Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận triết SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.88 KB, 15 trang )

z
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài nhóm 02:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT
HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI
HVTH : Mai Hoàng Hạnh
STT : 17 – Nhóm: 2
Lớp : Cao học TCDN-K22-Ngày 4
MSHV : 7701220334
GVHD : TS.Bùi Văn Mưa
TP.HCM, Ngày 15 tháng 12 năm 2012
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 1 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
LỜI MỞ ĐẦU
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, đã trải qua
những thời kỳ phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Nơi đây hội tụ những điều kiện
hết sức thuận lợi cho nền văn hóa tinh thần, trong đó triết học là một lĩnh vực phát
triển mạnh mẽ, trở thành đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời kỳ cổ đại. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan và tiến bộ, không dựa trên
những yếu tố thần thánh, lực lượng siêu nhiên để giải thích sự vật, hiện tượng, mà lấy
bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, đồng nhất vật chất với những dạng
tồn tại cụ thể của vật chất.
Còn chủ nghĩa duy tâm Hy Lạp cổ đại ra đời như một đơn đặt hàng của lịch sử
nhân loại. Chủ nghĩa duy tâm Hy Lạp cổ đại cho rằng ý thức, tinh thần nói chung như
“ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới” là cái có trước, tồn tại khách quan


bên ngoài con người. Nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của
giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội,
củng cố vai trò thống trị của mình, chống lại nền dân chủ Aten và hệ thống triết học
triết học của trường phái ngụy biện, trường phái nguyên tử luận
Để tìm hiểu sâu hơn về chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy tâm, người
viết chọn đề tài: “Những tương đồng và khác biệt của triết học duy vật chất phác
và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại”. Với tài liệu tham khảo chính là Bùi
Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học.
Tuy nhiên, với vốn kiến thức còn hạn hẹp cũng như trong phạm vi là một bài tiểu
luận khó có thể đi sâu cũng như tổng quát hết các vấn đề cần nghiên cứu nên chắc
chắn không thể trình bày một cách đầy đủ và chi tiết như ý muốn. Mong thầy cũng
như các bạn tham khảo và đánh giá để những đề tài nghiên cứu sau được tốt hơn.Xin
chân thành cám ơn!
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 1 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI
1.1.Hoàn cảnh lịch sử
Trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ mà ngày nay người ta biết được thì
nền văn minh Hy Lạp - La Mã xuất hiện muộn hơn cả, nhưng nó lại rất phong phú,
đặc biệt là về triết học. Ở Hy Lạp, thuật ngữ triết học có ngôn ngữ gốc là Philosophia
– yêu mến sự thông thái [5]. Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự
chuyển biến lâu dài và sâu sắc các mối quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có
giai cấp đầu tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi
của nền triết học phương Tây.
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm miền Nam
bán đảo Bancăng, miền ven biển phía tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê [1, trang
89].
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng ban giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.

F.Enghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy-lạp, không có
nghệ thuật và khoa học Hy-lạp; không có chế độ nô lệ thì không có chế Rô-ma. Mà
không có cái cơ sở của nền văn minh Hy-lạp và đế chế Rô-ma thì không có Châu Âu
hiện đại”[6].
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu từ việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân
gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu -
đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà triết
học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân
tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được
suy tư trong các khái niệm triết học”[7].
1.2.Đặc điểm cơ bản
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 2 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng
là điểm xuất phác của lịch sử thế giới. Từ những nét đặc thù về kinh tế, chính trị xã
hội, triết học Hy Lạp đã ra đời và mang những đặc điểm cơ bản sao đây:
− Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ
nô thống trị [1, trang 92].
− Có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy
vật – duy tâm, biện chứng – siêu hình, vô thần – hữu thần [1,trang 92]
− Các trường phái triết học nói chung đều có xu hướng đi sâu giải quyết
các vấn đề về bản thổ và nhận thức luận triết học là những vấn đề của mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức.
− Triết học Hy Lạp cổ đại nói chung (cũng như triết học cổ đại của nhiều
nước khác) còn ở trình độ trực quan chất phác đặc biệt là đối với các hệ thống triết
học duy vật và biện chứng, nhưng đã gắn bó với khoa học. Tuy có những ý kiến khác
nhau, nhưng đã đề cập tới vấn đề con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá và
con người cần chinh phục thiên nhiên để phục vụ mình.

Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại rất quan trọng nó không chỉ đơn thuần là sự
phân biệt giữa hai nền triết học Đông Tây cổ đại mà còn nói lên vai trò của triết học
Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới nó là nền tảng cho sự phát triển của
triết học Tây Âu trên 2000 năm sau.
Có thể nói rằng từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra những cuộc đấu
tranh mạnh mẽ giữa hai trường phái triết học Duy Vật và Duy Tâm. Điển hình của
thời kỳ này ở Hy Lạp đó là cuộc đấu tranh giữa đường lối Duy Vật của Đemocrit và
Duy Tâm của Platon.
Chương 2: KHÁT QUÁT VỀ CÁC HỌC THUYẾT HY LẠP THỜI
CỔ ĐẠI
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 3 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
2.1.Các trường phái của triết học duy vật chất phác
2.1.1.Trường phái Milê
Trường phái duy vật đơn nguyên do ba nhà triết học duy vật là Talet,
Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng nhằm làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế
giới. Nếu bản nguyên vật chất của thế giới được Talet cho là nước, thì Anaximăngđrơ
cho là apeiron, còn Anaximăngđrơ cho là không khí [1,trang 93]. Bản nguyên vật chất
của thế giới có nguồn gốc từ yếu tố đơn nhất (nhất nguyên) đầu tiên và do có sự vận
động biến đổi trên nền tảng của nhất nguyên mà thành vạn vật của thế giới. Những
quan niệm triết học duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc thô sơ nhưng có ý
nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và đã chứa đựng những
yếu tố biện chứng chất phác [1,trang 93].
2.1.2.Trường phái Hêraclit
Trường phái duy vật đơn nguyên do Hêraclit xây dựng, thể hiện rõ các tư tưởng
biện chứng chất phác thời cổ Hy Lạp thông qua các phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Dù chưa trình bày các quan niệm biện
chứng như một hệ thống, nhưng hầu hết các luận điểm cốt lỗi của phép biện chứng
đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ, hay những phát biểu mang
tính triết lý sâu sắc. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học

Hêraclit vào kho tàng tư tưởng của nhân loại [1,trang 94].
2.1.3.Trường phái đa nguyên Empedoc – Anaxago
Để lý giải tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,
Empedoc và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sơ khai của trường phái
Milê và trường phái Hêraclit, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới
vật chất đa dạng [1,trang 95].
2.1.4.Trường phái nguyên tử luận của Loxip - Đemocrit
Trường phái này có đại diện là Lơxip và Đemocrit đạt đỉnh cao của triết học Hy
Lạp cổ đại trong giai đoạn cực thịnh. Lơxip là người đầu tiên nêu lên các quan niệm
về nguyên tử, Đemocrit phát triển các quan niệm này thành một hệ thống chặt chẽ và
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 4 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
có sức thuyết phục. Trường phái nguyên tử luận với quan điểm duy vật, vô thần đã
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học chống lại cái vô thần, thoát khỏi sự ảnh hưởng
của tôn giáo. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng với những thành tựu đạt được,
Đemocrit đã nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao, làm cho nó có đủ sức
đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, mà trước hết là
trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platon [1,trang 97].
2.2.Các trường phái của triết học duy tâm
2.2.1.Trường phái Pytago
Xuất phát từ quan điểm cho rằng đạo đức phải phục tùng tôn giáo để cùng thống
trị thiên hạ và quan đó lý giải tính thống nhất của thế giới mà Pytago đã đặt nền móng
cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ Hy Lạp [1,trang 101].
2.2.2.Trường phái Êlê
Do Xênôphan thành lập theo tinh thần duy vật, nhưng sau đó nó được Pacmênic
phát triển theo tinh thần duy lý ngả về khuynh hướng duy tâm khi dựa trên khái niệm
nền tảng – tồn tại. Điều này đã mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển tư tưởng
triết học Hy Lạp cổ đại coi cái khởi nguyên của thế giới không phải là một sự vật cụ
thể (như các nhà triết học duy vật, duy cảm trước đó quan niệm) mà là tồn tại – một
phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và chỉ được nhận thức bởi tư duy – lý tính.

