 FMC -3.44 18.23 -14.16
3 TS4 4.12 -10.06 -14.92
Phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu và khuynh hướng, Qua những xu hướng
biến đổi chúng ta vừa phân tích chúng ta biết rằng luôn có tồn tại một mối liên hệ giữa
chi phí lãi vay, tỷ lệ nợ/tổng tài sản và những biến động của lãi suất trên thị trường.
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 8
Những xu hướng biến đổi của chi phí lãi vay phụ thuộc vào hai yếu tố còn lại là cơ cấu
vốn hay tỷ lệ nợ/tổng tài sản và lãi suất đi vay. Chúng ta cần đưa ra một ví dụ để làm
sáng tỏ điều này. Chúng ta có thể quan sát thấy, Trong năm 2011, hầu như tất cả các
doanh nghiệp ngành thủy sản có một sự gia tăng đáng kể trong chi phí lãi vay, đặc biệt
có những doanh nghiệp chịu những khoản chi phí lãi vay rất lớn làm sụt giảm nhiều
nguồn lợi nhuận mang lại, điều này càng làm sáng tỏ những rủi ro tiềm ẩn rất lớn của
lãi suất tác động đến hoạt động kinh doanh của công ty. Một điều cần thừa nhận rằng:
lãi suất tăng sẽ làm gia tăng chi phí lãi vay và tỷ trọng vốn vay tăng cũng làm tăng chi
phí lãi vay. Trong từng quan hệ cụ thể chúng ta sẽ xét được một trong hai yếu tố thì

yếu tố nào sẽ tác động mạnh hơn đến khoản chi phí lãi vay và trực tiếp tạo nên những
rủi ro lãi suất cho doanh nghiệp. Cùng quan sát số liệu ta thấy rằng, trong năm 2011
mặc dù ban quản trị tài chính của công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre đã
có những điều chỉnh hợp lý khi đã giảm tỷ trọng cơ cấu vốn vay 35% so với năm
2010, tuy nhiên vẫn làm chi phí lãi vay tăng lên rất lớn nguyên nhân chính của sự kiện
này là việc lãi suất cho vay trên thị trường trong năm 2011 tăng lên đột biến trung bình
giao động trong khoảng 18%.
3. Nhóm ngành lâm nghiệp
Qua tổng hợp những số liệu liên quan đến rủi ro lãi suất của các công ty ngành lâm
nghiệp, ta thấy có sự biến động không theo xu hướng rõ ràng của chi phí lãi vay và
chỉ số cơ cấu nợ vay. Chúng ta cũng phát hiện ra những mối liên hệ giữa chi phí lãi
vay, cơ cấu nợ vay và lãi suất thị trường. Đây là những thông tin và phân tích đặc
biệt quan trọng trong công việc lập kế hoạch tài chínhnhằm hạn chế những rủi ro
lãi suất có thể gặp phải trong hoạt động kinh doanh của công ty
Từ việc phân tích các số liệu, ta thấy rằng chi phí lãi vay của các công ty cổ phần
ngành lâm nghiệp có xu hướng biến đổi tương đối đồng đều. Từ những số liệu bảng phân
tích khuynh hướng chi phí lãi vay, Các công ty đều có sự tăng lên mạnh về chi phí lãi vay
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 9
trong năm 2011, cụ thể xét công ty cổ phần cao su Sao Vàng có chi phí lãi vay tăng 54%
trong giai đoạn 2010-2011 và công ty cổ phân chế biến gỗ Đức Thành tăng từ 1313 triệu
đồng lên tới 1773 triệu đồng. Tuy nhiên trong giai đoạn từ năm 2011-2013 chi phí lãi vay
của các công ty cổ phần ngành lâm nghiệp đều giảm mạnh. Qua đó ta thấy công tác quản
trị chi phí lãi vay của các công ty ngành lâm nghiệp có những dấu hiệu tốt, điều này làm
tăng niềm tin của đối tác và các nhà đầu tư vào các công ty. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm
những nguyên nhân dẫn đến sự biến động này và những rủi ro tiềm ẩn ở phần sau.
Chỉ tiêu nói lên cơ cấu nợ của doanh nghiệp Nợ/Tổng tài sản là một trong những chỉ tiêu
nhằm đánh giá rủi ro lãi suất của công ty ngành lâm nghiệp. Qua những số liệu tổng hợp,
cơ cấu này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố đặc biệt là công tác hoạt định tài chính của bản
thân mỗi doanh nghiệp trong ngành, tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng cơ cấu nợ vay của
các công ty có xu hướng biến đổi không đồng đều, điều này cũng một phần là sự thay đổi

