HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY
TÂM CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Học viên thực hiện: VÕ THỊ HÀ
Số thứ tự : 15
Nhóm : 2
Lớp : Cao học ngày 4 – K22
Giảng viên : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM,
Tháng12/2012
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 3
1.1 Điều kiện lịch sự ra đời 3
1.2 Đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 4
CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
8
2.1 Sự tương đồng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm của triết học Hy Lạp cổ đại 8
2.1.1 Đặt nền tảng đạo đức đầu tiên: 8
2.1.2 Cơ sở tư tưởng cho các nhà triết học sau này 9
2.1.3 Đều là động lực thúc đẩy khoa học phát triển 9
2.1.4 Đều mang tính chất thô sơ, chất phát 10
2.2 Sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm của triết học Hy Lạp cổ đại 11
2.2.1 Tư tưởng về bản nguyên thế giới 11
2.2.2. Tư tưởng biện chứng 12
2.2.3 Tư tưởng về nhận thức : 13
2.2.4 Tư tưởng về đạo đức và chính trị 14
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ công sản nguyên thủy
được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử
xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung
Quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Trong đó, triết học Hy
Lạp được coi là cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học sau
này. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại, gắn liền với
cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung quanh vấn
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
đề bản nguyên của thế giới phản ánh cuộc đấu tranh giữa phái dân chủ của thành
bang Aten với phái chủ nô của thành bang Spác. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về sự
tương đồng và khác biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm sẽ giúp cho
chúng ta có cái nhìn sâu sắc nhất về những giá trị cũng như những ảnh hưởng to lớn
của triết học Hy Lạp cô đại đã để lại cho nhân loại. như Ph.Awngghen trong tác
phẩm Chống Đuyrinh, đã đánh giá: “ Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc
La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1 Điều kiện lịch sự ra đời
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng, bao gồm miền Nam bán đảo Bancăng,
nhiều đảo trên biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện tự
nhiên và khí hậu thuận lợi giúp các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương
nghiệp phát triển rất sớm. Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và phát triển trong sáu thế kỷ
(từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr.c.n), còn từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX tr.c.n, chế độ
cộng sản nguyên thuỷ tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Đây là thời kỳ
xẩy ra nhiều biến động lớn về kinh tế và thể chế xã hội, những biến động này được
ghi lại trong hai tập thơ Iliát và Ôđixê của Hôme.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
1.1.2 Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa
Các thành thị của Hy Lạp cổ đại ra đời và tồn tại với tư cách là những quốc gia
độc lập (300 quốc gia). Đến thế kỷ VI - IV tr.c.n xuất hiện hai trung tâm kinh tế -
chính trị điển hình là thành bang Aten (miền trung Hy Lạp) và thành bang Xpát
(vùng bình nguyên Iacôni). Cuộc chiến tranh giành bá chủ Hy Lạp giữa hai thành
bang này trong nhiều năm làm Hy Lạp suy yếu. Đến thế kỷ II tr.c.n, Hy Lạp bị La
mã chinh phục. Thời Hy Lạp cổ đại, toán học, thiên văn học, thuỷ văn học v.v bắt
đầu phát triển. Tri thức triết học và tri thức khoa học hoà trộn vào nhau; các nhà triết
học đồng thời là nhà toán học, vật lý, thiên văn học v.v. Triết học Hy Lạp ra đời gắn
với nhu cầu thực tiễn và gắn liền với khoa học và được gọi là khoa học của mọi
khoa học. Sự giao lưu giữa Hy Lạp với các nước làm cho tư tưởng triết học Hy Lạp
cổ đại chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn minh. Những quan niệm của các nhà triết
học Ai Cập và Babilon đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học Hy
Lạp cổ đại; có thể nói đó là một trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại.
1.2 Đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức quan và phương
pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì
trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
Thứ hai, Nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa các
trường phái triết học duy vật với duy tâm, biện chứng với siêu hình, vô thần với tôn
giáo mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của
Đêmôcrít, Êpiquya với triết học duy tâm của Xôcrát, Platôn.
Thứ ba, đã phát hiện nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện
chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
Thứ tư, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới
như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vât, hiện tượng xảy ra trong nó
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Dù có nhiều sự bất đồng về
vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của
cong người, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa. .
