Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận triết học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.69 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



Đề tài tiểu luận triết học:
“SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC ĐẠO GIA & TRIẾT HỌC PHÁP GIA
Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI”



GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
SVTH : Vương Mạnh Cường
STT : 05
Nhóm : 01
Lớp : Cao học Ngày 4 – K22



Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 12/2012
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
2

LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc – một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á, với hai con sông
Hoàng Hà và Trường Giang chảy qua, phân chia đất nước này thành các khu vực địa
lý với những điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng về tự
nhiên lẫn bản sắc của mỗi vùng miền. Cùng với sự đa dạng này và quá trình chuyển


từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến, thời Chiến Quốc – Xuân Thu, các
cuộc chiến tranh tranh giành thế lực, thâu tóm nhau giữa các tiểu quốc diễn ra triền
miên, kéo dài 3 thế kỷ. Đó là thời kỳ đại loạn, ai cũng có tư tưởng để đưa ra một
thuyết cứu đời, mà vua chúa nào cũng muốn làm bá chủ Trung Quốc nên họ tôn
trọng kẻ sĩ, mời họ làm cố vấn nên ngôn luận được tự do. Đó là thời kỳ “trăm hoa
đua nở” sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái Triết học
lúc bấy giờ.
Đạo gia và Pháp gia là hai trong số những tư tưởng triết học lớn thời bấy giờ
có những đóng góp, xây dựng quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển của
Trung Hoa cổ. Để tìm hiểu rõ hơn về hai trường phái này, chúng ta cùng nghiên cứu
đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Đạo gia và triết học Pháp gia ở
Trung Quốc cổ đại”.
Nội dung đề tài tiểu luận gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về triết học thế giới và triết học trung quốc thời cổ đại
Chương 2: Những nội dung cơ bản của triết học Đạo gia và triết học Pháp gia
Chương 3: Những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa triết học Đạo gia và
triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy TS. Bùi Văn Mưa đã tận tình giảng dạy cho
em những kiến thức Triết học và hướng dẫn em hoàn thành bài viết này!
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
3
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC THẾ GIỚI VÀ TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
1. Khái lược bức tranh triết học về thế giới:
Triết học ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông và phương
Tây vào khoảng thế kỷ VIII - thế kỷ VI (trước công nguyên). Đã có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản

giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những
quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài
người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách
có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học
Phương Tây và Triết học Phương Đông. Nhưng do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế
xã hội, văn hóa mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Phương Tây
phát triển Triết học “hướng ngoại” bởi những yêu cầu phát triển khoa học nghiên
cứu; còn Phương Đông chịu sự tác động của chính trị, chiến tranh diễn ra liên tục,
nên Triết học “hướng nội”, nghiên cứu về Tôn giáo có Ấn Độ, về chính trị - đạo đức
– xã hội có Trung Quốc. Nhưng dù phát triển ở Phương Đông hay Phương Tây thì
Triết học cũng là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của
con người.
2. Triết học Trung Quốc cổ - trung đại:
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu
nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của
các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
4
trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và
đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ
đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ
quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị -
đạo đức phong kiến phương Đông. Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà
tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái Triết học khá hoàn chỉnh.
3. Đặc điểm chung của triết học Trung Quốc cổ - trung đại:

Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết
học Trung Hoa cổ, trung đại, tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân
sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự
nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là chính trị đạo đức, các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực
luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản
nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các nhà
triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng
nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu
thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
Thứ tư là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học
cổ, trung đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể
nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật
ăn khớp, khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm
bản thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái
tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
5
CHƯƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA

1. Triết học Đạo gia:
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Đạo gia là một trường phái triết học Trung Quốc, lấy tên của phạm trù Đạo,
một phạm trù trung tâm và nền tảng của nó, được hình thành qua một quá trình dài,
thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác.
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến

Quốc. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ
luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…
Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo gia có thể ở thế kỉ thứ 4 trước công
nguyên khi tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Theo truyền thuyết, Lão
Tử (khoảng 580- 500 trước công nguyên) – người nước Sở - là người sáng lập ra
Đạo gia.
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được
thừa nhận và tôn vinh muôn đời, đó là Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) và
Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN). Trong đó vị trí của Trang Tử được sánh ngang
với Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Tác phẩm tiêu biểu: “Đạo đức kinh”, “Nam Hoa kinh”.

