HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
LỜI MỞ ĐẦU
A. Giới thiệu tổng quan về đề tài:
Arisotle là một nhà Đại hiền triết lỗi lạc của thế giới, bằng một trí tuệ phi thường
cùng với kiến thức uyên thâm của mình, ông đã để lại cho nhân loại rất nhiều tư
tưởng đúng đắn tiến bộ về rất nhiều lĩnh vực: vật lý học, sinh vật học, đạo đức
học, âm nhạc nghệ thuật, triết học,… Aritotle đã mở ra một chương mới cho xã
hội Hy Lạp cổ, những tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu rộng và sâu sắc đến xã
hội, con người Hy Lạp cũng như ảnh hưởng vô cùng to lớn đến xã hội phương
Tây. Cuộc đời của Aristotle, những quan điểm triết học vĩ đại của ông cùng với
sự ảnh hưởng của nó đến xã hội phương Tây như thế nào sẽ được trình bày cụ
thể thông qua đề tài tiểu luận “Triết học Aristotle và sự ảnh hưởng của nó đến
xã hội phương Tây”. Kết cấu bài tiểu luận gồm có 2 chương chính:
- Chương I: Tổng quan về Aristotle và các quan điểm triết học của ông
- Chương II: Một số ảnh hưởng chính của triết học Aristotle đối với xã hội
phương Tây.
Bằng một cách khái quát nhất, đề tài sẽ nêu ra những điểm chính trong cuộc đời
Aristotle và những ảnh hưởng của tư tưởng triết học của ông đến với xã hội Tây
phương.
B. Mục tiêu của đề tài:
Dựa trên nguồn tài liệu tham khảo chính là giáo trình “Triết học - phần I: Đại
cương về lịch sử Triết học” của TS.Bùi Văn Mưa – Khoa Lý luận chính trị -
Trường Đại học Kinh tế TPHCM cùng với một số tài liệu tham khảo trên
Internet, bài tiểu luận sẽ nêu tóm tắt về cuộc đời cũng như những quan điểm triết
học của Aristotle, và nêu lên những ảnh hưởng nổi bật trong tư tưởng triết học
của ông đối với xã hội phương Tây. Qua đề tài tiểu luận này, người đọc sẽ hiểu
rõ hơn về cuộc đời, con người và sự nghiệp của nhà triết học vĩ đại Aristotle và
tầm ảnh hưởng lớn lao của ông đối với xã hội là như thế nào.
Trang 1
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ARISTOTLE VÀ CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT
HỌC CỦA ÔNG
1. Giới thiệu về Aristotle
Aristotle là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết
sức lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Cùng với Plato, Aristotle được coi là
một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Aristotle hiểu rõ toàn thể học
thuật Hy Lạp của các thời đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển
kiến thức của nhân loại, gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau.
Aristotle sinh năm 384 và mất năm 322 (TCN) tại Stagira, một thị trấn nhỏ phía
đông thành phố Salonica, sát biên giới vương quốc Macedonia. Xuất thân từ một gia
đình trí thức, cha của Aristotle là ngự y của vua Macedonia nên từ nhỏ, Aristotle đã
được học về thiên nhiên và sinh vật qua quan sát cũng như qua các tài liệu y học của
phụ thân.
Mười bảy tuổi, Aristotle tới Athens du học, đúng vào thời điểm Athens vừa được
hồi sinh sau cuộc chiến với Sparta và mau chóng trở thành trung tâm văn hóa của
toàn khu vực nói tiếng Hy Lạp. Năm 367 trước TL, Aristotle vào học Trường
Academos của Platong. Aristotle được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và
xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Aristotle theo học tại
Học Viện dưới sự hướng dẫn của Platong trong suốt 20 năm và nghiên cứu đủ mọi
ngành học thuật từ toán học, văn học, sinh vật học cho đến triết học. Có thể nói
Aristotle không chỉ là một sinh viên mà đã trở thành trợ giáo của Platong tại Học
Viện. Năm 347, Platong qua đời ở tuổi 80, Aristotle viết một bài điếu văn trong đó
ông đã ca tụng Thầy.
Vào năm 347 sau khi Platong qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu
trường Academos. Aristotle đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Plato,
rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Plato và cũng là
Trang 2
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á (Asia Minor). Aristotle
có cảm tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, người con gái nuôi
của bạo chúa. Tại triều đình của Hermias, Aristotle có dịp được quan sát tận mắt chế
độ quân chủ và rút ra được nhiều bài học từ những điều nghe thấy; đồng thời cũng
học được những nguyên tắc về thương mại, và ngân hàng từ thị quốc này.