nhiều trong chính sách tài chính về cơ cấu nợ, tiềm ẩn những rủi ro về sự bất ổn. Nhìn
chung từ số liệu chỉ số, các công ty thuộc nhóm ngành lâm nghiệp có cơ cấu nợ/tổng tài
sản rất khác nhau bao gồm một số các doanh nghiệp sử dụng nợ vay khá nhiều. Những
công ty tiêu biểu mà chúng tôi đưa ra để phân tích là đại diện cho những chính sách tài
chính duy trì cơ cấu nợ/tổng tài sản khác nhau. Đối với công ty cổ phần cao su Sao Vàng
là minh chứng cho sự không sáng suốt trong công tác quản trị cơ cấu nợ, cơ cấu nợ trung
bình trong giai đoạn vào khoảng 1.35, thâm hụt rất lớn đang xảy ra trong doanh nghiệp.
Khi những biến động trong lãi suất xảy ra sẽ gây nên sự thay đổi rất lớn trong chi phí lãi
vay của công ty, đặc biệt sự rủi ro khi lãi suất tăng cao có thể dẫn đến nguy cơ phá sản
của công ty. Còn đối với hai công ty cổ phần chế biến gỗ Thuận An và công ty cổ phần
chế biến gỗ Đức Thành đều duy trì cơ cấu nợ vay ở mức trung bình 0.45, mức này cũng
thấy cơ cấu nợ vay tương đối lớn cao hơn mức bình quân của các ngành khác.
Chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu và khuynh hướng, Qua những
xu hướng biến đổi chúng ta vừa phân tích chúng ta biết rằng luôn có tồn tại một mối liên
hệ giữa chi phí lãi vay, tỷ lệ nợ/tổng tài sản và những biến động của lãi suất trên thị
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 10
trường. Những xu hướng biến đổi của chi phí lãi vay phụ thuộc vào hai yếu tố còn lại là
cơ cấu vốn hay tỷ lệ nợ/tổng tài sản và lãi suất đi vay. Điển hình với công ty chế biến gỗ
Đức Thành, trong giai đoạn 2010-2011, khi mà cơ cấu nợ vay của doanh nghiệp giảm
mạnh giảm tới trên 18% nhưng chi phí lãi vay vẫn tăng mạnh trên 35%. Điều này cho
thấy lãi suất thị trường gây lên những áp lực lớn về chi phí lãi vay, trong năm 2011 mức
lãi suất cho vay trên thị trường biến động và tăng cao đã tạo nên những khoản chí lãi vay
lớn. Mặt khác, trong giai đoạn 2011-2012, trong khi cơ cấu nợ/tổng tài sản tăng mạnh
93% thì khuynh hướng chí phí lãi vay lại giảm 13.5%
C. RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
I. Lý thuyết
1. Khái niệm về tín dụng thương mại và rủi ro tín dụng thương mại
Tín dụng có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh Credittum có nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm. Quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã
hội.