Lão Tử Trang Tử
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
6
1.2. Những nội dung cơ bản của Triết học Đạo gia:
• Lý luận về đạo và đức:
Đạo và đức là 2 phạm trù không thể tách rời của sự vật. Đạo là bản nguyên vô
hình, là con đường, quy luật chung của sự hình thành vạn vật. Đức là sức mạnh tiềm
ẩn của đạo, là hình thức mà nhờ vào đó, vạn vật có thể được phân biệt và định hình.
• Tư tưởng biện chứng:
Lão Tử cho rằng vạn vật luôn biến đổi không ngừng và tuân theo 2 quy luật:
Quy luật bình quân và quy luật phản phục.
Luật bình quân: luôn giữ cho sự vật được tồn tại một cách cân bằng theo một
trật tự tự nhiên, không có gì thái quá, chênh lệch…
Luật phản phục: có nghĩa là khi sự vật phát triển đến một cực điểm nào đó thì
sẽ quay lại phương hướng cũ.
• Quan điểm về nhân sinh và chính trị - xã hội:


Thuyết vô vi: Vô vi là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, là tự do
tuyệt đối, không bị ràng buộc bởi ý tưởng dục vọng, đam mê, ham muốn nào. Giữ
gìn bản tính tự nhiên của mình, ngăn chặn bài trừ những gì làm tổn hại đến bản tính
tự nhiên của vạn vật, để không làm mất đức. Khi nào từ bỏ được những tư lợi cá
nhân thì mới thấy đạo. Khi thấy đạo mới có thể gọi là vô vi.
2. Triết học Pháp gia:
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Pháp gia là một trong 6 trường phái triết lý ở thời Xuân Thu và thời Chiến
Quốc (Gần cuối thời nhà Chu từ khoảng thế kỷ thứ 6 trước công nguyên cho tới
khoảng thế kỷ thứ 3 TCN).
Người được coi là khởi xướng cho trường phái này là Quản Trọng (? – 645
TCN). Tiếp tục nền tảng của Quản Trọng còn có Thận Đáo (370 – 290 TCN) với
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
7
chủ trương dùng thế, Thân Bất Hại (401 – 337 TCN) chủ trương dùng thuật, còn
Thương Ưởng (390 – 338 TCN) chủ trương dùng pháp.
Cuối thời Chiến quốc, Hàn Phi (280 – 233 TCN) xuất phát từ ba khuynh hướng
tư tưởng kể trên đã xây dựng lí thuyết hoàn chỉnh của Pháp gia. Pháp gia một mặt
chủ trương dựa vào pháp luật để trị nước, trị dân, xem pháp luật là cơ sở để thưởng
phạt, xem việc tuân theo pháp luật là bổn phận của mọi người, bất kể sang hay hèn,
thân hay sơ, xem giáo dục pháp luật là công việc quan trọng của triều đình, vv. Mặt
khác, chú trọng nghề nông và chiến tranh để tăng sức mạnh về kinh tế và quân sự
cho nhà nước quân chủ tập quyền.
Tác phẩm tiêu biểu của Pháp gia là “Thương quân thư”, “Hàn Phi Tử”.

Quản Trọng Hàn Phi
2.2. Những nội dung cơ bản của Triết học Pháp gia:

