Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh Hùng Vương_ Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.71 KB, 66 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007, nước ta chính thức là thành viên của tổ chức kinh tế thế giới
WTO. Chúng ta đã thành công trong năm đầu tiên khi gia nhập WTO, nước ta
đã đạt được kết quả cao. Chưa bao giờ đầu tư nước ngoài vào nước ta lên đến
gần 20 tỷ USD. Điều này chứng tỏ vị thế và uy tín, thế đứng và sự tín nhiệm
của bạn bè thế giới đối với Việt Nam ngày càng cao. Tất nhiên chúng ta vẫn
còn phải tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng không vì thế mà đánh giá
thấp kết quả đạt được. Khó khăn là tất yếu trên bước đường đi lên và có
những yếu kém cũng là điều dễ hiểu.
Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết phát biểu (báo Lao Động) khi gia
nhập WTO thì hầu hết tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế đều chịu ảnh
hưởng trước “biển lớn”. Ngân hàng là trung tâm của nền kinh tế, khi hội nhập
thì ngân hàng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng đầu tiên. Ngân hàng là một doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ, tự huy động vốn để cho vay, hay là “đi vay để cho
vay” hưởng chênh lệch tỷ lệ lãi suất giữa tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi với
tỷ lệ lãi suất cho vay. Ngân hàng cũng là một tổ chức tài chính, có vai trò là
thực thi các chính sách tiền tệ, góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông
qua chức năng tạo tiền. Tuy nhiên sự phá sản của một ngân hàng lớn lại có
thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế hơn sự phá sản của một tập
đoàn sản xuất thép hay sản xuất ôtô. Và các quy chế giành riêng cho hoạt
động ngân hàng là các quy chế đặc biệt và hết sức chặt chẽ. … Một ngân hàng
sụp đổ khi mà ngân hàng gặp rủi ro mất khả năng trả nợ các khoản vay của
ngân hàng đối với khách hàng. Nhưng sự sụp đổ của một ngân hàng không
chỉ dừng lại ở một ngân hàng mà nó còn gây ra hiệu ứng domino, kéo theo sự
sụp đổ của hàng loạt ngân hàng trong cùng hệ thống. Đó chính là lí do để
ngân hàng trở lên quan trọng, để tránh cho ngân hàng khỏi những thiệt hại đối
với những rủi ro có thể xảy đến chúng ta phải cùng tìm hiểu các biện pháp
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
1
Chuyên đề tốt nghiệp


nhằm hạn chế những rủi ro đó. Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Hùng Vương em thấy vấn đề về rủi
ro tín dụng là vấn đề bức thiết nhất hiện nay. Vì vậy em đã quyết định chọn
đề tài “ Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn chi nhánh Hùng Vương_ Hà Nội”.
Trên cơ sở kiến thức và sự hướng dẫn tận tình của Cô Cao Ý Nhi, và sự
nhiệt tình giúp đỡ của các anh chị, cán bộ công tác tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Hùng Vương đã giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sau đây là kết cấu nội dung của chuyên đề về “ Hạn chế rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh
Hùng Vương_ Hà Nội”.
Lời Mở Đầu
Chương 1: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Hùng Vương_ Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hùng Vương_Hà Nội
Kết Luận
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH NGÂN HÀNG
1.1 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.1.1 Khái niệm :
Tín dụng là quan hệ vay mượn sử dụng vốn của lẫn nhau dựa trên

nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín dụng ngân hàng là quan hệ
tín dụng giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về
TLSX là cơ sở ra đời tín dụng. Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện của chế độ tư
hữu về TLSX là cơ sở hình thành sư phân hoá xã hội: của cải, tiền tệ có xu
hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có
thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu của cuộc sống,
đặc biệt là khi xảy ra những biến cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện
đó đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội,
thực hiện điều hoà nhu cầu vốn tạm thời của cuộc sống. Sản xuất hàng hoá là
nguyên nhân ra đời của tín dụng. Vì vậy bất cứ xã hội nào có sản xuất hàng hoá
là có sự hoạt động của tín dụng. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, các
doanh nghiệp có vốn kinh doanh phải có một số vốn nhất định. Do đặc điểm
của vốn tuần hoàn theo công thức T-H-T và do tính chất thời vụ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, mà mỗi doanh nghiệp có lúc thừa vốn có lúc thì
thiếu vốn. Nhu cầu về tín dụng là một nhu cầu không thể thiếu được.
Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở
bất cứ phương thức nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như là vay mượn
tạm thời một vật hoặc một số tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được
giá trị của hàng hoá hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, giữa
họ có mối quan hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng
đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người
cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng

nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ, trái
phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung
cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.
Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá,
tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt
và bút tệ.
Trong nền kinh tế thị trường đại bộ phận quỹ vay tập trung qua ngân
hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá,
trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia
cấp vốn xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu
dùng cá nhân.
1.1.2 Phân loại :
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Loại tài sản
này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
A_ Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng
như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân
thành:
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
 Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu
động;
 Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản
cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị
chống hao mòn;
 Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như
nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian

sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín
dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao
hơn tín dụng trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu
động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn
do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ này như kì hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản
lí thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung
và dài hạn…
B_ Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh,
cho thuê..
 Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho
vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định
lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số
cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì. Dư nợ
cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Khi lập các báo cáo tài chính( thời điểm), cho vay dưới hình thức dư nợ. Một
số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi
được nhận trước.
 Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một số thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ)
 Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng

thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài
hạn( Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ
đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê)
 Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
C_ Tín dụng được chia theo đảm bảo :
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về
nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên,
ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể
bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết
của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử
dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
 Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách
hàng có uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc các món vay
tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của
Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho
vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán
hàng…, cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
 Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách
hàng phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Chi nhánh Hùng Vương_Hà Nội phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng
của tài sản đảm bảo như: quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán,
khả năng tài chính của người thứ ba…, có khả năng giám sát việc sử dụng

hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
D_ Tín dụng phân loại theo rủi ro:
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và
thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi
ro tín dụng, tức là xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín
dụng, dự trữ quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín
dụng.
 Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tínd dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm,
khách hàng gặp nhiều thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấp nhở hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
E_ Phân loại khác:
 Theo ngành kinh tế: công, nông nghiệp…
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
 Theo đối tượng tín dụng: Tài sản lưu động, tài sản cố định
 Theo mục đích: Sản xuất, tiêu dùng…
Các cách cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín
dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm
vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví
dụ ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bên cạnh việc
đa dạng hoá các ngành tài trợ, vẫn tập trụng tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp

và nông thôn. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh
lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn
mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.3 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
- Các chủ thể tham gia gồm một bên ngân hàng và các chủ thể khác
trong nền kinh tế như: các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Vốn tín dụng chủ yếu là tiền tệ, cũng có thể là tài sản.
- Thời hạn tín dụng của ngân hàng cũng rất linh hoạt có thể là ngắn
hạn, trung hạn hoặc dài hạn.
- Công cụ của tín dụng ngân hàng cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng..v..v
- Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong
đó ngân hàng là người trung gian tín dụng giữa người gửi tiền và người vay tiền.
- Mục đích của ngân hàng là nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc
tiêu dùng qua đó thu được lợi nhuận.
1.1.4 Chức năng của tín dụng ngân hàng:
1.1.4.1 Chức năng phân phối lại tài nguyên:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Chính nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một
phần tài nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Phân phối tín dụng được thực hiện bằng hai cách:
 Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời
chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó là kinh doanh và tiêu
dùng. Phương pháp phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng
thương mại và việc phát hành trái phiếu của Nhà nước và các công ty.
 Phân phối gián tiếp: Là việc phân phối được thực hiện thông qua các
tổ chức trung gian, như ngân hàng, HTX tín dụng, công ty tài chính…