1.3 Các tư tưởng trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
1.3.1 Chủ nghĩa duy vật
1.3.1.1 Trường phái Milet:
Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet này là đã được đặt nền
móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm triết học để các triết gia sau
này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm
chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
1.3.1.2 Trường phái Héraclite:
Tuy triết học Héraclite thể hiện tinh thần duy vật chất phác, biện chứng ngây
thơ, chứ yếu tố vô thần – cách mạng nhưng đây lại là nhà triết học đã nêu lên các
phán đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau
này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của
triết học Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
1.3.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago:
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,
Empédocle và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các
trường phái Milet, trường phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản
chất của thế giới vật chất đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính
sơ khai, còn hạn chế.
1.3.1.4 Trường phái nguyên tử luận Lơxip – Đêmôcrit:
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
Là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử
làm cho chủ nghĩa duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy
tâm của Xocrat Platong sau này.
Quan điểm về nhận thức: Có 2 dạng nhận thức liên hệ mật thiết với nhau là
nhận thức mờ tối dựa trên cảm tính mang lại biểu hiện bên ngoài. Là nhận thức sáng
suốt dựa trên lý tính, giúp nắm bắt bản chất của vạn vật trong thế giới. Khi đề cao
nhận thức lý tình thì Démocrite cho rằng quy nạp là phương pháp nhận thức đúng
đắn.
Quan điểm về đạo đức: Sự hiểu biết là cơ sở của của hành vi đạo đức. Sống
đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Hạnh
phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa
phải trong sự thanh thản.
Quan điểm về chính trị - xã hội: Xã hội tốt nhất được cai trị bởi chủ nô. Nô lệ
phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân chủ là nền tảng của
chế độ ân chủ chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực
đạo đức và pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con
người hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ.
1.3.2 Chủ nghĩa duy tâm:
1.3.2.1 Trường phái Pytago:
Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là
bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã đặc nền móng ban đầu cho trào
lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
1.3.2.2 Trường phái Êlê:
Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng sau đó được Pacmenit phát
triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
1.3.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong:
Do Xocrat đặt nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
+ Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của
điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của đạo
đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội của
Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi bảo
vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng nhà
nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.
Quan điểm về con người và linh hồn: Con người là sự kết hợp của thể xác
khả tử ( từ đất, nước, lửa, là nơi trú ngụ của linh hồn) với linh hồn bất tử
Linh hồn con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được thượng đế tạo ra từ
lâu; chúng ngự trị trên các vì sao, sau đó dùng cánh bay xuống nhập vào thể xác con
người và quên hết quá khứ. Linh hồn gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí bất tử
( lý tính)
Quan điểm về nhận thức: Nhận thức là sự hồi tưởng ( trực giác thần bí) của
linh hồn bất tử về những gì họ đã chiêm ngưỡng trong TG ý niệm nhưng bị lãng
quên. Nhận thức chân lý là khám phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong lý tính
Quan điểm về đạo đức: Sống hạnh phúc là sống có đạo đức, hướng thiện.
Hành vi hướng thiện là dùng lý trí khám phá ý niệm tuyệt đối khách quan trên trời.
Quan điểm về chính trị - xã hội: Xã hội có 3 hạng người làm 3 việc ( triết gia
lãnh đạo, chiến binh chiến đấu, thợ thủ công thương gia sản xuất) . Nhà nước đảm
bảo cho sự phân công trên được thực hiện nhưng chế độ tư hữu đã làm nhà nước bị
tha hóa. Chế độ xã hội tốt nhất là chế độ cộng hòa quý tộc, do một vị vua là triết gia
lãnh đạo, thực hành công hữu.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
2.1 Sự tương đồng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm của triết
học Hy Lạp cổ đại
2.1.1 Đặt nền tảng đạo đức đầu tiên:
Cả chủ nghĩa duy vật và duy tâm của triết học Hy Lạp cổ đại đều đã đề cập
đến khái niệm “ đạo đức” đầu tiên trong lịch sự nhân loại. Chủ nghĩa duy vật chất
phát Hy Lạp cổ đại hướng dẫn con người cần sống và hành động để xã hội tốt đẹp
hơn, đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con người, phê phán, phản
đối giàu nghèo quá đáng, phản đối sự trục lợi bất lương. Còn Xôcrát, đại diện cho
chủ nghĩa duy tâm khách quan nói “nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những
cây cỏ sông núi, trăng sao, đó là con người”. Vì vậy Xôcrát hướng triết học vào mục
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
đích giáo dục cho con người sống có đạo đức. Đối với ông, triết học là trí tuệ, là cơ
sở tiền đề của đạo đức. Theo ông, đạo đức là tôn trọng những quy định chung và lợi
ích chung của xã hội. Và quan niệm về sự quan trọng của đạo đức cũng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định “tài” và “đức” cần phải luôn đi đôi với nhau: “Có tài
mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
2.1.2 Cơ sở tư tưởng cho các nhà triết học sau này
Các nhà thần học Clement of Alexandria, Origen, Boethius và Thánh
Augustine là những người chịu ảnh hưởng của nền triết học Platông đồng thời các ý
tưởng của Platông đã đóng vai trò chính yếu trong việc phát triển nền thần học
Thiên Chúa giáo cũng như các tư tưởng Hồi giáo của thời Trung Cổ.