• Tư tưởng biện chứng:
Thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực lượng khách quan
trong xã hội. Cần phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho
phù hợp.
Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Chính vì sự biến đổi không ngừng
của xã hội nên các chính sách pháp trị cũng phải luôn thay đổi nhằm thích ứng với
thực tế của xã hội.
Thừa nhận bản tính của con người là ác. Với quan điểm trong xã hội người tốt
ít hơn người xấu rất nhiều, do đó, việc trông chờ vào số ít người tốt đó để họ thực
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
8
hiện những điều tốt (thực hành nhân nghĩa trị) là điều không nên, vì vậy cần chủ
động ngăn chặn số đông người ác kia không có cơ hội thực hiện những điều xấu
(thực hiện pháp trị).
• Phép trị quốc của Hàn Phi:
Pháp: luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày rõ ràng và thông báo
rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng trước pháp
luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng phạt những người
bất tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi phán xét của pháp luật là đều có thể suy
luận theo hệ thống để biết trước được (từ khi phát sinh hành động liên quan tới pháp
luật, đã có thể đoán trước phán xét của pháp luật cho hành động đó là như thế nào).
Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà vua cai trị.
Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài cũng trở nên
mạnh mẽ.
Thuật : phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những thủ đoạn đặc biệt và “bí
mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác (quan lại ) không
thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là không một ai có thể
biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà vua, và vì thế không

ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc tuân theo “pháp”
hay các luật lệ.
Thế : tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của nhà vua cai trị,
chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích khuynh hướng,
hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai trị thực sự.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
9
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA
Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
1. Những điểm tương đồng giữa Triết học Đạo gia và Triết học Pháp gia:
• Thời gian và bối cảnh ra đời, phát triển:
Cả hai trường phái này đều được hình thành và phát triển trong bối cảnh nhà
nước Trung Hoa cổ đại – thời Xuân Thu, Chiến Quốc – một thời đại để lại dấu ấn
với sự phát triển rực rỡ của các trường phái triết học. Bên cạnh đó, giai đoạn này
cũng nổi tiếng với tình hình xã hội loạn lạc, chiến tranh giữa các tiểu quốc diễn ra
liên miên. Xuất phát từ vấn đề này, mỗi đạo tuy có những hướng tư tưởng riêng,
song điểm chung của cả hai đạo đều bắt nguồn từ vấn đề xã hội có nhiều biến cố,
loạn lạc.
• Mục đích sâu xa:
Cả hai phái đều chủ trương đạp đổ chế độ cũ, hướng tới xây dựng một chế độ
khác. Dù mỗi trường phái với hướng nhìn nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, các
trường phái này đều có những học thuyết nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục
tình trạng loạn lạc thời bấy giờ.
Với Đạo gia, nội dung của nó khuyên con người sống biết hướng thiện, có lễ,
có nghĩa. Đặc biệt, với chủ trương của thuyết vô vi: sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không giả tạo, gò ép, trái với bản tính của mình, trái với bản chất

của tự nhiên. Khuyên con người từ bỏ những tham lam, vị kỷ để không làm mất đức.
Lão Tử đưa ra nghệ thuật sống cho con người đó là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường,
khoan dung.
Với Pháp gia, mặc dù thiên về vấn đề chính trị nhưng cũng không ngoài mục
đích cải cách và chỉnh đốn đất nước, tạo một thế giới yên bình, nhân dân được ấm
no (chủ trương dùng “pháp trị”). Thừa nhận bản tính con người là ác và trong xã hội
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
10
số người tốt rất ít, do đó, nhằm ngăn chặn số đông những người xấu thực hiện những
hành vi không tốt, cần phải áp dụng pháp trị.
• Nền tảng phát triển và sức ảnh hưởng:
Hai trường phái này tồn tại từ thời Trung Hoa cổ đại, lấy nền tảng là những tư
tưởng trong Kinh dịch, được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài
đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và nhiều quốc gia phương
Đông nói chung.
Đặc biệt, Pháp gia của Hàn Phi còn là sự kết hợp của 3 học thuyết Nho, Lão,
Pháp. Trong đó, Nho gia được gọi là “vật liệu để xây dựng xã hội”, Đạo gia là “kỹ
thuật thi công”, Pháp gia là “bản thiết kế”.
Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả hai trường phái triết học đã
hòa hợp thành một truyền thống. Ảnh hưởng của hai trường phái triết học này trong
lĩnh vực tôn giáo và văn hóa vượt khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến một
số nước Châu Á lân cận như Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Lào,
Campuchia…
• Quan điểm biện chứng:
Cả hai trường phái đều công nhận thế giới vạn vật luôn luôn vận động và biến
động không ngừng.
Đạo gia: Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm
tính, phi ngôn từ, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của