Quan điểm này của Pacmênic đã được Dênông bảo vệ nhiệt thành. Nhà hùng biện đã
đưa ra những apôri để đào sâu tư duy lý luận, và thông qua chúng, ông muốn chứng
minh, tồn tại là đồng nhất, duy nhất và bất biến; còn tính phức tạp, đa dạng và vận
động của thế giới là không có thực [1,trang 102].
2.2.3.Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platông
Trường phái này do Xôcrát đặt nền mống và Platông, học trò của ông, hoàn
thiện. Nó thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô quý tộc bảo thủ chống lại
nền dân chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận
[1,trang 105].
2.3.Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp thời cổ đại
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 5 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
2.3.1.Ưu điểm
− Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông thức tỉnh giấc mộng thần
thánh muôn đời của người dân Hy Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức
hệ của con người.
− Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách
quan, nhằm đi đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
− Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
− Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
− Khoa học duy nghiệm và duy lý manh nha hình thành.
− Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế
giới không?
Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cỏ bản
của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyết theo nội
dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này.
Cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm, giữa phép biện chứng và
phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học cơ bản của nó xứng
đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người.
2.3.2.Hạn chế

− Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
− Các vấn đề triết học còn chưa rõ rang, còn rời rạc chưa hệ thống
hóa.
− Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi
yếu tố thần linh.
Chương 3: ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA TRIẾT
HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 6 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Đemocrit và Platon là hai nhà triết học được coi là bậc nhất đại diện cho
trào lưu triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy trong giới hạn của đề tài chỉ tìm hiểu và phân
tích điểm tương đồng và khác biệt của quan điểm triết học của Đemorit và Platon.
3.1.Tương đồng
Mặc dù đại diện cho hai trường phái triết học khác nhau, song triết học của hai ông
vẫn có những điểm tương tự nhau, thể hiện:
3.1.1.Triết học của hai ông đều đi sâu vào những vấn đề bản thể luận, nhận thức
luận. Đặc trưng đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại, mà hai ông là một trong những
người đại diện, đó là triết học gắn chặt với yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên,
đi sâu vào vào những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận để phát triển khoa học tự
nhiên.
3.1.2.Triết học của hai ông đều quan điểm bảo vệ nhà nước thống trị và coi
thường người lao động nô lệ, là công cụ lý luận bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ
nô. Triết học là thế giới quan của của 1 giai cấp nhất định. Cả hai ông đều là đại diện
cho tầng lớp chủ nô vì vậy triết học của hai ông đều bảo vệ nhà nước, bảo vệ sự thống
trị và coi thường người lao động, nô lệ. Đây thực sự là những hạn chế trong nhận
thức của cả hai ông về vai trò của nhà nước và quần chúng trong lịch sử phát triển của
xã hội loài người. Điều này cũng thể hiện triết học cổ Hy Lạp mang tính giai cấp sâu
sắc.
3.1.3.Triết học của cả hai ông còn mang tính trực quan, tự phát, ngây thơ. Tuy
hai ông đều là những nhà triết học lớn, vĩ đại nhất thời cổ đại, nhưng do trình độ khoa

học-kỹ thuật thời cổ đại còn thấp, do lợi ích giai cấp, nên các quan niệm triết học của
hai ông còn nhiều hạn chế, chưa thể giải thích hết ngọn nguồn các các sự vật hiện
tượng và vẫn còn mang nhiều tính trực quan, tự phát, ngây thơ. Đemocrit còn quy bản
nguyên thế giới vào một vật chất cụ thể, chưa lý giải được nguồn gốc nguyên tử,
nguồn gốc của sự vận động, còn thừa nhận trong con người có một phần bản chất
thiên thần, chưa hiểu hết đặc trưng của tư duy, ý thức con người so với các sự vật
khác, phủ nhận hiện tượng ngẫu nhiên Còn Platon tuyệt đối hoá một mặt của quá
tính nhận thức, tách ý thức, nhận thức ra khỏi thế giới vật chất, ông cũng chưa làm rõ
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 7 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
được mối quan hệ giữa thế giới ý niệm và thế giới các sự vật, ông còn buộc phải thừa
nhận là còn tồn tại một “thế giới thứ ba” giống như hai thế giới kia và đứng ở trên
chúng.
3.2.Khác biệt
3.2.1.Về vấn đề khởi nguyên của thế giới:
− Đemocrit cho rằng thế giới xung quanh ta là thế giới vật chất, vật chất
do nguyên tử tạo thành, nguyên tử là dạng phần tử nhỏ nhất không thể phân chia
được nữa và tồn tại vĩnh viễn. Thế giới vật chất đa dạng phong phú, vận động
không ngừng; ông là nhà triết học đầu tiên cho rằng không gian là khoảng trống mà
ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với nhau; vũ trụ do vô số thế giới tạo nên
và vận động theo quy luật của tự nhiên.
− Còn Platon cho rằng ý niệm là nguồn gốc sinh ra thế giới. Ý niệm tồn
tại ngoài con người, ngoài cảm giác của con người; “ý niệm tồn tại vĩnh viễn bất
biến, bất động” [8]. Các sự vật cụ thể có thể cảm thụ được bằng cảm giác chỉ là bản
sao của các ý niệm dựa vào ý niệm hay đúng hơn là thế giới ý niệm. Platon thừa nhận
có hai thế giới tồn tại: thế giới ý niệm, là thế giới tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động,
tuyệt đối chân thực cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. Còn thế giới sự vật cảm
tính là thế giới tồn tại không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng của ý niệm, do
ý niệm sản sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm loài người cũng thuộc về thế giới này.
3.2.2.Về vũ trụ: Đemocrit cho rằng vũ trụ là vô tận vĩnh cửu; có vô số thế giới