Trong nền kinh tế hiện đại, phân phối vốn tín dụng qua các tổ chức
trung gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Một mặt các tổ chức trung gian tập
trung vốn tiền tệ của các doanh nghiệp và cá nhân để làm nguồn vốn cho vay,
mặt khác chúng phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp, cá nhân và một phần cho kho bạc Nhà nước.
Giữa phân phối qua tín dụng và phân phối qua Ngân sách có những
điểm khác nhau: Đối với tín dụng phân phối trên cơ sở hoàn trả, phân phối
vốn liên quan đến thu nhập quốc dân, và tổng sản phẩm xã hội, phân phối vốn
mang tính chất cấp phát, phân phối chủ yếu liên quan đến thu nhập quốc dân
và phân phối chủ yếu cho lĩnh vực phi sản xuất.
1.1.4.2. Tạo cơ sở để lưu thông dấu hiệu trị giá ( tiền không đủ giá).
Trong thời kỳ đầu lưu thông là hoá tệ, nhưng khi các quan hệ tín dụng phát
triển, các giấy nợ đã thay thế cho một bộ phận tiền trong lưu thông. Lợi dụng đặc
điểm này, các ngân hàng đã bắt đầu phát hành tiền giấy vào lưu thông. Lúc đầu
tiên giấy phát hành trên cơ sở có dữ trữ quí kim( vàng), nhưng dần dần tiền giấy
phát hành vào lưu thông tách rời với dự trữ vàng của ngân hàng.
Ngày nay ngân hàng cung cấp cho lưu thông chủ yếu được thực hiện
thông qua con đường tín dụng. Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn
định, đồng thời đảm bảo đủ phương tiện phục vụ cho lưu thông.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Như vậy, nhờ hoạt động của tín dụng mà ngân hàng thực hiện chức
năng tạo tiền phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tiền tệ do ngân
hàng tạo ra gồm:
 Tiền tệ: Tiền giấy và tiền kim loại không đủ giá trị.
 Bút tệ.
Nhờ vào công cụ nói trên mà tốc độ lưu thông hàng hoá nhanh hơn và
do vậy, hàng hoá đi từ hình thái tiền tệ vào sản xuất và ngược lại được thúc
đẩy mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, tín dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và

phát triển kinh tế.
1.1.5 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế:
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng có các vai trò
sau:
• Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được
liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ
nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng còn
là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng
thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những
nguồn vốn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy
tín dụng đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến
bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
 Thứ hai: Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiều tệ tạm thời chưa sử
dụng, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín
dụng được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp kinh
doanh hiệu quả.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
 Thứ ba: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát
triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất
khẩu… Nhà Nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ
đó tạo điều kiện phát triển các ngành khác.
 Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán
kinh tế của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả

và có lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn
có hiệu quả. Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử
dụng vốn tín dụng phải quan tâm đên việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh
lợi của doanh nghiệp.
 Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
Trong điều kiện kinh tế “ mở”, tín dụng đã trở thành một trong những
phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO
TÍN DỤNG
1.2.1Khái niệm về rủi ro tín dụng:
1.2.1.1 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng, và các lĩnh vực khác. Nhưng rủi ro là thường có hai đặc tính sau:
Thứ nhất là biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
Thứ hai là tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Như mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp,
những kinh doanh tiền tệ và ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi ro
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
do tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp
khác. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia
thành hai loại là rủi ro đặc thù và rủi ro môi trường.
• Rủi ro môi trường:
Rủi ro môi trường luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói
cách khác rủi ro môi trường gồm hai loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro
môi trường cạnh tranh.
o Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường đó ngân hàng hoạt động chứa

đầy muôn vàn rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách như: làm
suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng
những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này rất khó kiểm soát nên chúng ở
mức độ hạn chế trên sổ dự báo. Các loại rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân
hàng thường gặp là: rủi ro tự nhiên và rủi ro bất khả kháng ( như: lũ lụt, hoả
hoạn, động đất…); rủi ro về luật pháp liên quan đến sự vận động của nền kinh
tế và chu kỳ kinh doanh ( như: lạm phát, suy thoái kinh tế…) ảnh hưởng của
các yếu tố này đến ngân hàng rất lớn; rủi ro về điều chỉnh: là nhằm thực hiện
các chính sách vĩ mô, thì các nhà lãnh đạo đưa ra các chính sách tiền tệ, lãi
suất… Đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
o Rủi ro môi trường cạnh tranh: các ngân hàng trong hoạt động kinh
doanh thường chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía từ
đó luôn rất nhiều các tác động đầy rủi ro. Trong rủi ro môi trường cạnh tranh
thì có các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro
thanh khoản.
• Rủi ro đặc thù: luôn tồn tại trong lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh.
Rủi ro đặc thù là rủi ro do bản thân của ngành hay lĩnh vực kinh doanh
tạo ra. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
o Rủi ro về quản lý: rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân
hàng do thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó
cũng có thể xảy ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên
ngân hàng.
o Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh bao
gồm: rủi ro về hoạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hoá, rủi ro về công
nghệ, rủi ro đòn cân nợ và rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
o Rủi ro thích ứng vốn: nó thể hiện ngân hàng có qui mô vốn nhỏ
thường ít an toàn hơn ngân hàng có qui mô vốn lớn.