mọi sự hình thành, biến đổi. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh
tiềm ản của đạo, là cái hìn thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với
nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
Thế giới là một chỉnh thể thống nhất – vận hành của đạo, thông qua đức mà
đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu
sinh ra vạn vật. Vạn vật mất đi lại quay về với đạo.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
11
Pháp gia: Vạn vật vận động luôn bị chi phối bởi cái lý – tính quy luật hay
những lực lượng khách quan trong xã hội. Cần phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn
biến hóa mà hành động cho phù hợp. Mặt khác, tư tưởng của Hàn Phi trong Pháp gia
còn thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Ông cho rằng, không có chế độ xã
hội nào tồn tại một cách bất di bất dịch. Vì vậy, pháp luật cũng phải luôn biến đổi
để thích ứng với xã hội.
• Tập trung vào yếu tố con người:
Con người là yếu tố chính mà hai trường phái triết học này đều hướng đến.
Ở Đạo gia, chỉ cần con người sống theo những chuẩn mực của đạo, của đức,
sống theo chủ trương của thuyết vô vi: từ bỏ tham lam, vị kỷ, trở thành những con
người từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung.
Với Pháp gia, nhận thấy bản chất con người là không tốt và là yếu tố ảnh
hưởng nhiều đến trật tự xã hội, nếu hướng con người vào khuôn khổ, quy định, dùng
“pháp trị” một cách chặt chẽ thì có thể tạo ra một xã hội có trật tự, kỷ cương. Từ đó,
các công cụ cai trị đất nước ra đời: pháp (quy định, luật lệ mà con người cần phải
tuân theo), thế (địa vị, quyền lực của người đứng đầu là độc tôn), thuật (phương
pháp, cách thức để cai trị con người của những người có “thế”).
2.Những điểm khác biệt giữa Triết học Đạo gia và Triết học Pháp gia:
• Đường lối chính trị, quan điểm trị nước:
- Đạo gia: sử dụng thuyết vô vi, có nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên,

thần phái, không làm trái với tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ
làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết,
không muốn. Theo đó, Đạo gia hầu như không dùng luật pháp, không cần giáo dục
con người. Xã hội được cai trị bằng cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã
được cai trị… Con người sống tự nhiên thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng,
không cần đến cả tri thức, văn hóa hay bất cứ sự tiến bộ xã hội nào… Đạo gia chủ
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
12
trương hạn chế quyền lực của nhà nước và hoạt động của dân tới mức tối đa, để cho
dân sống chất phác như thời nguyên thủy, duy trì tình trạng nước nhỏ, dân ít, cứ tự
nhiên như thời sơ khai; họ tin rằng một khi không còn gia cấp thì sẽ hết loạn, chẳng
cần thống nhất cũng như không thống nhất. Đạo gia đả đảo một cái cựu (chế độ
phong kiến cũ) để trở về một cái cựu hơn (xã hội nguyên thủy).
Tóm lại, xã hội lý tưởng của Lão Tử: một xã hội chất phác, cô lập cá nhân với
xã hội để hòa tan con người vào đạo (tự nhiên), một xã hội mà nước nhỏ, dân ít, có
thuyền có xe mà không đi, bỏ văn tự, không học hành… giống như xã hội nguyên
thủy thời xa xưa.
- Pháp gia: Hàn Phi có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Ông cho
rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính
thực tiễn của đất nước. Bởi vậy, để giải quyết thực trạng xã hội hiện tại, dựa trên
thực tiễn ông đã đưa ra quan điểm “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ
trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không
kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại
thần, thưởng thiện bất di tứ phu), áp đặt con người vào khuôn khổ, quy định một
cách triệt để. Ông luôn coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một
lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ
“pháp”, “thuật” với “thế”. Tùy tình hình xã hội mà thay đổi pháp luật cho phù hợp.
Pháp gia lại rất coi trọng yếu tố quyền lực cai trị của nhà nước, của những người có

