Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC - DEMOCRIT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM KHÁCH QUAN - PLATON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.79 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM – VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT
CHẤT PHÁC - DEMOCRIT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM KHÁCH QUAN -
PLATON

Democrit (460 – 370 TCN) Platon (427 – 347 TCN)
Học viên thực hiện: Hà Huy Hoàng
STT: 20 - Nhóm 2
Lớp: Ngày 4 - Khóa 22
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa
TP.HCM, tháng 12 năm 201
LỜI MỞ ĐẦU
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là một giai đoạn mang tính lịch sử đầy ý nghĩa , là khởi
nguồn và làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây, cũng như nền triết học
thế giới hiện nay. Trong nền triết học thời bấy giờ có sự đấu tranh mạnh mẽ giữa hai
trường phái cơ bản của triết học đó là trường phái triết học duy vật và trường phái triết
học duy tâm. Nổi bật nhất và cũng được xem là đỉnh cao của triết học Hy Lạp cổ đại với
tư tưởng triết học của hai nhà triết học nổi tiếng Democrit –triết học duy vật và Platon
– triết học duy tâm khách quan. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu một
cách sâu sắc nhất về quan niệm, tư tưởng của hai triết gia trên qua đó cũng sẽ góp làm
nổi bật lên nét tương đồng và khác biệt chính của triết học duy vật chất phác và triết
học duy tâm thời cổ đại.
Tiểu luận triết học Trang 1
CHƯƠNG I
HOÀN CẢNH ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I.Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng
lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển
phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực.


Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn
như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu
thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê
(Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á
và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước
phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành
một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ
II. Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và
lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở
rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là
thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được
dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân
được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa
ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã
thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ
Tiểu luận triết học Trang 2
cuối thế kỷ VIII TCN là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng
lân cận. Angghen đã nhận xét: “Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng
được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới
xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có
quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
III.Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động
chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy

một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh
nhất, nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa
lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái
nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà
nước chủ nô dân chủ Athen
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông
nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây
dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến
tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen.
Cuộc chiến tàn khốc đã để lại hậu quả đó là sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị
và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của
tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có
ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã hội,
chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn
bộ bán đảo Hy Lạp, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc
La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa. Angghen đã
nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện
Tiểu luận triết học Trang 3
đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt
biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ
cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy
Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp
đón nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn
với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên
nền văn minh phương Tây hiện đại. Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn
học thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn,
phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những

lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.Về nghệ thuật, đã để lại các công trình
kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật
và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Athen. Về khoa học tự nhiên, những thành
tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago,
Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học
vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động
trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này góp phần hình thành tầng lớp trí thức biết
xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận đề nghiên cứu triết học và khoa học. Triết
học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh sẽ, nhìn chung thể hiện một cách rõ ràng và
nhất quán khuynh hướng nhất nguyên ( chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm), khuynh
hướng nhị nguyên. Triết học Hy lạp cổ đại gắn với sự hình thành của nền chính trị Hy Lạp
cổ đại, phản ảnh lịch sử của đất nước này. Nó trải qua ba giai đoạn: hình thành, phát triển
cực thịnh và suy tàn. Trong đó cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy tâm và duy vật đã
để lại dấu ấn sâu đậm nhất. Trường phái duy vật hình thành từ trường phái Mile, trường
phái Heraclit, trải qua trường phái đa nguyên, và đỉnh cao là trường phái nhất nguyên luận
của Democrit. Còn trường phái duy tâm được hình thành từ Pytago, qua đến trường phái
duy lý của Ele, phái ngụy biện và đạt đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của
Platon.
Tiểu luận triết học Trang 4
CHƯƠNG II
CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC DUY VẬT
Triết học duy vật thời kỳ Hy Lạp cổ đại mang nhiều tính ngây thơ chất phác. Họ
thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay dạng tồn
tại cụ thể của vật chất như đất, nước, lửa, không khí… và coi đó là thực thể đầu tiên, là
bản nguyên của vũ trụ. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan nhưng nền triết học thời
bấy giờ có ưu điểm là đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên mà không
viện đến một thần linh hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới. Triết học duy
vật lúc này được hình thành từ trường phái Mile- trường phái Heraclite, trường phái Đa

nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận của Democrit
1.Trường phái Mile
Trường phái triết học Mile là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie,
một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ
huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa
của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết
học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như:Thales, Anaximangdro và
Anaximen. ( Thế kỷ 6 – TCN). Đưa ra cái bản nguyên để lý giải sự tồn tại trong tính
thống nhất của vạn vật thế giới:
• Nước (Thales)
• Apeiron ( Anaximangdro )
• Không khí (Anaximen)
Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng cho việc việc
chống lại thế giới quan thần thoại đương thời, và mở ra thời đại lý trí của triết học Khoa
học.
2. Trường phái Heraclit
Tiểu luận triết học Trang 5
Do nhà ẩn dật Heracrit sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc
chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là
lửa. Vạn vật cả linh hồn đều được sinh ra từ lửa khi mất đi trở về với lửa. Vũ trụ không
phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và “đang” sẽ
mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy
theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình.
Ông cho rằng bản tính thế giới biện chứng. Vạn vật chứa trong mình các mặt đối
lập luôn thống nhất và đấu tranh với nhau, xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”,
“không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống
nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”.
Như vậy, Heracrit là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật

thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép
biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Heracrit vào kho tàng tư tưởng
của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.
3. Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan
niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Mile- trường phái Heracrit xây
dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa
nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí. Anaxagoras
cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”. Anaxagoras xem “
mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
Như vậy, Trường phái đa nguyên là một sự tìm tòi mới của chủ nghĩa duy vật
nhằm khắc phục những hạn chế của trường phái duy vật đơn nguyên, nhưng quan điểm
của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được
thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định
bằng cảm tính.
Tiểu luận triết học Trang 6
4. Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện
trong trường phái nguyên tử luận (thế kỷ 6 – TCN) Leucippe là người sáng lập và
Democrit là người kế thừa và phát triển. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng với những
thành tựu đạt được nó đã nâng triết học duy vật lên đỉnh cao đủ sức đương đầu với trào
lưu triết học duy tâm đang thịnh hành lúc này.
Leucippe (500 – 440 TCN), ông là người xây dựng nền móng đầu tiên cho trường
phái nguyên tử luận. Ông cho rằng cả nguyên tử và chân không đều cùng tồn tại, và
cùng là khởi nguyên của thế giới. Trong vũ trụ, luôn có những cơn lốc xoáy của các
nguyên tử cùng kích thước tụ lại với nhau theo từng loại để tạo nên đất, nước, lửa,
không khí. Từ đó tạo ra vùng đất và bầu trời cùng các vì tinh tú.
Democrit (460 – 370 TCN) là nhà triết học vĩ đại và đại diện ưu tú nhất cho dòng
triết học duy vật chất phác thời Hy Lạp cổ đại. Ông đã kế thừa và phát triển thuyết

nguyên tử luận trên một phương diện mới, với những hệ thống lý luận bao gồm những
nội dung sau:
Thuyết nguyên tử: Vũ trụ được cấu thành bởi nguyên tử và chân không. Nguyên tử
là những hạt vật chất cực nhỏ, không thể nhìn thấy được, không phân chia được, không
biến đổi, luôn vận động và tồn tại vĩnh viễn, giống nhau về chất nhưng khác nhau về
hình dạng (hình cầu, hình móc câu, hình tứ diện……), về kích thước, về tư thế. Chân
không không có kích thước và hình dáng, vô tận và duy nhất, là điều kiện cho nguyên tử
tồn tại. Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả mang tính tất nhiên
tuyệt đối ( mọi sự vật hiện tượng trong thế giới điều xảy ra theo lẽ tất nhiên), bản tính
thế giới là tất nhiên vì sự thiếu hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức của con người khi
nhận thức giới tự nhiên mới sinh ra cái ngẫu nhiên, ngẫu nhiên mang tính chủ quan,
nguyên tử vận động theo chiều hướng và nhiều kiểu, sự hình thành của vụ trụ và sự sống
chính là do sự va chạm của các nguyên tử. Về nguyên tắc khi các nguyên tử tụ lại thì sự
vật (Sự sống, linh hồn) được tạo thành và khi chúng tách ra thì sự vật biến mất. Sự sống
phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên
được hình thành đầu tiên chúng sống dưới nước sau đó chuyển lên sống ở cạn, và tiến
Tiểu luận triết học Trang 7
hóa dần đưa đến sự xuất hiện của con người hiện nay. Chỉ có sinh vật mới có linh hồn
( linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử hình cầu nhẹ nóng và chuyển động
nhanh) khả tử, nó sẽ rời thể xác và tan rã thành các nguyên tử lửa khi sinh vật chết. Mọi
vật trên thế giới bao gồm vô sinh và hữu sinh, đều hình thành và biến mất một cách ngẫu
nhiên không do thần thánh hay ai đó sáng tạo. Mặc dù Demorit không lý giải được
nguồn gốc của vận động, không biết được linh hồn là một hiện tượng tinh thân, nhưng
việc ông khẳng định bản chất của thế giới là vật chất – nguyên tử luôn tồn tại và vận
động theo luật nhân quả, vũ trụ là vô tận và đa dạng không do thần linh sáng tạo và hủy
diệt… , đây là quan niệm duy vật vô thần dũng cảm đương thời, Demorit đã cống hiến
cho triết học một hệ thống tư tưởng, lý luận, nhận thức thế giới trên quan niệm duy vật,
đặc biệt ông đã đưa ra ý tưởng về nguyên tử làm nền tảng cho những nghiên cứu khoa
học sau này.
Quan niệm về nhận thức: Democrit cho rằng nhận thức của con người đề có nội

