Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Anh chị hãy phân tích, chứng minh sự ra đời của đảng cộng sản việt nam là bước ngoặc vĩ đại của cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.54 KB, 16 trang )

Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
Đề tài: “anh/chị hãy phân tích, chứng minh sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặc vĩ đại của
cách mạng Việt Nam”.
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
Bài làm
I. Mở đầu.
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động
nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành
được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những
bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là
thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến
nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu
sắc" Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách mạng, từ sự
lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được vai
trò và sự cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa to lớn từ sự
xuất hiện, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (3- 2- 1930) là vô cùng quan
trọng. Năm 2010 cũng là năm kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng. Do vậy, em
lựa chọn đề tài: "Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam" làm đề
tài tiểu luận của mình. 2. Mục đích, yêu cầu: Là công dân của một đất nước Xã
Hội Chủ Nghĩa ,chịu sự dìu dắt của Đảng Cộng Sản, chúng ta phải nắm vững
phải quán triệt được tư tưởng đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu
biết về Đảng và vai trò củaĐảng. Tư tưởng của Đảng là một tư tưởng đúng, tư
tưởng mang tính khoa học biện chứng và điều đó đã được lịch sử chứng minh.
Đựơc chứng minh ngay việc ra đời của Đảng Cộng Sản, sự ra đời của Đảng
Cộng Sản hoàn toàn hợp quy luật .Vai trò của Đảng Cộng Sản vô cùng to lớn,


vai trò đó có ảnh hưởng quan trọng và không thể thiếu đối với lịch sử và tương
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
lai của nhân loại. 3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về ý nghĩa
của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đối với lịch sử dân tộc Việt Nam
không còn là vấn đề mới, mà đây là vấn đề có lịch sử nghiên cứu từ rất lâu và
cũng được sự quan tâm của nhiều tác giả, nhóm tác giả, nhiều cơ quan, tổ chức
và đến nay vấn đề này cũng được công bố rộng rãi, là một trong những nội dung
giảng dạy ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học, mà còn ở các cấp học phổ
thông. Như vậy, đây là vấn đề đã mang tính phổ biến và không còn là mới. Song,
tác giả lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng trong bối cảnh
lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên ý nghĩa sự ra đời của Đảng.
II. Tình hình đất nước trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
a. Quân Pháp xâm lược và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp.
Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà
Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà
Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ
đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế
quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành
đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn.
Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán
đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước
Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Về kinh tế, tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở
mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài
nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính
sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc,
nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.
SV: Trần Thanh Nhàn

Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
Về xã hội, các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải
quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong
kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của
nhân dân ta.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương
thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu
giai cấp mới. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá
thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính
trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác
tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế
lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do
vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong
kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể
tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến
và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc
lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số
đông vẫn giữ được khí tiết. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường
đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu
tranh chống thực dân, phong kiến.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và
phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một
lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn

để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ
XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành
phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ
còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công
nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người
làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô
sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm
1930 có đến hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt
Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất
thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này
có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách
mạng.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, lại được lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân
tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng
11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920
đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi
công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm
1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang
đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu
hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 1928-1929, khi Việt
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều
kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự
giác.

b. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc .
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế
kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta
chống đế quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng
lợi vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.
Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ
chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong
trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn
khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh
đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành
thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở
nước ta bộc lộ sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong
kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con
đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của
Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách
mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911) nhưng đều thất bại.
Từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển
biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản,
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là
chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có tác
động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.
Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức,
tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm có khuynh hướng cộng
sản chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ, về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên

cách mạng đồng chí Hội và các tổ chức yêu nước khác như: hội Phục Việt
(1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng
của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng (1926-1930), đã
diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt
Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
III. Những thành tựu đạt được của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1. Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản,
kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng
cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng
cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và
không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia
rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng.
Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì
vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho
những ng¬ười cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất
thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng
sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại
diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không
thành.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là
phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên
quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương
Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là
Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở
Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại
biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác
định là 'đội tiền phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời,
qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến,
thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng
đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản
nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng
nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân
lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức,
trung nông để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ".
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và
thông qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một
cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng
sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy,
việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác-lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm
vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai
cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm
dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của
Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp
sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng
trong lịch sử nước ta.
2. Những thành tựu đạt được của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,ở Việt Nam đã từng tồn tại
nhiều tổ chức chính trị, đảng phái tập hợp và và lãnh đạo những phong trào yêu
nước của quần chúng nhân dân để lại nhiều trang sử vẻ vang, nhiều tấm gương
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
oanh liệt thôi thúc tinh thân của nhân dân cả nước .Song, do hạn chế về mặt ý
thức hệ nên những tổ chức ấy đã không đề ra được đường lối và phương pháp
cách mạng đứng đắn ; không tập hợp và phát huy được lực lượng to lớn của cả
dân tộc ; không có khả năng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Từ khi ra đời, Đảng Cộng Sản Việt Nam
được trang bị lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê nin và được
xây dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản,đã có đủ khả
năng phân tích đúng đắn những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, các giai cấp,
tầng lớp,… từ đó khắc phục được những hạn chế trên. Từ khi có Đảng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng

lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
a. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám (1930-1945)
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. “Thấm nhuần
chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản
Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có
ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân
dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng
to lớn chung quanh giai cấp mình”
(1)
.
Theo Cương lĩnh đó, Đảng đã phát cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh
cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo
cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Sau cuộc đấu
tranh đầy gian khổ để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng, khôi phục phong
trào cách mạng những năm 1932-1933, Đảng đã biết chuyển ngay sang đấu tranh
đòi dân sinh dân chủ thời kì 1936-1939 khi tình hình trong nước và thế giới có
sự biến chuyển mới. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh
hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng, sự giác ngộ chính
trị của quần chúng được nâng cao.
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã chuyển hướng chiến
lược cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung vào mục tiêu
giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa
vũ trang nhằm đảnh đuổi mọi kẻ thù ngoại xâm bất luận da trắng hay da vàng.
Chính từ sự chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời
khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945.

Bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập
tan xiềng xích nô lệ của thực dân gần 90 năm và chế độ quân chủ chuyên chế để
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỉ
nguyên mới của dân tộc Việt Nam – kỉ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân,
đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1945-1954)
Sau cách mạng Tháng Tám, khó khăn của nước Việt nam Dân chủ Cộng
hoà là hết sức to lớn. Ba thứ giặc: “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, đều là
những hiểm hoạ đặt vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình
hình đó, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam. Với những cố
gắng phi thường, đến cuối năm 1946, nhân dân ta đã làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn xâm lược của các thế lực đế quốc, bảo vệ được độc lập của đất nước, giữ
vững chính quyền cách mạng, thành quả lớn nhất của cuộc cách mạng Tháng
Tám.
Từ ngày 19/12/1946, khi thực dân Pháp bội ước, gây chiến tranh xâm lược
ra cả nước, với ý chí “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ“, Đảng đã phát động toàn dân tiến hành
cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp theo đường lối chiến tranh
nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Trải qua những khó khăn ban đầu, đến cuối năm 1950, sau chiến dịch Biên Giới
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
thắng lợi, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã giành được những thắng lợi quan
trọng. Từ năm 1951, theo đường lối của Đại hội Đảng lần thứ hai, cuộc kháng
chiến của quân dân Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt, với cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên
Phủ, quân dân ta đã buộc thực dân Pháp phải đi tới đàm phán và kí kết Hiệp định
Giơnevơ, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can
thiệp Mĩ có ý nghĩ lịch sử vĩ đại. Đó là đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Pháp được đế quốc Mĩ giúp sức ở mức độ cao, bảo vệ được chính
quyền cách mạng, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương. Đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc và
tăng cường sức mạnh vật chất tinh thần cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đoa
còn có ý nghĩa cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở ra
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa
của thực dân Pháp
c. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước (1954-1975)
Với dã tâm làm bá chủ thế giới, từ tháng 7/1954, đế quốc Mĩ đã từ can thiệp
chuyển sang trực tiếp thay chân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc đấu tranh của
nhân dân ta vì độc lập, thống nhất trở nên hết sức gay go, phức tạp. Trải qua
nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương
chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình
thành. Đó là đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ
quốc.
Theo đường lối sáng suốt của Đảng, nhân dân miền Bắc đã hăng hái phấn
đấu xây dựng hậu phương xã hội chủ nghĩa và giành được những thành tựu hết
sức quan trọng. Đến năm 1965, miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc của
cách mạng cả nước, hậu phương có tiềm lực kinh tế quốc phòng ngày to lớn cho
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
miền Nam. Được sự chi viện của miền Bắc, với truyền thống “Thành đồng Tổ
quốc”, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng đấu tranh vượt qua những năm
tháng khó khăn của giai đoạn đấu tranh chính trị là chính, tiến tới cuộc nổi dậy
và “Đồng Khởi” (1959- 1960) theo Nghị quyết lần thứ 15 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng, giành quyền làm chủ ở các vùng nông thôn, rừng núi, đưa
cách mạng chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Tiếp đó đã đánh
bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ (1961- 1965), đưa cuộc
chiến đấu tiến lên mạnh mẽ, làm lung lay tận gốc rễ chế độ nguỵ quân, nguỵ
quyền tay sai.
Từ năm 1965, do đế quốc Mĩ gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đánh phá
ra miền Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến chống Mĩ,
cứu nước trên phạm vi toàn quốc và đề ra đường lối cho cuộc kháng chiến trong
giai đoạn mới, giai đoạn cả nước có chiến tranh. Với tinh thần “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, quân dân miền Bắc đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mĩ, bào vệ vững chắc hậu
phương, đồng thời ra sức sản xuất, công tác tạo nên tiềm lực to lớn chi viện miền
Nam với tất cả khả năng của mình. Quân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí kiên
cường giành được thắng lợi trong các mùa khô 1965- 1966, 1966- 1967 và nhất
là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) làm cho cuộc chiến
tranh cục bộ của Mĩ bị thất bại, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở
hội nghị Paris. Trong những năm 1969- 1975, quân dân miền Nam đã liến tiếp
đánh bại các thủ đoạn của chiến tranh “Việt Nam hoá” của đế quốc Mĩ, đã “đánh
cho Mĩ cút” và tiến tới “đánh cho nguỵ nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh mùa xuân 1975.
Thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước với
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
nước ta và với thế giới. Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mĩ, cứu
nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã ghi
rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam
chông Mĩ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng người về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một