Trong khi đó, Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện
chứng chất phác, hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Đây là nền tảng để hình
thành chủ nghĩa Mác - Lênin – kim chỉ nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
2.1.3 Đều là động lực thúc đẩy khoa học phát triển
Những học thuyết đầu tiên của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại ra đời cũng
với xuất hiện của triết học với những tiến bộ của tri thức khoa học trong các lĩnh vực
thiên văn học, toán học và các ngành khoa học khác đã mang lại cho con người những
tưu duy lôgic trong đời sống hàng ngày. Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại
không chỉ đóng góp những lý luận giải quyết những vấn đề cho xã hội đương thời mà
còn đặt ra nhiều vấn đề mà triết học và khoa học đời sau phải giải đáp; do vậy nó thúc
đấy hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển, nó góp phần
củng cố sức mạnh tinh thần cho các lực lượng tiến bộ trong xã hội
Đối với chủ nghĩa duy tâm của Hy Lạp cổ đại thì từ những tác phẩm đối thoại
của Platon, chúng ta có thể tìm thấy những bước nghiên cứu đầu tiên của lĩnh vực
triết học, toán học Đặc biệt là nhận thức luận, triết học toán học và tư tưởng giáo
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
dục toán học của ông, dưới điều kiện xã hội Hy Lạp đương thời, đã có một tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ đối với sự hình thành khoa học và sự phát triển của toán học
2.1.4 Đều mang tính chất thô sơ, chất phát
Mặc dù đã thừa nhận tính vật chất của thế giới, thừa nhận sự tồn tại của nó độc
lập với ý thức con người nhưng vẫn chưa phân biệt rõ ràng giữa mặt tâm lý và vật lý
cho toàn bộ tự nhiên. Sự phát triển của các quan điểm duy vật và biện chứng còn chịu
ảnh hưởng của hệ tư tưởng có tính chất thần thoại. Chưa lý giải được nguồn gốc vận
động của thế giới vật chất. Chưa giải thích được các hiện tượng tinh thần cũng như
mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất. Tư tưởng của các nhà triết học duy vật
Hy Lạp thời cổ đại không triệt để vì nó không lý giải được bản tính của các hiện
tượng tinh thần như “linh hồn”, “tình yêu”, “hận thù” cũng như mối quan hệ giữa
cái tinh thần và cái vật chất; còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo; nó
chỉ mới góp phần giải thích thế giới chứ chưa thật sự góp phần cải tạo, biến đổi thế
giới.
Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan thì mang đầy màu sắc thần bí, chia thế giới
ra thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn. Bởi vì ý
niệm là cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì không thể làm bản chất cho sự
vật được. Ý niệm, do tính trừu tượng của nó, cũng không thể làm khuôn mẫu cho sự
vật cảm tính được. Về mặt nhận thức luận, việc Platong coi ý niệm là cái có trước và
độc lập so với sự vật thì ý niệm cũng không thể được dùng dể nhận thức sự vật
được. Arixtot cho rằng bản chất phải nằm ngay trong bản than sự vật và phải được
nhận thức của con người khát quát thành cái chung dưới dạng khái niệm, quy luật,
phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù không phải là cái có trước, sinh ra và quyết
định sự tồn tại của sự vật.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
2.2 Sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm của triết học Hy
Lạp cổ đại
2.2.1 Tư tưởng về bản nguyên thế giới
Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất xuất hiện trong trường phái
Milê; Talét cho rằng đó là nước, Anaximandrơ là Apeirôn, Anaximen là không khí.
Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đặc thù xuất hiện trong trường phái
các nhà triết
học tự nhiên thế kỷ V tr.c.n; Anaxago cho rằng đó là những phần nhỏ bé, siêu cảm
giác không nhìn thấy được của nước, đất, khí, lửa gọi là mầm sống, là hạt giống của
muôn vật. Empeđôclơ lại cho rằng đó là đất, nước, lửa và không khí luôn vận động
do nguyên nhân tình yêu và hận thù.
Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái phổ biến xuất hiện trong trường phái
nguyên tử luận thế kỷ V - IV tr.c.n. Đêmôcrít cho rằng nguyên tử (tồn tại) và chân
không (không tồn tại) là những bản nguyên đầu tiên và chúng luôn đối lập nhau,
trong đó nguyên tử là yếu tố vật chất luôn vận động và sự vận động đó xảy ra trong
chân không, tuân theo quy luật khách quan và theo các hướng tan hợp, hợp tan tạo
nên vũ trụ sinh động và biến hoá.
Trong khi đó, theo trường phái Pytago của chủ nghĩa duy tâm cho rằng con
số là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật, mỗi sự vật tương ứng với một
con số nhất định ( số 1 sinh ra điểm, số 2 sinh ra đường thẳng, số 3 sinh ra diện tích,
số 4 tạo ra thể tích…; đường là vô số điểm kề nhau, diện tích là do nhiều đườngm
thể tích là do nhiều diện tích hợp thành… )
Trường phái Ele, Pacsmenit lại cho rằng tồn tại là bản chất chung thể hiện tính
thống nhất của vạn vật trong thế giới. Không có gì trên thế giới được sinh ra từ hư
vô hay không tồn tại. Ngược lại, không có cái gì mất đi mà không để lại dấu vết –
tồn tại.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
2.2.2. Tư tưởng biện chứng
Cùng với các quan điểm khác nhau về bản nguyên thế giới, các quan điểm
khác nhau về bản tính của thế giới cũng là tâm điểm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít (520 - 460 tr.c.n) thể hiện trong
quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất và tính thống nhất của thế giới.
Theo đó, trong thế giới, không có sự vật, hiện tượng đứng im tuyệt đối; tất cả đều
trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, trong đó lửa là
nguyên nhân chính của sự vận động đó. Vũ trụ thống nhất ở bản nguyên Lửa. Quan
niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng thể hiện
trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự vận động
của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của
các mặt đối lập. Quan niệm về nguyên nhân của sự vận động, theo đó nguyên nhân
của sự vận động là do logos (bản chất, quy luật khách quan) quy định. Logos khách
quan là trật tự khách quan của mọi sự vật đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan
là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp
với logos khách quan; người nào càng tiếp cận được nhiều logos khách quan bao
nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Đối lập với tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít là tư tưởng biện
chứng phủ định của Pacsmenit (540 – 470 tr.c.n) và Deenon (490-430) Tư tưởng
biện chứng của Pácmênít thể hiện ở ba quan niệm. Thứ nhất, vận động, biến đổi là
hư ảo, không có không gian rỗng thuần tuý. Thứ hai, tồn tại và tư duy đồng nhất với
nhau vừa như là quá trình, vừa như là kết quả. Thứ 3, trong thế giới không có sự
sinh thành, xuất hiện và diệt vong. Tư tưởng biện chứng của Dênôn thể hiện ở quan
niệm về vạn vật đồng nhất thể và vạn vật bất biến. Bằng phương pháp chứng lý và
nghịch lý, ông giải thích mối quan hệ giữa vận động với đứng im; giữa liên tục với
gián đoạn; giữa hữu hạn với vô hạn. Các nghịch lý (aporia) của Dênôn đã khuyến
khích các cuộc tranh luận để đi tới chân lý.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
Tư tưởng biện chứng của Xôcrát (469 - 399 tr.c.n) được thể hiện trong
phương pháp bốn bước của ông. Bước 1, mỉa mai là thủ pháp nêu các câu hỏi dồn
người đối thoại vào mâu thuẫn để thừa nhận chân lý. Bước 2, Đỡ đẻ với nghĩa là
người dẫn dắt cuộc đối thoại chủ động nêu ra những vấn đề mới giúp người đối
thoại, từ chỗ lúng túng, đạt được chân lý. Bước 3 Quy nạp là quá trình đi từ phân
tích những hành vi riêng lẻ đến khái quát để nhận thức bản chất. và cuối cùng xác
định hay định nghĩa là gọi đúng tên, nêu đúng bản chất của sự vật, hiện tượng; xác
định chuẩn mực, hành vi đạo đức để xây dựng khoa học về cái thiện, giúp con người
có cuộc sống hạnh phúc, hợp lý trí.