dung chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, và đầy đủ khác nhau. Ông chia nhận thức của
con người làm hai dạng có liên hệ mật thiết với nhau là Nhận thức mờ tối do giác quan
mang lại, tức nhận thức cảm tính và Nhận thức sáng suốt do duy đoán đem đếm, tức
nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính chỉ cho ta biết dáng vẻ bề ngoài của sự vật, hiện
tượng. Muốn thấy rõ bản chất của sự vật thì phải thông qua nhận thức lý tính. Tuy nhiên
nhận thức cảm tính là tiền đề cho nhận thức lý tính, khi nắm bắt thế giới không thể
không sử dụng nhận thức lý tính. Khi đề cao nhận thức lý tính Democrit đã tiến hành
việc xây dựng nên logic học như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
Quan niệm đạo đức: Democrit cho rằng đạo đức học giúp con người làm rõ số
phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng người. Sự hiểu biết là cơ sở của
hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình, không hại
người. Còn hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc với tâm hồn
thanh thản. Mặc dù Democrit coi hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu…đều dựa vào
nghề nghiệp tuy nhiên ông luôn phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối hành vi bất
lương trục lợi cá nhân. Ông luôn đề cao hành động vi nghĩa cao thượng. Theo ông nhu
cầu về vật chất như: ăn, mặc, ở…… là động lực phát triển của xã hội.
Tiểu luận triết học Trang 8
Quan niệm về chính trị - xã hội: Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, do đó
Democrit luôn xây dựng quan niệm duy vật trên cơ sở bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Xã
hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô. Lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng
chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp lý làm cơ chế hoạt động, phát triển nền thương
mại và sản xuất thủ công, hướng theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công
dân tự do, nô lệ phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Quản lý nhà nước là một nghệ
thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ cho con người.
Những quan điểm, tư tưởng triết học của Democrit đầu đủ và nhất quán trường phái
nguyên tử, đưa triết học duy vật thời cổ đại Hy Lạp đến đỉnh cao, đủ khả năng đề chống
lại trường phái duy tâm thời bấy giờ
II. Triết học duy tâm
Giai đoạn Hy Lạp cổ đại, triết học duy tâm được hình thành trong trường phái triết
học Pythago, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái

duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
1.Trường phái Pythago
Pythago (571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh ra và lớn lên ở
vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế
giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất định, con số có
trước vạn vật. Và tư tưởng Pythago cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn.
Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vôn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười
cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và
tĩnh, thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia
làm bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ
bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pythago đã đặc nền móng ban đầu cho
trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp
2.Trường phái Ele
Trường phái Ele (Thế kỷ 6-5 TCN) do Xenophan thành lập theo tinh thần duy vật,
nhưng sau đó Pacmenic phát triển theo tinh thần duy lý và được Denong nhiệt thành bảo
vệ và phát huy.
Tiểu luận triết học Trang 9
Xenophan (570 – 478 TCN) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết
học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở của
vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Pacmenic (500 – 449 TCN)
xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Elee. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất
chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết
học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh
dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Denong (490 – 430 TCN), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elee. Ông đưa
ra những Apori nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng,
ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa
dạng và vận động của thế giới là không thực.
3.Trường phái duy tâm khách quan của Platon
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ

Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi
Socrate và Platon.
Socrate (469 – 399 TCN), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về
giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. “Con người hãy
nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức.
Platon (427 – 347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông
trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan.
Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với
giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo
đức, chính trị, xã hội. Sau đây là một số nội dung chính học thuyết của Platon:
Thuyết ý niệm: Platon chia thế giới thành hai thế giới đó là thế giới ý niệm (lý tính)
tồn tại trên trời, mang tính phổ biến, chân thực, tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất,
và thế giới sự vật (cảm tính) tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo tưởng, khả biến
thoáng qua. Coi ý niệm là cái sản sinh, có trước là nguyên nhân, bản chất khuôn mẫu
của sự vật. Còn sự vật là cái được sản sinh, có sau là cái bong được mô phỏng sao chép
lại từ ý niệm xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ ràng buộc với ý niệm. Bằng thuyết ý
Tiểu luận triết học Trang 10
niệm ông lý giải sự hình thành thế giới sự vật, con người và hoạt động của linh hồn. Sự
hình thành của thế giới sự vật gắn liền với bốn yếu tố cơ bản là: tồn tại (ý niệm), không
tồn tại (vật chất), con số (quan hệ tỷ lệ), sự vật cảm tính. Chính sự tồn tại của ý niệm
thông qua tỷ lệ các con số tác động vào vật chất sản sinh ra sự vật cảm tính.
Quan niêm về con người và linh hồn: Con người là sự kết hợp của thể xác khả tử
được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn, linh
hồn là bất tử. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vụ trụ do thượng đế tạo
ra từ lâu, chúng ngự trị trên các vì sao sau đó dùng cánh bay xuống nhập vào thể xác con
người, và quên hết quá khứ. Linh hồn gồm ba bộ phận chính: cảm giác, ý chí và lý trí bất
tử (lý tính)
Quan niệm về nhận thức: Nhận thức là “sự hồi tưởng lại của những linh hồn bất
tử” về những gì nó đã chiêm ngưỡng trong thế giới ý niệm nhưng bị lãng quên. Nhận
thức chân lý là khám phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn của con người, nó diễn ra

hoàn toàn nằm bên ngoài hoạt động cảm tính của con người, vì hoạt động cảm tính chỉ là
những lý giải sai lầm về sự vật.
Quan niệm về đạo đức: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platon cho rằng sống
hạnh phúc là sống có đạo đức và sống có đạo đức là làm điều thiện. Hành vi hướng thiện
là hành vi không dựa trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là hướng đến những ý tưởng
tuyệt đối khách quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên trời. Con người chỉ nhận thức được
những ý tưởng này bằng lý trí. Con người muốn sống hạnh phúc phải dung lý trí để
chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn, giúp linh
hồn thoát khỏi gông cùm của thể xác. Dục vọng phải phục vụ trái tim, trái tim phải làm
theo khối óc là điều kiện tiên quyết để sống hạnh phúc. Con người chỉ đạt được hạnh
phúc trong thế giới ý niệm ở trên trời và sau khi chết. Quan điểm về đạo đức đầy tính
duy tâm thần bí là cơ sở cho nền đạo đức thiên chúa giáo sau này.
Quan niệm về chính trị xã hội: Xã hội có ba hạng người làm ba việc: triết gia lãnh
đạo, chiến binh chiến đấu, thợ thủ công, thương gia sản xuất. Platon không coi nô lệ là
con người mà chỉ là động vật biết nói. Nhà nước hình thành nhằm đảo bảo sự phân công
trên được thực hiện, nhưng chế độ sở hữu tư nhân đã làm cho nhà nước bị tha hóa. Ông
Tiểu luận triết học Trang 11
chủ trương xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xây dựng chế độ sở hữu công. Theo Platon
chế độ xã hội tốt nhất nên là chế độ cộng hòa quý tộc do một vị vua là triết gia tài ba
lãnh đạo.
Triết học duy tâm khách quan của Platon chứa đựng đầy sự bảo thủ và mâu thuẫn.
Một mặt ông đề xuất xóa bỏ chế độ tư hữu, mặc khác lại đòi hỏi phải bảo vệ cho chế độ
đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội, vừa kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hòa lý
tưởng, lại vừa bảo vệ lợi ích của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân chủ
Ath
CHƯƠNG III
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT
PHÁC DEMOCRIT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM KHÁCH QUAN PLATON
I. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, triết học luôn mang tính giai cấp, do vậy