Tín dụng thương mại là nguồn tài trợ qua hình thức bán hàng trả chậm của đơn
vị cung cấp để có nguyên liệu, hàng hóa phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh.
Khi mua hàng trả chậm, đơn vị bán hàng đã cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
Khoản phải trả của doanh nghiệp mua hàng thể hiện tổng số tiền mà doanh nghiệp nợ
nhà cung cấp.
Rủi ro tín dụng thương mại là khả năng tổn thất có thể xảy ra khi cấp tín dụng
cho khách hàng. Rủi ro tín dụng thương mại được biểu hiện:
Số tiền mua nợ khách hàng thanh toán không đúng hạn cam kết, gọi là rủi ro quá
hạn thanh toán công nợ.
Số tiền mua nợ khách hàng không thanh toán đày đủ hoặc không có khả năng
thanh toán khi đến hạn, gọi là rủi ro mất tiền nợ từ người mua nợ.
2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng thương mại
• Nguyên nhân khách quan
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 11
Do thị trường biến động và nhiều rủi ro; rủi ro do thiên tai, dịch bệnh; do môi
trường pháp lý chưa đồng bộ và thực thi pháp luật còn kém hiệu quả;…
• Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân rủi ro từ đối tác được thụ hưởng tín dụng thương mại: Tài chính
doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu minh bạch; Năng lực quản lý, điều hành kinh doanh
còn hạn chế; Sử dụng khoản tín dụng thương mại sai mục đích hoặc cố ý lừa đảo
- Nguyên nhân rủi ro từ phía người cung cấp tín dụng thương mại:
Các tiêu chí thẩm định đánh giá khách hàng còn dựa trên cơ sở số liệu lịch sử,
cảm tính, chưa tuân thủ các phương pháp phân tích tín dụng, chưa đề nghị đối tác thụ
hưởng tín dụng thương mại phải thế chấp tài sản do những hạn chế về mặt cơ chế quản

Sức ép từ các đối thủ cạnh tranh làm cho doanh nghiệp đưa ra các chính sách tín
dụng linh động hơn để thu hút khách hàng về mình, hoặc do chạy theo mục đích tăng
trưởng mà không chú trọng vào quản lý chất lượng công nợ rất dễ dẫn đến khả năng
mất kiểm soát từ phía khách hàng lẫn nhà cung cấp.
Sự yếu kém của bộ phận quản lý công nợ trong khâu đôn đốc kiểm soát chất

lượng nợ, đi sâu sát khách hàng để tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng
nhằm nhận diện trước những dấu hiệu không an toàn để cảnh báo.
3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng thương mại
• Các dấu hiệu liên quan đến tình hình kinh doanh của khách hàng
- Hàng hóa nhập không ổn định và thường bán ra với giá thấp hơn giá mua vào.
- Hàng tồn nhiều, bị giảm giá do những biến động của thị trường, không tìm
thấy giả pháp đưa ra thị trường.
- Thanh toán công nợ không đúng hạn nhiều lần và không có khả năng cải thiện
tình hình thanh toán.
• Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý doanh nghiệp của khách hàng
- Thay đổi thường xuyên hệ thống quản trị hoặc ban điều hành
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành bất đồng về mục đích, quản trị, điều
hành độc đoán hoặc quá phân tán.
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 12
- Không có chiến lược phát triển lâu dài.
- Hệ thống sổ sách kế toán thủ công, không minh bạch.
4. Biện pháp quản trị rủi ro tín dụng thương mại
Kinh nghiệm trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng thương mại của các nước trên
thế giới đó là họ vận dụng rất hiệu quả các công cụ hỗ trợ thu hồi công nợ, bao gồm:
Bao thanh toán: Là công cụ tài chính thể hiện những ưu điểm nổi bật, đặc biệt
trong nền kinh tế hội nhập đặt ra những yêu cầu gia tăng về nhu cầu vốn lưu động, các
dịch vụ nhờ thu, quản lý rủi ro. Dịch vụ này đã được áp dụng rộng rãi ở Châu Á – Thái
Bình Dương, giờ đây giải pháp tài chính này đang dẫn được triển khai tại Việt Nam.
Vận dụng hiệu quả các công cụ chuyển nhượng như hối phiếu và lệnh phiếu
trong các quan hệ mua bán chịu. Người bàn có thể sử dụng các công cụ chuyển
nhượng này đem chiết khấu ở ngân hàng để nhận tiền hoặc bán lại trên thị trường
chứng khoán để thu hồi nợ
Sử dụng nghiệp vụ mua bán nợ để giảm thiểu rủi ro.
II. Phân tích rủi ro tín dụng thương mại trong ngành Nông nghiệp giai đoạn 2010 –
2013