Tiếp tục phát triển tư tưởng biện chứng của Xôcrát từ góc độ duy tâm khách
quan là tư tưởng biện chứng của Platon. Muốn có tri thức thì phải hồi tưởng để đánh
thức những tri thức đã bị lãng quên trong linh hồn, là tìm kiếm tri thức nơi mình. Để
hồi tưởng phải dùng phương pháp biện chứng; theo đó phải đàm thoại triết học, xây
dựng các khái niệm, tìm hiểu khái niệm v.v. Về thực chất, đây chính là lôgíc học. Tư
tưởng biện chứng của Arítxtốt (384 - 322 tr.c.n).
2.2.3 Tư tưởng về nhận thức :
Theo Hêraclít, nhận thức mang tính duy vật biện chứng sơ khai. Nhận thức
được bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất kỳ nhận thức nào.
Ông không tuyệt đối giai đoạn nhận thức này vì cho rằng thị giác thường bị lừa dối
vì tự nhiên thích giấu mình nên khó nhận thức. Nhận thức có tính tương đối, tuỳ
theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện - ác, xấu - tốt, lợi - hại chuyển hoá cho nhau
và nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới nhận thức logos của sự vật.
Còn trường phái Êlê cho rằng tư tưởng nhận thức được thể hiện trong việc
đối lập tư duy duy lý với trực quan cảm tính và ý kiến dựa vào trực quan về sự vật.
Pácmênít đề cao vai trò của nhận thức lý tính; Dênôn cũng phủ nhận vai trò nhận
thức cảm tính, đề cao nhận thức lý tính. Đêmôcrít là người có công đưa lý luận nhận
thức duy vật lên một bước mới. Ông chia nhận thức thành hai dạng : dạng mờ tối và
dạng chân lý. Dạng mờ tối là nhận thức cảm tính, do các giác quan đưa lại, theo dư
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
luận chung (những cảm giác như mùi vị, màu sắc, âm thanh v.v là những cảm giác
phổ biến mà mọi người đều cảm nhận được dễ dàng); nhận thức này là chân thực
nhưng còn mờ tối vì chưa nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín của sự vật.
Dạng chân lý thông qua những phán đoán lôgíc nên đã nhận thức được bản chất của
sự vật, vì dã chỉ ra được nguyên tử là khởi nguyên của thế giới, chỉ ra được tính đa
dạng của thế giới là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Hình tượng cảm
tính (còn gọi là Iđôlơ) bắt nguồn từ vật thể rồi thâm nhập vào các giác quan và được
ước lệ thành hình tượng của khách thể; Iđôlơ là tiền đề để lý tính nhận thức chân lý.
Theo trường phái duy tâm khách quan, Platôn cho rằng nhận thức có tính
duy tâm, theo đó nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính vì linh hồn đã có sẵn
các tri thức; do vậy, nhận thức là quá trình hồi tưởng lại những cái đã lãng quyên
trong quá khứ. Dựa trên cơ sở trên đây, Platôn chia tri thức thành hai loại: trí thức ý
niệm và tri thức mờ nhạt. Tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy là tri thức ý niệm, tri
thức của linh hồn trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ sự hồi tưởng lại. Tri
thức mờ nhạt là tri thức lẫn lộn đúng sai; có được nhờ nhận thức cảm tính nên không
phải là chân lý.
2.2.4 Tư tưởng về đạo đức và chính trị
Với ý đồ chính trị muốn những nhà cầm quyền phải có tri thức, hiểu biết,
Xôcrát coi đạo đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau, có đạo đức là nhờ có hiểu biết,
do vậy đạo đức có sau hiểu biết.
Đêmôcrít lại xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa đạo đức, theo
đó sự hài lòng và không hài lòng là động lực của mọi hành vi; do vậy, đạo đức phải
giải quyết vấn đề hành vi con người và thái độ của nó đối với chính bản thân mình.