những điều kiện kinh tế xã hội, những ý thức giai cấp là tác nhân quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến các quan điểm triết học. Có thể coi hai ông sinh ra cùng một thời, cùng ở
trong tầng lớp chủ nô, cùng chịu sự ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế - xã hội của
nước Hy Lạp cổ đại, vì vậy, mặc dù đại diện cho hai trường phái triết học khác nhau,
song triết học của hai ông vẫn có những điểm tương đồng nhau, thể hiện:
• Triết học của hai ông xây dựng đều thể hiện thế giới quan ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Đây là công cụ để giai cấp này
duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình
• Xây dựng nên các tư tưởng, lý luận tuy mang tính trực quan, ngây thơ,
chất phác , nhưng nó cũng đã gắn triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong đó. Democrit quy bản
nguyên thế giới vào một vật chất cụ thể, chưa lý giải được nguồn gốc nguyên tử,
nguồn gốc của sự vận động, còn thừa nhận trong con người có một phần bản chất
thiên thần, chưa hiểu hết đặc trưng của tư duy, ý thức con người so với các sự vật
Tiểu luận triết học Trang 12
khác, phủ nhận hiện tượng ngẫu nhiên Còn Platon tuyệt đối hóa một mặt của
quá trình nhận thức, tách ý thức, nhận thức ra khỏi thế giới vật chất, ông cũng
chưa làm rõ được mối quan hệ giữa thế giới ý niệm và thế giớí các sự vật, ông còn
buộc phải thừa nhận là còn tồn tại một “thế giới thứ ba” giống như hai thế giới kia
và đứng ở trên chúng.
• Tư tưởng triết học của hai ông như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần
thánh muôn đời của người dân Hy Lạp. Vai trò của tự nhiên và con người được đề
cập một cách khách quan. Nhằm đi đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà
có và đi về đâu.
• Coi trọng vai trò của con người, không đề cao nhận thức cảm tính và coi
trọng nhận thức bằng lý trí để nhìn nhận rõ bản chất của sự vật hiện tượng.
Khuyến khích con người nên sống hướng thiện và sống có đạo đức thì mới có
được cuộc sống hạnh phúc.
II. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT

Democrit ( 460 -370 TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại. Triết học của ông thể hiện thế giới quan của bộ phận giai cấp chủ nô
dân chủ tiến bộ. Còn triết học của Platon là trường phái triết học duy tâm khách quan,
thể hiện thế giới quan của giai cấp chủ nô quý tộc phản động.
Về vấn đề khởi nguyên của thế giới: Democrit coi nguyên tử và khoảng trống là cơ
sở đầu tiên của thế giới, trong đó nguyên tử là những hạt vật chất không thể phân chia
được và luôn vận động. Những nguyên tử đồng nhất về chất lượng, vô tận về số lượng,
khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trật trự. Nhiều nguyên tử kết hợp thành vật
thể, khi vật thể tan rã lại trở về với nguyên tử. Nguyên tử là tồn tại bởi vì nguyên tử sinh
ra sự vật, khoảng trống do không sinh ra cái gì cả, do vậy đây chỉ là không gian để
nguyên tử vận động, kết hợp và tan rã, cho nên khoảng trống không tồn tại. Ngược lại,
Platon coi : “ý niệm” là tồn tại chân thực và vĩnh cửu, còn vật chất không tồn tại. Trong
quan hệ với các sự vật cảm tính ý niệm vừa là nguyên nhân, vừa là hình mẫu, mục đích
của các sự vật cảm tính.
Tiểu luận triết học Trang 13
Vấn đề về con người và linh hồn: Democrit coi linh hồn cũng được tạo thành một
loại nguyên tử đặc biệt hình cầu, giống nguyên tử lửa. Linh hồn không bất tử. Trái lại,
Platon coi linh hồn là bất tử, linh hồn được thượng đế tạo ra từ lâu chúng ngự trị trên các
vì sao và có thể nhập vào thể xác của con người.
Vấn đề về nhận thức: Democrit coi cảm giác là nguồn gốc của nhận thức. Song, tri
thức dựa trên cảm giác là tri thức mờ tối. Còn tri thức dựa trên lý tính thông qua duy
đoán, suy luận, qua lao động một thời gian lâu dài mới cho chúng ta tri thức xác thực,
đạt đến hiểu biết về bản chất của thế giới. Democrit còn đặt vấn đề về mối quan hệ giữa
cảm giác và lý tính trong nhận thức. Còn Platon coi nhận thức về sự vật là không xác
thực “ mờ tối” chỉ có nhận thức về những ý niệm là xác thực và đạt được bằng sự hồi
tưởng lại của những linh hồn bất tử những gì mà nó đã thấy ở thế giới ý niệm trước đó.
Tri thức theo quan điểm của Platon là cái có sẵn trong con người nhưng con người vì
một số lý do nào đó mà chưa nhận thức được.
Vấn đề về nhận thức đạo đức: Democrit cho rằng hạnh phúc là khi con người sống
trong cuộc sống thực tại sống có đạo đức sống hướng thiện, hành động không gây hại

cho người khác, sống hưởng lạc với tâm hồn thanh thản. Còn Platon lại cho rằng hạnh
phúc có được trong thế giới ý niệm và xuất hiện khi con người chết đi, khi mà linh hồn
rời khỏi thể xác.
Vấn đề về quan điểm chính trị: Democrit ủng hộ chế độ dân chủ, còn Platon lại đề
cao chế độ quý tộc, chống lại chế độ dân chủ tiến bộ

KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền tảng và cầu nối những nền triết học sau này. Đến nay
những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị.
Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh
của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy các khía cạnh của nền triết học Châu Âu ngày nay
qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó làm cho nó mãi sáng rực rỡ trong tiến trình lịch
sử phát triển của triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx nói đã từng nói: “Dại dột
Tiểu luận triết học Trang 14
cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết
học ấy nổi bật nhất là Democrit – trường phái duy vật và Socrate, Platon – trường phái
duy tâm khách quan.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Triết học Phần I: Đại cương về lịch sử triết học. Nhóm tác giả bộ môn triết học
trường ĐH Kinh Tê HCM – Khoa lý luận chính trị - tiểu ban triết học. Xuất bản năm
2011 - lưu hành nội bộ.
(2) Hướng dẫn ôn thi triết học Mac Lenin. Nhóm tác giả thuộc trung tâm bồi dưỡng cán
bộ giảng dạy Lý luận Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
(3) Trang web: ( luận văn)
(4) Giáo trình triêt học Mác-Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003
MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………Trang 1
CHƯƠNG I
HOÀN CẢNH ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI …………………………………………………………… Trang 2

I.Về tự nhiên ………………………………………………………………… Trang 2
II.Về kinh tế ………………………………………………………………… Trang 3
III.Về chính trị - xã hội ……………………………………………………….Trang 4
CHƯƠNG II
CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI……………………Trang 5
I.Triết học duy vật ……………………………………………………………Trang 5
1.Trường phái Mile ……………………………………………………….Trang 5
2. Trường phái Heraclit………………………………………………… Trang 6
3. Trường phái đa nguyên ……………………………………………… Trang 6
4. Trường phái nguyên tử luận ………………………………………… Trang 7
II. Triết học duy tâm …………………………………………………………Trang 9
1.Trường phái Pythago ……………………………………………………Trang 9
2.Trường phái Ele ………………………………………………………….Trang 9
Tiểu luận triết học Trang 15
3.Trường phái duy tâm khách quan của Platon ……………………….Trang 10
CHƯƠNG III
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT
PHÁC DEMOCRIT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM KHÁCH QUAN PLATON
I. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG …………………………………… Trang 12
II. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT Trang 13
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………Trang 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………… Trang 15

Tiểu luận triết học Trang 16

×