1. Nhóm ngành trồng trọt và chăn nuôi
Chúng em sẽ phân tích dựa trên các chỉ số về doanh thu, khoản phải thu, vòng
quay khoản thu và dự phòng khoản phải thu khó đòi.
Nhìn chung doanh thu cũng như khoản phải thu của các công ty qua từng năm
đều có chiều hướng tăng nhẹ dần. Do đó vòng quay khoản phải thu của doanh nghiệp
cũng không thay đổi nhiều qua các năm. (Vòng quay khoản phải thu thể hiện khả năng
chuyển đổi các khoản phải thu sang tiền mặt, hay khả năng chủ động của doanh nghiệp
trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động). Tuy nhiên trong 3 công ty thì CAP có xu
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 13
hướng vòng quay khoản phải thu giảm dần chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ của doanh
nghiệp đang giảm dần, doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn ngày càng nhiều.
Nguyên nhân do khoản phải thu của công ty có tốc độ tăng nhanh hơn hẳn so với
doanh thu của công ty. Việc tăng khoản phải thu song song với việc tăng doanh thu là
điều dễ hiểu, tuy nhiên khi việc tăng khoản phải thu mạnh hơn so với việc tăng doanh
thu như thế này chứng tỏ doanh nghiệp có thể đang gặp khó khan trong khâu bán hàng.
Để có thể bán được hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp nhận bán chịu…
Việc tăng khoản phải thu nhằm khuyến khích, hỗ trợ cho việc tăng doanh thu là
điều cần thiết mà đa số các công ty cần thực hiện. Tuy nhiên các công ty cũng cần xem
xét để có khoản phải thu tối ưu, tránh bị chiếm dụng vốn quá mức có thể gây ra các rủi
ro tín dụng thương mại do việc khách hàng không trả nợ đúng hạn hay thậm chí không
trả nợ.
Ở đây, do chưa có được số liệu đầy đủ trong toàn ngành cũng như số liệu của
các ngành khác để so sánh nên các số liệu của khoản phải thu mà nhóm tính toán ra
của 3 công ty trên chưa thể kết luận là cao hay thấp. tuy nhiên trong khuôn khổ bài này
nhìn chung xu hướng ở đây là vòng quay khoản phải thu đang có xu hướng giảm nhẹ,
các công ty cần chú ý để có các biện pháp điều chỉnh và ngăn chặn kịp thời, tránh gây
ra các rủi ro tín dụng thương mại.
2. Nhóm ngành thủy sản
Qua tính toán và phân tích số liệu và các chỉ số các doanh nghiệp ngành thủy
sản, chúng ta có cái nhìn khái quát các doanh nghiệp có khuynh hướng tăng giảm các