phất sinh phát triển và tiêu diệt. Còn Platon thì ngược lại ông cho rằng vũ trụ này
không tồn tại thực, tất cả chỉ là sự phức hợp của ý niệm do ý niệm quy định do thượng
đế quyết định và không tồn tại.
3.2.3.Về vấn đề linh hồn:
− Theo Đemocrit, ông đã bác bỏ quan niệm về sự sản sinh ra sự sống và
con người của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả biến đổi dần dần từ thấp đến
cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi trường nước và dưới tác động của
nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước, sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống
trên cạn. Cuối cùng là con người ra đời trên quả đất. Ông đã phân biệt rõ ràng sự vật
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 8 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
và sinh vật chúng khác nhau ở chỗ sự vật không có linh hồn,còn sinh vật có linh hồn:
linh hồn được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử của lửa vận
động với vận tốc cao. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể hưng
phấn và vận động. Ông coi cái chết là sự phân tán của các nguyên tử cấu tạo nên thể
xác và các nguyên tử cấu tạo nên linh hồn chứ không phải là linh hồn ra khỏi thể xác.
Tuy quan niệm của Đemocrit về linh hồn còn mang tính mộc mạc, song nó giữ vai trò
rất quan trọng trong việc chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo về tính bất tử của linh
hồn.
− Platon cho rằng con người bao gồm linh hồn và thể xác tồn tại độc lập
với nhau . “Linh hồn của con người là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do thượng đế
sáng tạo ra do đó nó bất tử và tồn tại vĩnh hằng”[9]. Khi con người chết linh hồn sẽ
thoát ra thể xác con người và bay lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh
hồn bay xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con người hoàn chỉnh bao gồm cả linh
hồn và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con người linh hồn đã lãng
quên những điều quan sát được ở thế giới những ý niệm. Vì thế, nhận thức của con
người thực chất là sự hồi tưởng, sự nhớ lại của linh hồn về những điều mà nó đã lãng
quên.
3.2.4.Về vấn đề nhận thức:
− “Đemocrit là người có công lao to lớn trong lịch sử triết học về vấn đề