Năm 342, ông được vua Philip xứ Macedonia mời làm gia sư cho hoàng tử
Alexander, người về sau trở thành Ðại đế. Aristotle đã ở lại Macedonia trong 7 năm.
Theo như thông lệ, nhà Đại Hiền Triết đã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ
Pháp, và Aristotle cũng soạn một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander.
Aristotle đã cố gắng làm phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà
đối với ông, rất cần thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristotle đã
soạn ra cuốn “Khảo Sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái
Tử nhưng tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn. Khi Alexander lên làm vua và bắt
đầu chinh chiến, Aristotle còn ở lại Macedonia thêm một thời gian nữa trước khi về
lại trung tâm văn hóa và học thuật của Hy Lạp.
Năm 325, Aristotle quay lại Athens, mở trường Lyceum. Ðược Alexander Ðại đế
hỗ trợ, ông lập thảo cầm viên đầu tiên của loài người để làm cơ sở học hỏi. Nền giáo
dục do Aristotle chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai
(exoteric) (phổ biến ra bên ngoài). Nhà Đại Hiền Triết đề cập tới các câu hỏi hoàn
toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristotle giảng
dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức. Trong 12 năm liền,
Aristotle vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu
hết kiến thức của thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristotle đã
thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của
thành Athens mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng
của các vở kịch Hy Lạp. Tại trường Lyceum, Aristotle nhấn cực kỳ mạnh lên sự
Trang 3
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
quan sát trực tiếp thiên nhiên và ông giảng dạy rằng, trong khoa học, lý thuyết phải
đi đôi với thực tế. Ông đánh giá triết học là môn học thể hiện sự suy xét sâu sắc và
thận trọng các nguyên lý đệ nhất có tính hiển nhiên và bất biến, hình thành toàn bộ
tri thức. Ðối với Aristotle, ‘luận lý học là khí cụ cơ bản cho mọi thẩm tra, và tam
đoạn luận là chuỗi lập luận mà hết thảy các tư tưởng dựa trên lý tính phải đi theo’.
Ông đưa khái niệm phạm trù vào sử dụng trong luận lý học, qua đó, ông dạy rằng
thực tại có thể được xếp loại theo vài phạm trù như bản thể (phạm trù đệ nhất),
phẩm tính, lượng tính, tương quan, sự ấn định cụ thể trong thời gian và không gian,
hành động, đam mê hoặc thụ động, vai trò và hoàn cảnh
Sau khi Ðại đế Alexander chết sớm (323 TCN), tại Athens nổi lên phong trào bài
xích người Macedonia. Aristotle bị kết tội không sùng bái thần linh. Có lẽ cảm thấy
mình sẽ chung số phận với thái sư phụ Socrates, ông bỏ trốn tới Chalcis ở Enbea.
Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristotle qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh đau dạ
dầy, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường. Ông để lại hai người
con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ
Pithias. Theo như lời yêu cầu, nắm xương tàn của nhà Đại Hiền Triết được chôn cất
tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông.
2. Các quan niệm triết học của Aristotle:
- Thuyết nguyên nhân – cơ sở của Siêu hình học
Aristotle cho rằng tồn tại phải xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ bản: vật chất,
hình thức, vận động và mục đích, trong đó hình thức và vật chất giữ vai trò quan
trọng nhất. Hình thức có vai trò quyết định hơn vật chất, bởi vì theo ông không có
hình thức thì vật chất chỉ là khả năng thụ động chứ không phải hiện thực. Hình thức
là thực chất của tồn tại, là bản chất tích cực của sự vật, nó chứa trong mình vận động
và mục đích
- Thuyết vận động – cơ sở của Vật lý học:
Trang 4
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
Aristotle cho rằng, giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có
liên hệ với nhau và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Vận động không thể bị
tiêu diệt và cũng không thể tách ra khỏi sự vật, quá trình tự nhiên. Có sáu hình thức
vận động là: phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí.