o Rủi ro tài sản thế chấp: tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp
thiệt hại cho ngân hàng…
1.2.1.2 Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân
hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả , hoặc không
trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng
không dự kiến là khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho
rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với
hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động
chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó
là một thành công trong quản lý.
Rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao
gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho
vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân
hàng như: các hoạt động bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại,
cho vay ở thị trường liên ngân hàng, những chứng khoán có giá ( trái phiếu,
cố phiếu…..), trái quyền, Swap, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ..v..v… Ngày
nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động chủ yếu của
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng. Hiện nay ở trên tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc
biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà cả trong toàn nền kinh
tế. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những
lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng
giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay, như: sàng lọc và giám
sát khách hàng vay, thiêt lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định các
mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu sao, không một
ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi viết nó ra những qui định
hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro

của người vay tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả.
Và đó được gọi đó là rủi ro tín dụng
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Rủi ro tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh
trong quá trình kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Tuy
nhiên tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số
vốn lưu động trong một thời gian ngắn.
Đối với loại tín dụng ngắn hạn, rủi ro thường xảy ra khi cán bộ tín dụng
mắc phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và bất cẩn trong
công tác thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét
kỹ lưỡng để đưa ra các kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng của công tác thẩm định.
1.2.2.2 Rủi ro tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là khoản cho vay với mục đích đầu tư xây dựng
cơ bản, mua sắm tài sản cố định. Tín dụng trung và dài hạn là khoản đầu tư có
thời hạn thu hồi vốn dài, đối với tín dụng trung hạn là từ 1 đến 3 năm, đối với
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
tín dụng dài hạn là trên 5 năm. Ngoài các đặc điểm trên, tín dụng trung và dài
hạn còn có một đặc điểm quan trọng là có số lượng lớn.
Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến
bất lợi trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian
thu hồi vốn quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các nhà đầu tư cần
phải tính đến các biến động về chính trị, chính sách của nhà nước (các yếu tố
phi kinh tế) nếu không rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
Để tránh được loại rủi ro này, các nhà quản lý cần phải tính, cân nhắc
một cách chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực

hiện dự án. Trong đó có một số yếu tố cực kỳ quan trọng về kinh tế kỹ thuật
như: nguyên nhiên vật liệu đầu vào, khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra, các
sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế hiện đang có bán trên thị trường, xu
hướng và thái độ của thị trường đối với loại sản phẩm này, lựa chọn công
nghệ phù hợp, khả năng làm chủ công nghệ của chủ đầu tư, v.v.. và các yếu tố
phi kinh tế khác như: Chính sách của Nhà nước đối với ngành nghề, sản phẩm
sau đầu tư, năng lực và uy tín của bên cung cấp thiết bị công nghệ…
1.2.2.3 Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua dó khách
hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân
hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất
chiết khấu và phí hoa hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập
trên cơ sở hợp đồng kinh tế được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ
chiết khấu. Thương phiếu này được thành lập khi không có một quan hệ
thương mại tương ứng nhằm mục đích đánh lừa ngân hàng. Thương phiếu giả
tạo có các loại sau:
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Thương phiếu trống: người bị ký phát không có hoặc không biết.
- Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị
ký phát.
- Thương phiếu trống hỗ tương: là thương phiếu được lập trên cơ sở thoả
thuận giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát lệnh.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần:
- Xem xét kỹ tính chất pháp lý của thương phiếu
- Xem xét tính thương mại của thương phiếu
- Đánh giá khả năng trả nợ của người bị ký phát
1.2.2.4 Rủi ro tín dụng thuê mua

Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo
lời hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người
thuê với giá thoả thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm:
- Người đi thuê - tức là các doanh nghiệp
- Người cho thuê - ở đây là các ngân hàng
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê,
người cho thuê sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách
nhiệm thanh toán sau đó giao tài sản cho người đi thuê. Thuê mua bất động
sản và thuê mua động sản. Khả năng rủi ro đối với hình thức tín dụng này là
tương đối thấp.
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì
trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở
hữu của ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối
ổn định về dễ quản lý. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xảy ra khi người đi thuê bị
thiên tai, hỏa hoạn gây ra thiệt hại cho tài sản thuê mua hay sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật khiến nó trở nên lỗi thời không phù hợp với thời đại dẫn tới
khả năng sử dụng thiết bị giảm đi và làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là
khác nhau. Tuỳ vào mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải
đưa ra những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.
1.2.3 Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng ngân hàng:
1.2.3.1 Phân loại nợ:
 Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn.
Đây là các khoản nợ mà ngân hàng đánh giá là có đủ khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
 Nhóm 2: Nợ cần chú ý.

Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ
đã được cơ cấu lại.
 Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn cơ cấu lại.
 Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày
theo thời hạn cơ cấu lại
 Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Các khoản nợ khoanh chờ xử lý
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đo lường
Chất lượng của hoạt động tín dụng trong kinh doanh ngân hàng là yếu
tố quan trọng hàng đầu và cũng là yếu tố phức tạp nhất khi phân tích hoạt
động ngân hàng. Ngoài ra khi đánh giá chất lượng của hoạt động tín dụng
thường chứa đựng yếu tố chủ quan. Trường hợp ngân hàng sụp đổ do chất
lượng hoạt động tín dụng thấp xảy ra rất nhiều. Nhưng thực tế các ngân hàng
thường không thừa nhận, đôi khi che giấu những vấn đề về hoạt động tín dụng
của mình. Nếu chỉ căn cứ vào bảng cân đối tài sản thì khó mà nhận định được
về tình hình yếu kém của hoạt động tín dụng, cứ thế tích tụ dần và hậu quả
cuối cùng là sự sụp đổ của ngân hàng.
Tóm lại muốn đánh giá một các chính xác tình hình hoạt động tín dụng

của ngân hàng thì cẩn phải có sự phối kết hợp đồng bộ nhiều chỉ tiêu trên
nhiều góc độ. Có như vậy mới làm tính chủ quan trong đánh giá chất lượng
tín dụng đối với một ngân hàng.
• Chỉ tiêu xác suất rủi ro.
Dựa vào chỉ tiêu này các nhà quản lý xác định được mức độ rủi ro
tổng hợp trong suốt thời hạn đầu tư.
Cp= 1- [(p1).(p2)]
Với Cp: Xác suất rủi ro
p1: xác suất trả nợ của khoản tín dụng năm thứ nhất
p2: xác suất trả nợ của khoản tín dụng năm thứ hai
Ưu điểm của phương pháp này là cho phép nhà quản lý biết trước được
mức độ rủi ro dự tính một cách rõ ràng dựa trên các yếu tố thị trường. Hơn
nữa, nếu thị trường trái phiếu chiết khấu chính phủ và công ty là thanh khoản,
thì có thể dễ dàng dự tính được rủi ro vỡ nợ trong tương lai. Tuy nhiên, trong
thực tế thì chỉ có thị trường trái phiếu chính phủ là phát triển, còn thị trường
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
trái phiếu chiết khấu công ty rất nhỏ bé, cho nên phương pháp này tỏ ra chưa
thật hiệu quả trong việc đánh giá rủi ro tín dụng
• Tỷ lệ nợ quá hạn= Dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ.
• Tỷ lệ nợ xấu = Dự nợ xấu/ Tổng dư nợ
• Tỷ lệ mất vốn = Dư nợ mất vốn / Tổng dư nợ
Ba chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng
hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để
tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là
một lời cảnh báo cho ngân hàng. Hy vọng thu lại tiền cho vay trở nên mong
manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau về kì hạn nợ và

nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng.
Cán bộ ngân hàng khi cho vay nhiều khi không quan tâm thích đáng
đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ
đặt kì hạn nợ ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì
thu nhập của người vay. Khi đến hạn, người vay sẽ không thể trả nợ được,
gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người
vay, buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải
chịu lãi suất phạt
Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ:
Những khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được
đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để chi dấu đối với ngân hàng cấp
trên, hoặc để khổng phải chịu lãi phạt, khách hàng và cán bộ ngân hàng thỏa
thuận vay khoản mới để trả nợ cũ. Cán bộ ngân hàng cũng có thể thực hiện
giãn nợ đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đúng tình
hình rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay:
Một số khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng cách phát mại tài
sản (doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng…). Những
khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Khi Chính
phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của
ngân hàng, trở thành tài sản “ảo”. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp. Các ngân
hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh
( khi được Chính phủ đồng ý). Tuy nhiên, chúng thực sự đe dọa thu nhập của
các ngân hàng nếu chính phủ không tìm được nguồn bù đắp.
• Tỷ lệ dự phòng rủi ro đã trích = Dự phòng rủi ro đã trích/ Tổng dư nợ

Theo Quyết định số: 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung Quyết định
số: 493/2005/QĐ-NHNN thì tỷ lệ trích lập dự phòng cho từng nhóm nợ như
sau:
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
Số tiền dự phòng cụ thể phải được tính theo công thức sau:
R = max {0,(A-C)}*r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích.
A: số dư nợ gốc của khoản nợ.
C: giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo.
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Dự phòng chung: TCTD thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung
bằng 0.75% tổng giá trị của các khoản nợ từ Nhóm 1 đến Nhóm 4 quy định
tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ rủi ro càng cao vì dự phòng trích lập sẽ
làm tăng chi phí của Ngân hàng dẫn đến lợi nhuận giảm thậm chí có thể dẫn
tới thua lỗ cho Ngân hàng.
• Tỷ lệ tổng lãi treo phát sinh so với thu nhập từ cho vay.
• Tỷ lệ miễn giảm lãi so với thu nhập từ cho vay.
• v.v…
1.2.4 Tác hại của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng cũng là những biến cố không mong đợi, không những
thế nó mang lại thiệt hại vô cùng to lớn không chỉ đối với bản thân ngân hàng
mà còn ảnh hưởng tới cả nền kinh tế và xã hội.

1.2.4.1 Đối với ngân hàng:
Ngân hàng là đối tượng trực tiếp chịu các thiệt hại khi rủi ro tín dụng
xảy ra. Trước hết là ngân hàng sẽ bị thiệt hại về tài chính. Ngoài ra ngân hàng
còn chịu các thiệt hại về uy tín của ngân hàng. Đánh mất lòng tín của những
người gửi tiền vào ngân hàng, điều này vô cùng quan trọng nó gần như quyết
định đến cả sự nghiệp của ngân hàng. Khi người vay không trả được nợ thì
ngân hàng bị mất khoản lợi nhuận, thu nhập và thậm chí còn mất một khoản
tiền để bù đắp các khoản cho vay bị mất vốn. Nó làm giảm khả năng thanh
khoản của ngân hàng, đánh mất lòng tin của khách hàng. Khả năng huy động
vốn của ngân hàng sẽ giảm đi, như vậy nguồn tài trợ cho các hoạt động cho
vay của ngân hàng giảm đi kéo theo giảm lợi nhuận. Và như vậy có thể dẫn
đến ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản. Rủi ro về tín dụng có thể làm đảo
lộn thành quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhiều năm, thậm chí nó
ảnh hưởng đến khả năng sống còn của ngân hàng.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.4.2 Đối với khách hàng:
Khi ngân hàng gặp rủi ro thì khả năng khách hàng bị mất vốn, do ngân
hàng không thu lại được các khoản cho vay. Khi ngân hàng mất khả năng
thanh khoản nó tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nếu ngân hàng hoàn toàn không thể chi trả cho khách hàng điều đó có thể
khiến cho nhiều khách hàng trở thành những người trắng tay.
Tuy nhiên không chỉ những người gửi tiền chịu ảnh hưởng mà bản thân
những người đi vay cũng chịu ảnh hưởng. Khi mà ngân hàng mất vốn thì khả
năng tài trợ của ngân hàng giảm sút, điều đó có thể làm cho ngân hàng không
đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do đó khách hàng phải tìm
ngân hàng khác đảm bảo được khả năng tài trợ cho hoạt động đầu tư của họ.
1.2.4.3 Đối với nền kinh tế xã hội:
Khi mà khách hàng mất lòng tin vào ngân hàng, thì tình trạng khách