xây dựng lý luận nhận thức vai trò của cảm giác với tính cách là điểm khởi đầu của
nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức thế giới xung quanh”[8]. Theo
Đemocrit sở dĩ con người có những cảm giác khác nhau về màu sắc mùi vị, âm thanh
nóng lạnh là do những nguyên tử khối hợp tạo nên chủ thể nhận thức. Điều đó có
nghĩa là đối tượng của nhận thức là vật chất thế giới xung quanh con người và nhờ sự
tác động của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được.
Ông chia ra nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối
là nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý là nhận thức do sự phân tích
sâu sắc sự vật để nắm chắc bẳn chất bên trong của nó. Ông quan niệm rằng hai dạng
nhận thức đó có liên quan với nhau chặt chẽ. Trong đó cảm giác là bước đầu của nhận
thức. Ông xây dựng nên thuyết “hình ảnh”(I-dô-lơ) mộc mạc. Ông quan niệm bề
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 9 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
ngoài của sự vật toát ra những hơi thở tinh tế tạo thành hình ảnh của chúng, những hơi
thở tinh tế đó tác động vào cơ quan cảm giác của con người làm cho mọi người cảm
nhận được sự vật. Song cảm giác là nhận thức “mờ tối” ý nó chưa là cho con người
hiểu được bản chất tinh tế nằm sâu trong sự vật. Do đó con người phải dựa vào nhận
thức sâu sắc hơn.Qua đây chúng ta có thể thấy theo Đemocrit “ lý tính”, phải dựa vào
“những dẫn chứng” do cảm tính đem lại và sau đó cần phải đi sâu vào phân tích tìm
chân lý đang còn nằm sâu dưới đáy bể. Điều này có thể thấy rằng ông không hề phủ
nhận khả năng nhận thức chân lý khách quan của con người.
− Tư tưởng về nhận thức của Platon có tính duy tâm, theo đó nhận thức
cảm tính có sau nhận thức lý tính vì linh hồn đã có sẵn các tri thức; do vậy, nhận thức
là quá trình hồi tưởng lại những cái đã lãng quyên trong quá khứ. Platon cho rằng chỉ
có nhận thức lý tính đưa vào khái niệm mới có thể đạt tới tri thức chân thực, nhân thức
cảm tính không bao giờ đạt tới tri thức chân thực mà chỉ đưa lại dư luận. Thực chất
của vấn đề này là Platon đã đề cao vai trò của nhận thức linh tính và hạ thấp vai trò
của nhận thức cảm tính. Ông cho rằng nhận thức chẳng qua là sự hồi tưởng, nhớ lại
những ý niệm. Dựa trên cơ sở trên đây, Platon chia tri thức thành hai loại 1) tri thức
hoàn toàn đúng đắn, tin cậy là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào

thể xác và có được nhờ sự hồi tưởng lại. 2) tri thức mờ nhạt là tri thức lẫn lộn đúng
sai; có được nhờ nhận thức cảm tính nên không phải là chân lý.
3.2.5.Về quan điểm chính trị- xã hội :
− Đemocrit đứng trong lập trường của phái chủ nô dân chủ, kịch liệt
chống lại phái chủ nô quý tộc [8]. Ông ra sức bảo vệ và tuyên truyền cho chế độ dân
chủ của chủ nô trong đó thể hiện quyền lợi của mình gắn liền với sự phát triển ngày
càng một mạnh mẽ của thương mại và công nghiệp. Ông đề cao, ca ngợi cổ vũ cho
tình thần ái, tính ôn hoà lợi ích chung và quyền lợi chung của công dân tự do. Theo
ông “ Cần phải ưa thích cái nghèo trong một Nhà nước dân chủ hơn so với cái gọi là
cuộc sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế tựa như là tự do tốt hơn nô lệ” [8].
Đương nhiên là do xuất thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ Đemorit chỉ đề cập đến nền
dân chủ của chủ nô, còn bản thân nô lệ thì cũng như các nhà tư tưởng khác, ông cho
rằng phải biết tuân theo người chủ nô. Ông đề cao Nhà nước, chính Nhà nước đóng
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 10 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
vai trò duy trì trật tự và điều hành xã hội. Theo Đemocrit cần phải trừng trị nghiêm
khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó. Phương châm tư
tưởng của Đemocrit là thà sống nghèo khổ còn hơn là giàu có nhưng mất tự do dân
chủ. Mục tiêu của con người là sống hạnh phúc nhưng hạnh phúc không đơn thuần chỉ
là giàu có. Ông khẳng định hạnh phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự do.
Chỉ có người biết bằng lòng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới được hạnh phúc.
− Còn Platon: ông đề cao vai trò của chế độ quý tộc đứng trên lập trường
của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chỉ tiến bộ của xã hội. Ông cho rằng linh
hồn gồm các bộ phận linh tính, ý chí và cảm tính trong xã hội có các hạng người
tương ứng với các bộ phận của linh hồn. Linh tính là cơ sở của các đức tính cao cả chỉ
có được ở những nhà triết học, các nhà thông thái; ý chí là cơ sở của đức tính can
đảm. Nó thể hiện ở trong những người lính, những chiến binh. Cảm tính là cơ sở của
các đức tính thận trọng. Đức tính này thường có ở những người dân tự do, những
người thợ thủ công. Platon đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông nô lệ không phải là người
mà chỉ là động vật biết nói, không có đạo đức. Platon chủ trương duy trì các hạng