quyền, có thế trong xã hội. Khác với Đạo gia hướng về xã hội nguyên thủy, các nhà
tư tưởng Pháp gia muốn hướng đến xây dựng một chế độ mới, dùng chính sách độc
tài, sử dụng vũ lực để lật đổ chế độ phong kiến xây dựng một chế độ quân chủ
chuyên chế.
Quốc gia lí tưởng của Hàn Phi là một nước:
+Theo chế độ quân chủ chuyên chế; vua có uy thế tuyệt cao, nắm hết quyền
hành, đích thân chế ngự quần thần, không ủy một chút quyền cho ai cả.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
13
+Theo chủ nghĩa pháp trị: ai cũng phải theo pháp luật, kể cả vua, chí công vô
tư, mà không dùng nhân nghĩa, tình cảm.
+Bên cạnh đó, trong quốc gia phải có sự thống nhất về tư tưởng, không dung
nạp các “tư học” tức các học thuyết trái với chủ trương của chính quyền, cấm sự
tranh biện và chỉ dạy pháp luật cho dân thôi (thầy học là các quan lại). Ông chủ
trương trọng nông, gìm công thương. Trọng vũ lực theo chủ nghĩa quân quốc.
• Sự khác biệt trong quan điểm biện chứng.
Đạo gia: với quy luật bình quân và phản phục, tư tưởng Đạo gia cho rằng mọi
sự vật đều có quy luật của nó, tức là có sự thay đổi và dịch chuyển, nhưng sự thay
đổi và dịch chuyển này theo một quỹ đạo nhất định. Và cứ như vậy, vạn vật cứ luân
chuyển theo một quỹ đạo ấy, không có gì thay đổi hay tiến triển. Như vậy, có thể
nói, tư tưởng trong Đạo gia chưa bao hàm sự phát triển.
Pháp gia: ngược lại quan điểm của Đạo gia, quan điểm Pháp gia của Hàn Phi
lại cho rằng, xã hội luôn vận động không ngừng và luôn luôn thay đổi theo các chiều
hướng khác nhau. Không có một xã hội bất di bất dịch hay có tính khuôn mẫu
chung, mà tất cả mọi thứ đều thay đổi không ngừng. Người thống trị phải dựa vào
các yếu tố khách quan của lịch sử để mà có những chính sách, đường lối thích hợp.
Với tư tưởng này cho thấy, Pháp gia đã bao gồm ý nghĩa của sự phát triển không
ngừng của thế giới, vạn vật.

• Sự khác biệt thành công trong thực tế và ứng dụng của hai trường phái:
Đạo gia chủ trương lý tưởng, trọng đạo đức. Lão tử quan niệm Đạo bao gồm 2
nghĩa, cái Đạo của bản thể và cái Đạo của Nhân sự. Đức cũng chia 2 loại, Đức của
Đạo và Đức của những cái không phải Đạo (cái Đức của cái đã mất Đạo - Nhân, Lễ,
Nghĩa,…). Ông coi trọng Đạo Đức nhưng coi khinh Nhân, Nghĩa, Lễ… vì chúng
chưa đủ để thể hiện cái Đạo trong lòng mình. Ông cho rằng có Đạo là có tất cả,
không cần phải nói tới Nhân, Nghĩa, Lễ,… nữa. Triết học Đạo gia bắt nguồn từ Lão
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
14
Tử rất có công với Triết học, đạo đức và sự đào tạo tâm hồn nhưng về mặt thực tế
chính trị thì nó lại là một sự thất bại bởi tư tưởng của họ ngăn cản sự biến chuyển
dòng lịch sử, không dựa trên thực tế để giải quyết vấn đề. (Dương, Lão, Trang đều
chủ trương lánh đời).
Pháp gia chủ trương thực tế, trọng quyền lực. Tư tưởng của họ tuy nhiều người
không phục vì họ đứng về phía quan niệm của vua (của quốc gia) mà không đứng về
quan niệm của dân. Tuy vậy trong thực tế Pháp gia rất thành công – kể từ thời Tần,
Hán trở đi các chính sách của họ không thời nào mà nhà cầm quyền không theo,
không dung hòa với ít nhiều chính sách của Nho gia. Họ thành công bởi vì họ không
những không ngăn cản sự biến chuyển của dòng lịch sử mà còn thúc đẩy nó tiến
mau hơn, và thêm nữa họ đưa ra các chính sách dựa trên thực tế không bàn suông,
chỉ nhắm kết quả ngắn hạn, tách rời chính trị và đạo đức.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
15
KẾT LUẬN