Hạt nhân trung tâm của đạo đức là lương tâm, là sự lành mạnh về tinh thần của từng
cá nhân, mỗi người phải sống đúng mực, ôn hoà, không vô độ mà gây hại cho người
khác, không quá giàu có, không thèm lợi nhuận bất lương gây hại cho người lương
thiện. Trong quan niệm về chính trị - xã hội, Đêmôcrít chống lại chủ nô quý tộc để
bảo vệ chế độ chủ nô dân chủ mà quyền lợi gắn liền với sự phát triển của thương
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
mại và nghề thủ công, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà, ca ngợi quyền lợi chung của
công dân tự do. Nhà nước cộng hoà dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô,
đóng vai trò duy trì trật tự, điều hành mọi hoạt động trong xã hội, trừng phạt những
vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
Đối lập với tư tưởng của Đêmôcrít là tư tưởng của Platôn. Ông phê phán cả
ba hình thức nhà nước là nhà nước của Vua Chúa xây dựng trên khát vọng giàu có
và danh vọng dẫn tới sự cướp đoạt; nhà nước quân phiệt của số ít kẻ giàu có áp bức
số đông, đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới cái ác; nhà nước dân chủ, quyền lực
thuộc về số đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt cho nên
đó là nhà nước tồi tệ. Platôn đưa ra mẫu hình nhà nước lý tưởng, trong đó có ba lớp
người làm các công việc khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý tưởng
dựa vào sự phát triển sản xuất vật chất; phân công hài hoà các ngành nghề và giải
quyết mâu thuẫn các nhu cầu xã hội.
KẾT LUẬN
Từ xa xưa đến tận bây giờ, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm
là vấn đề cơ bản nhất của lịch sự triết học, là vấn đề được coi như sợi chủ đỉ xuyên
suốt chiều dài lịch sự triết sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản
ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, hình thành nên những giai cấp đối kháng.
Qua việc tìm hiểu sự tương đồng và khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm
của triết học Hy Lạp nói trên cũng đã một phần nào khắc họa được sự ra đời cũng
như quá trình phát triển của triết học Hy Lạp. Mặc dù, có sự phân chia và đối lập
giữa các trường phái triết học duy vật và duy tâm về những quan điểm bản nguyên
thế giới, nhận thức, và tư tưởng đạo đức, chính trị- xã hội nhưng triết học Hy Lap
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
cổ đại đều có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề triết học, về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Và tuy còn ở trình độ trực quan chất phác nhưng triết học Hy Lạp
cổ đại cũng đã để lại cho lịch sử triết học thế giới một nền tảng cơ sở cho sự phát
triển của triết học Tây Ân trên 2000 năm sau.
Hiểu rõ bản chất của triết học Hy Lạp cổ đại để nắm vững những giá trị, hạn
chế cũng như con đường phát triển của nó sé giúp thuận lợi cho việc nghiên cứu triết
học sau nay. Để từ đó, vận dụng hợp lý và sáng tạo tư tưởng duy vật biện chứng
cũng như duy tâm khách quan trong cuộc sống để mỗi người chúng ta có những
nhận thức sáng suốt, đúng đắn trong hành động, làm việc hợp quy luật, tránh sự chủ
quan, nóng vội góp phần đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta tiến
nhanh và xa hơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa, Triết học phần I: Đại Cương về lịch sử triết học, NXB
Chính Trị Hành Chánh, 2011
2. Học Viện Chính Trị, Đề Cương Bài Giảng Triết học Mác – Lênin, NXB
Chính Trị Hành Chánh, 2009.
3. Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây ( dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ), 2010
4. Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại, Nguyễn Kim Dân biên
dịch, NXB Lao động, 2010.
HVTH: VÕ THỊ HÀ LỚP CHKT NGÀY 4 KHÓA 22
5. Đỗ Minh Hợp và nhiều tác giả, Đại Cương Lịch Sử Triết Học Phương Tây.
NXB Tổng Hợp, 2006.
6. Hà Thúc Minh, Triết học cổ đại Hy Lạp La Mã, NXB Mũi Cà Mau ,1996
7. Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục
Việt Nam, 2011
8.
triet-hoc-co-dai-Hy-Lap-158141
9.
ts nguyen-thai-son.aspx
10. .
11. .