người trong xã hội, cũng có nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà
nước ra đời là để đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platon hình thức cộng hoà là “Nhà
nước tư tưởng”. Trong đó quyền thống trị tuyệt đối về tầng lớp chủ nô quý tộc. Nhà
nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính đó là thông thái, can đảm và thận trọng.
Trong “Nhà nước tư tưởng”, ông chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc trưng
đạo đức. Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái, giữ vai trò lãnh
đạo xã hội; đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ “Nhà nước tư
tưởng”; đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công và những người tự do
khác làm ra sản phẩm nuôi sống Nhà nước.
KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc,
nối những bến bờ triết học sau này. Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên
xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Mác đã từng nói: “Dại dột
cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại” [7]. Những nhà triết gia Hy Lạp cổ đại đã
đóng góp vào kho tàng triết học của thế giới và dành gần cả cuộc đời của mình để
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 11 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
nghiên cứu triết học. Quả thật đến nay, những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến
cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị.
Nếu nền triết học phương tây là bản nhạc giao hưởng du dương đầy màu sắc, âm
hưởng tuyệt vời, thì triết học cổ Hy Lạp là khúc dạo đầu hoàn mĩ. Bản giao hưởng của
triết học phương tây có lúc trầm lúc bổng, có lúc lắng đọng, là những khoảng lặng đến
tê lòng người. Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại tồn tại và đấu tranh không
ngừng với chủ nghĩa duy tâm như một tất yếu của qui luật thống nhất và đấu tranh của
hai mặt đối lập trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong quá trình đó, chủ nghĩa duy vật
chất phác đã thể hiện được thế giới quan đúng đắn về nguồn gốc vật chất của thế giới
và khả năng nhận thức thế giới của con người. Các nhà tư tưởng duy vật chất phác Hy
Lạp cổ đại chẳng những đã góp phần to lớn trong việc xây dựng, phát triển xã hội
đương thời mà còn đóng góp cho kho tàng tri thức nhân loại nhiều học thuyết và triết
lý hết sức có giá trị; nhiều lý luận là cơ sở cho triết học duy vật biện chứng ngày nay

và không ít vấn đề còn đang được khoa học ngày nay nghiên cứu.
Bản thân người viết chuyên đề này cho rằng việc nắm bắt được tư tưởng cơ bản
của triết học duy vật chất phác và chủ nghĩa duy tâm là tiền đề để có thể hiểu được lý
luận cơ bản của Triết học Mác-Lê Nin- nền tảng cho hệ tư tưởng chính trị xã hội ở
nước ta. Đây là khởi đầu quá trình rèn luyện hình thế giới quan và phương pháp luận
khoa học giúp cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của người viết có nhiều
thuận lợi.
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH 12 LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI 2
1.1.Hoàn cảnh lịch sử 2
1.2.Đặc trưng cơ bản 3
Chương 2: CÁC HỌC THUYẾT HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI 4
2.1.Các trường phái của triết học duy vật chất phác 4
2.2.Các trường phái của triết học duy tâm 5
2.3.Vài ưu điểm và hạn chể của triết học Hy Lạp thời cổ đại 6
2.3.1.Ưu điểm 6
2.3.2.Hạn chế 6
CHƯƠNG 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY
VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM 7
3.1.Tương đồng 7
3.2.Khác biệt 8
KẾT LUẬN 12
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO – CHÚ THÍCH
[1]. Bùi Văn Mưa: Đại cương về lịch sử triết học (Tài liệu dùng cho học viên cao học

và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại Học Kinh Tế
TP.HCM , 2011.
[2]. Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình triết học (dùng trong các trường đại học và
cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, 2006.
[3].www.go.vn/diendan/showthread.php?516783-Triet-hoc-Hy-Lap-co-dai
[4]. />[5].
nguyen-thai-son.aspx
[6]. />[7]. />[8]. />chu-nghia-duy-tam-triet-hoc-co-dai-hy-lap.html
[9]. />hoc-co-dai-Hy-Lap-158141
HVTH: MAI HOÀNG HẠNH LỚP CAO HỌC NGÀY 4 – K22

×