Đạo gia và Pháp gia tuy có khá nhiều điểm tương đồng cũng vẫn mang những

nét khác biệt đặc trưng của mỗi trường phái. Đạo gia với những tư tưởng về đạo, về
đức, về phép biện chứng, về vô vi trong hệ thống triết học của Lão Tử. Chúng là
mạch suối nguồn làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc sắc của nền triết học
phương Đông nói chung và triết học Trung Hoa nói riêng… Tuy nhiên, cách sống
dửng dưng, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là một phản ứng tiêu cực trước
sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ nhưng nó lại phù hợp với quan niệm nhân sinh của
nhiều người lúc bấy giờ. Pháp gia với những tư tưởng mới mẻ, nghiêm khắc thiên về
hướng “pháp trị” đã tạo nên một hướng tư tưởng khá mới mẻ so với những luồng tư
tưởng tồn tại trước giờ. Tuy nhiên, chính sự nghiêm khắc đánh giá, cảm nhận như
vậy, đôi lúc khiến có cảm giác dường như tư tưởng này có hướng tiêu cực quá
nhiều.
Tuy nhiên, một điểm chung rõ rệt nhất ở các trường phái này đó là đều thể hiện
một niềm khát khao về một thế giới tốt đẹp hơn của các nhà học giả thời bấy giờ.
Việt Nam trong lịch sử đã phải chịu hơn 1000 năm đô hộ của Trung Quốc, do
đó các tư tưởng triết học này cũng đã có những thâm nhập và có tác động nhất định
vào tư tưởng, văn hóa Việt Nam. Theo dòng thời gian lịch sử phát triển xã hội Việt
Nam đã và đang tiếp tục phát huy những mặt tích cực và đào thải những mặt tích
cực của các trường phái triết học này nhằm gây dựng một xã hội Việt Nam ngày một
tốt đẹp hơn.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên) (2011), “Triết học – Phần 1 – Đại cương về
lịch sử triết học” – Tiểu ban triết học, khoa Lý luận chính trị, trường đại học
Kinh tế Tp. HCM
2. Trần Tường, “Lão Tử Đạo Đức Kinh” - NXB Thanh Niên - Năm 2006
3. Thu Giang - Nguyễn Duy Cần, “Lão Tử Tinh Hoa”, NXB Tp.HCM - Năm 1992

4. Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi, “Hàn Phi Tử” , NXB Văn Hóa – Năm 1994
5.
6.
7.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
17
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC THẾ GIỚI VÀ TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 3
1. Khái lược bức tranh triết học về thế giới 3
2. Triết học Trung Quốc cổ - trung đại 3
3. Đặc điểm chung của triết học Trung Quốc cổ - trung đại 4
CHƯƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA 5
1. Triết học Đạo gia 5
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 5
1.2. Những nội dung cơ bản của Triết học Đạo gia 6
 L luận về đạo và đức 6
 Tư tưởng biện chứng 6
 Quan điểm về nhân sinh và chính trị - xã hội 6
2. Triết học Pháp gia 6
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển 6
2.2. Những nội dung cơ bản của Triết học Pháp gia 7
 Tư tưởng biện chứng 7
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


SVTH: Vương Mạnh Cường_Ngày 4_K22 Trang
18
 Phép trị quốc của Hàn Phi 8
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT
HỌC ĐẠO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 9
1. Những điểm tương đồng giữa Triết học Đạo gia và Triết học Pháp gia 9
 Thời gian và bối cảnh ra đời, phát triển 9
 Mục đích sâu xa 9
 Nền tảng phát triển và sức ảnh hưởng 10
 Quan điểm biện chứng 10
 Tập trung vào yếu tố con người 11
2. Những điểm khác biệt giữa Triết học Đạo gia và Triết học Pháp gia 11
 Đường lối chính trị, quan điểm trị nước 11
 Sự khác biệt trong quan điểm biện chứng 13
 Sự khác biệt thành cng trong thực tế và ứng dụng của hai trường phái
………………………………………………………………………13
KẾT LUẬN ……………….……………………………………………………15

×