chiến công vĩ đại của thế kỉ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
tính thời đại sâu sắc“
(2)
.
d. Chặng đường thứ tư và thắng lợi của công cuộc Đổi mới sau khi thống nhất
đất nước.
Thắng lợi của nhân dân ta sau hơn 30 năm đã đưa đất nước bước sang một
thời kì mới, thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh phải
khắc phục rất nhiều khó khăn do hậu quả nhiều mặt của chiến tranh để lại, Đảng
và nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía
Nam, phía Bắc, trong những năm 1975- 1986, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả
nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành quả to lớn trong
bảo về Tổ quốc và những thành tựu đáng kể về kinh tế. Đồng thời, trong thời
gian đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường
lối đổi mới. Được nhân dân đón nhận và thực hiện, trong những năm 1986-
1996, công cuộc đổi mới đã giành được nhiều thành quả to lớn, đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và thực hiện đường lối của Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), lần thứ IX
(2001), lần thứ X (2006), công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước càng được đẩy mạnh một cách toàn diện và sâu sắc. Nhìn chung, đến cuối
năm 2009 đầu năm 2010, tiềm lực kinh tế của đất nước tăng lên, nước ta đã ra
khỏi tình trạng kém phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từng bước được hình thành; văn hoá, xã hội đạt được những kết quả nhất
định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt
trình độ của các nước phát triển trung bình; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân
dân được chú trọng và đạt được nhiều kết quả; giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ có một số mặt chuyển biến tích cực; môi trường sống được quan tâm
SV: Trần Thanh Nhàn
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam

và có mặt được cải thiện; hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước được nâng lên;
phòng, chống tham nhũng, lãng phí có kết quả bước đầu; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước…
IV. Kết luận.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặc quan trọng của cách
Việt Nam. Bằng sự sáng suốt của mình, Đảng ta đã vận dụng lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn
tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến giành độc
lập thống nhất hoàn toàn. Trong thời đại ngày nay, việc vận dụng chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tổ chức và hoạt động của Đảng
lại càng trở nên quan trọng, khi mà đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối từng bước đưa đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
SV: Trần Thanh Nhàn

×