hàng đến tranh nhau rút tiền để tránh khả năng mất tiền của họ khi gửi vào
ngân hàng. Tình trạng này khiến cho ngân hàng lâm vào chỗ phá sản. Điều
này vô cùng nguy hiểm, nó kéo theo sự bất an của dân chúng vào cả hệ thống
ngân hàng, khả năng sụp đổ của cả ngành ngân hàng là hoàn toàn có thể.Thực
tế là giữa các ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, một khi ngân hàng
bị khủng hoảng nó sẽ ảnh hưởng ngay tức thì tới các ngân hàng khác, và gây
mất ổn định đến thị trường tiền tệ. Trong khoảng mười năm gần đây ta có thể
chứng kiến tình trạng mất lòng tin của khách hàng vào ngân hàng ACB chỉ vì
những thông tin xấu. Nhưng để cứu ngân hàng ACB thoát khỏi tình trạng này
Ngân hàng Nhà Nước phải đứng ra cứu ngân hàng ACB.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là một loại rủi ro đặc thù của ngân hàng, do hoạt động
tín dụng là một đặc thù của ngành ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
22
Chuyên đề tốt nghiệp
ro tín dụng cũng có những điểm khác biệt với các loại rủi ro khác. Nhân tố tác
động đến rủi ro tín dụng gồm các nhân tố môi trường, khách hàng, ngân hàng.
1.2.5.1 Các nhân tố môi trường:
Trước hết đó là các vấn đề về chính sách vĩ mô của chính phủ đóng vai
trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của ngân hàng thương mại nói riêng.
Trong một nền kinh tế, chính phủ ra đưa ra các chính sách tiền tệ và
ngân hàng là đơn vị thực hiện các chính sách đó. Tuy nhiên, những chính sách
đó có thể có lợi cho ngân hàng, nhưng cũng có thể có hại. Khi mà ngân hàng
nhà nước thay đổi lãi suất huy động, hoặc tỷ lệ dự trứ bắt buộc... nó làm thay
đổi mọi kế hoạch của ngân hàng. Khi mà lãi suất huy động tăng lên làm cho
ngân hàng gặp khó khăn trong việc cho vay. Với mức lãi suất huy động cao
thì lãi suất đối với hoạt động tín dụng cũng phải được đẩy lên để đảm bảo lợi
nhuận cho ngân hàng. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc khách hàng

trả lãi và gốc cho ngân hàng là rất khó, và rủi ro tín dụng cao lên.
Tuy nhiên ngoài các yếu tố trên về mặt pháp lý, cũng là một nhân tố
ảnh hưởng tới vấn đề rủi ro trong tín dụng. Khi mà các quy định về quy trình
trong hoạt động tín dụng không được quy định chặt chẽ và hợp lý. Nó sẽ
không chỉ gây khó khăn cho hoạt động tín dụng, mà còn tạo khả năng rủi ro
xảy ra. Khi mà quy định hợp lý và chặt chẽ nó sẽ hạn chế được những trường
hợp xấu trong hợp đồng tín dụng.
Thứ ba, yếu tố chính trị và xã hội tác động tới hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Chúng ta đã từng chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế của Thái
Lan khi có đảo chính trong nội bộ chính phủ. Khi mà tình hình chính trị bất
ổn làm sáo trộn mọi vấn đề trong xã hội và cả các hoạt động tín dụng tại ngân
hàng. Tình trạng này làm cho các doanh nghiệp sản xuất bị gặp khó khăn
trong hoạt động kinh doanh, như vậy khả năng thanh toán cho ngân hàng là
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
23
Chuyên đề tốt nghiệp
không thể. Vì vậy rủi ro tín dụng khi mà tình hình chính trị bất ổn là rất cao,
tuy nhiên nước ta là một nước có nền chính trị xã hội tương đối ổn định.
Ngoài các yếu tố trên, còn có các yếu tố tự nhiên như thiên tai, dịch
bệnh, bão lũ... Đây là những yếu tố bất khả kháng, yếu tố này không thể
lường trước được. Bản thân các doanh nghiệp vay vốn cũng không thề dự tính
được. Trong các năm gần đây chúng ta đều được chứng kiến tai họa xảy đến
đối với các doanh nghiệp chăn nuôi, khi mà vốn liếng của họ bị thiêu huỷ hết
do dịch cúm gia cầm. Rất nhiều gia đình vay vốn ngân hàng để chăn nuôi
nhưng nay bị mất trắng. Họ gần như không có khả năng thanh toán nợ cho
ngân hàng. Đồng nghĩa với điều đó là việc ngân hàng mất vốn hay rủi ro tín
dụng xảy ra.
1.2.5.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ phía khách hàng
Đối với các doanh nghiệp kinh nghiệm và năng lực kinh doanh đang
còn ờ trình độ thấp, thì hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt

được thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Khi được vay vốn
kinh doanh thì dự án này sẽ gặp nhiều khó khăn, khả năng xảy ra rủi ro là rất
cao. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng sẽ rất lớn.
Nhân tố không lành mạnh từ phía khách hàng là việc khách hàng lừa
đảo, sử dụng vốn sai mục đích, trốn tránh trách nhiệm uỷ quyền và bảo lãnh.
Khi mà khách hàng lừa đảo họ lợi dụng các điểm yếu và kẽ hở của ngân hàng.
Họ lập các phương án kinh doanh giả, cùng các giấy tở thế chấp giả mạo hoặc
đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng một bộ hồ sơ. Đối với trường hợp bảo lãnh
và uỷ quyền xảy ra chủ yếu đối với các công ty lớn. Một số công ty, công ty
lớn đứng ra bảo lãnh uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay
vốn của ngân hàng để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng vào hoạt động
và kinh doanh. Tuy nhiên khi đơn vị chi nhánh không trả được nợ thì đơn vị
bảo lãnh không chịu đứng ra thực hiện nghĩa vụ của mình.
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
24
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.5.3 Các nhân tố từ ngân hàng
Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu thu được từ hoạt động tín dụng. Đó
là nguồn thu chính của các ngân hàng do đó, việc tăng lợi nhuận tức là phải
tăng quy mô của hoạt động tín dụng lên. Như vậy đồng nghĩa với rủi ro tín
dụng tăng lên. Việc mở rộng tín dụng lên thì việc giám sát và kiểm tra các
hợp đồng tín dụng trở lên yếu kém đi. Việc giám sát của các cán bộ tín dụng
đối với các hợp đồng tín dụng lơi lỏng, và việc tuân thủ các quy trình tín dụng
cũng bị lơ là.
Trình độ và năng lực của cán bộ tín dụng yếu kém, đây cũng là một
nhân tố gây ra rủi ro trong tín dụng. Một người cán bộ yếu kém về năng lực,
khi tiếp nhận hồ sơ của khách hàng thì khả năng phân tích và thẩm định dự án
không đúng về dự án. Trong trường hợp này nhân viên tín dụng có thể bị
khách hàng lừa gạt, hoặc lựa chọn dự án tài trợ không chính xác. Như vậy khả
năng mất vốn rất cao. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có năng lực cao.

Quy trình tín dụng đối với các ngân hàng là một bí mật riêng. Quy trình
tín dụng chưa chặt chẽ hoặc quá cụ thể, quá linh hoạt điều có thể là nhân tố
gây ra rủi ro tín dụng. Những vấn đề nổi cộm hiện nay trong các quy trình tín
dụng là đánh giá lại giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Nhân tố do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng gây ra
trong quá trình thu hút khách hàng. Đó là việc thẩm định khách hàng trở nên
sơ sài, chủ quan. Thậm chí có nhiều ngân hàng liều lĩnh chấp nhận rủi ro cao,
nhằm đạt được mức lợi nhuận cao mà bất chấp những hợp đồng tín dụng
không lành mạnh, thiếu an toàn.
Ngoài ra còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
thuộc về ngân hàng như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong ngân
hàng, cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ...
Nguyễn Ngọc Hà Lớp: Ngân hàng 46A
25

×