khoản phải thu và doanh thu không đồng đều điều này làm vòng quay khoản phải thu
có sự thay đổi không theo xu hướng. Bên cạnh đó có một số doanh nghiệp có chính
sách tín dụng thương mại tương đối ổn định khi mà thường duy trì vòng quay khoản
phải thu các năm giao động trong mức trung bình, khi mà doanh thu tăng lên hay giảm
đi thì chính sách tín dụng thương mại điều chỉnh khoản phải thu bình quân phù hợp
với sự thay đổi của doanh thu, điều này làm hạn chế những rủi ro có thể gặp phải do
những biến động.
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 14
Bảng, biểu đồ khoản phải thu bình quân
Trong giai đoạn từ năm 2010-2013, các khoản phải thu bình quân của công ty cổ
phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre có sự giảm mạnh từ 129921 triệu đồng năm
2010 xuống 46234 triệu đồng năm 2012 và tăng nhẹ lên 62208 triệu đồng năm 2013.
Khoản phải thu năm 2013 giảm 52% so với năm 2010. Điều này chứng tỏ công ty đã
hạn chế bán trả chậm cho khách hàng và đẩy mạnh thu hồi các khoản công nợ cũ.
Trong khi đó thì hai công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ và công ty cổ phần thực
phẩm số 4 có các khoản phải thu bình quân tăng lên qua các năm. Đặc biệt với công ty
cổ phần thực phẩm số 4 có sự tăng mạnh, các khoản phải thu bình quân năm 2013 tăng
99.5% so với năm 2010, cụ thể năm 2010 bình quân khoản phải thu là 49184 triệu
đồng thì đến năm 2013 khoản phải thu bình quân đạt mức 98106 triệu đồng
Cũng tăng đều đặn qua các năm, nhưng với mức độ thấp hơn là các khoản phải
thu bình quân của công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ, trong giai đoạn từ năm 2010 –
2013 khoản phải thu bình quân của công ty tăng lên 46%, cụ thể từ mức 90080 triệu
đồng năm 2010 tới mức 131490 triệu đồng năm 2013. Thực tế cho thấy, tín hiệu tăng
thêm của khoản phải thu bình quân là không tốt, nhất là khi khoản mục này tăng mạnh
như ở hai công ty trên. Điều này có nguyên nhân xuất phát từ một phần là chính sách
tín dụng thương mại của công ty trong giai đoạn này, điều này không cải thiện được
vòng quay khoản phải thu của công ty.
Bảng biểu đồ doanh thu
Từ những số liệu phân tích về tình hình doanh thu của các công ty ngành thủy
sản, ta thấy trong giai đoạn này tình hình doanh thu của công ty xuất nhập khẩu thủy

sản Bến Tre không có sự thay đổi nhiều và giảm nhẹ từ 685192 triệu đồng năm 2010
xuống 534534 triệu đồng năm 2013. Khi mà khoản phải thu giảm mạnh, thì điều này
dẫn đến vòng quay khoản phải thu của công ty có xu hướng tăng vòng quay tăng từ 5
lên 9. Điều này cải thiện đáng kể kỳ thu tiền bình quân của doanh nghiệp, làm tăng
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 15
đánh giá uy tín bán hàng, khả năng thu hồi vốn tốt để bổ sung hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Bảng, biểu đồ vòng quay khoản phải thu
Đứng trên một khía cạnh khác để phân tích, chúng ta thấy được xu hướng thay
đổi của doanh thu của hai công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ và công ty cổ phần thực
phẩm số 4 có xu hướng tăng trưởng tương tự xu hướng tăng lên của bình quân các
khoản phải thu, chúng ta có nhận định đây là điều hoàn toàn phù hợp khi mà bình quân
các khoản phải thu và doanh thu có cùng chiều hướng biến đổi và mức độ thay đổi
đồng đều. Chính vì điều này mà, khi chúng ta xem xét và phân tích chỉ số vòng quay
khoản phải thu của hai doanh nghiệp không thay đổi nhiều trong giai đoạn này, đối với
công ty cổ phần thực phẩm Sao Tạ là khoảng 15 và chỉ số vòng quay khoản phải thu
công ty cổ phần thực phẩm số 4 là 8.
3. Nhóm ngành lâm nghiệp
Doanh thu của các công ty qua các năm nhìn chung không có xu hướng rõ
rệt và dao động không nhiều qua các năm. Tuy nhiên mức độ thay đổi
khoản phải thu của các công ty lại không cùng xu hướng với doanh thu. Từ
đó dẫn đến vòng quay khoản phải thu của các công ty lại có mức biến
động khá rõ rệt, đặc biệt ở 2 công ty SRC và GTA. Điều này cho thấy việc
kiểm soát khoản phải thu của các công ty chưa thực sự tốt, chính sách cho
khách hàng nợ cần được điều chỉnh để ổn định và phù hợp hơn.
Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng thương mại ngành Nông Nghiệp P a g e | 16

×