Aristotle cho rằng vũ trụ là hữu hạn, liên tục và khép kín trong không gian nhưng
vĩnh viễn về thời gian
- Quan niệm về sinh thể, con người và linh hồn:
Aristotle phủ nhận quan điểm của Platon cho rằng thể xác là nơi trú ngụ tạm thời
của linh hồn bất tử, Aristotle cho rằng sinh thể và con người được cấu thành từ thể
xác và linh hồn. Không có linh hồn bất tử, không có linh hồn trong cơ thể chết và
cũng không có linh hồn nằm bên ngoài thể xác vật chất. Trong thể xác con người có
đủ 3 loại linh hồn: linh hồn thực vật ( thực hiện chức năng nuôi dưỡng và sinh sản,
linh hồn động vật ( thực hiện chức năng cảm ứng với môi trường xung quanh) và
linh hồn lý tính ( thực hiện chức năng hoạt động nhận thức) , khi con người chết đi,
linh hồn thực vật và linh hồn động vật mất đi cùng với sự tan rã của thể xác nhưng
linh hồn lý tính chứa tri thức vẫn tồn tại bất diệt. Theo ông, con người là một sinh
thể có lý trí.
- Quan niệm về nhận thức:
Aristotle cho rằng bản chất con người là khát vọng hướng đến tri thức, con người
sinh ra để nhận thức, kẻ nào không nhận thức kẻ đó không là con người. Nhận thức
là một quá trình xuất phát từ thực tại khách quan trải qua giai đoạn cảm giác, biểu
tượng để đến tư duy, lý luận. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
bên ngoài vào bên trong linh hồn, là ghi chép lên linh hồn những dòng chữ tri thức.
Nhiệm vụ của khoa học là khám phá ra cái phổ biến - tất yếu ( cái bản chất, cái quy
luật ) trong các sự vật, hiện tượng riêng lẻ nhằm tích lũy tri thức…
- Quan niệm về đạo đức:
Aristotle coi đạo đức học là sự mở rộng nhận thức vào lĩnh vực hành vi con
người, ông phủ nhận quan niệm của Platon coi hạnh phúc của con người gắn liền với
Trang 5
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
thế giới ý niệm, Aristotle cho rằng: ngu dốt, sai lầm là nguồn gốc của cái ác, lý trí và
lẽ phải đời thường là cơ sở điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh của con người.
Ðạo đức học Aristotle hoàn toàn phản ánh siêu hình học Aristotle. Theo bước Plato,
ông lập luận rằng cái thiện và đức hạnh của vật nằm trong cách thể hiện bản tính
chuyên biệt của nó. Ðối với con người, cái thiện tối thượng là thực hiện thường
xuyên và đầy đủ chức năng làm người, đặc trưng con người, cái hợp lẽ với nó. Theo
Aristotle, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong thế giới ý
niệm trên trời mà nằm trong thế giới hiện thực dưới đất, nơi trần gian; đồng thời
chúng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng người trong cộng đồng
xã hội. Aristote cho rằng, hạnh phúc là hoạt động của tâm hồn y theo đức hạnh.
Hạnh phúc là nhu cầu thường xuyên của đời sống con người. Người ta mong đợi
hạnh phúc, đấu tranh cho hạnh phúc: hạnh phúc là mục đích thường xuyên của con
người.
- Quan niệm về chính trị - xã hội
Aristotle coi chính trị học là sự khai triển đạo đức học vào trong đời sống xã hội.
Theo Aristotle, con người không chỉ là sinh thể biết nhận thức, biết sống có đạo đức
mà còn là một động vật chính trị. Con người không thể sống ngoài cộng đồng, bên
ngoài sự giao tiếp. Con người, về bản chất, phải thuộc về nhà nước. Theo ông, chính
quyền không nên thuộc về người giàu mà cũng chẳng nên rơi vào tay người nghèo,
chính quyền nên thuộc về tầng lớp chủ nô trung lưu. Theo ông, công bằng trong trao
đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội và bình đẳng giữa các cá nhân trong
công đồng. Aristotle đòi hỏi phải quan tâm đến lao động và phân công lao động.
Aristotle lập luận rằng "nhà nước, hay cộng đồng chính trị là cái tốt cao nhất" và lý
do để nhà nước hiện hữu là để giúp cho công dân sống một đời sống "tốt." Do đó,
việc giáo dục công dân trở thành những người dân đạo đức là điều tối quan trọng.
Khi một nước có được những người dân vừa học thức lại vừa đức hạnh, dĩ nhiên đất
nước đó phải trở nên tốt hơn
Trang 6
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
CHƯƠNG II: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CHÍNH CỦA TRIẾT HỌC
ARISTOTLE ĐỐI VỚI XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
1. Phê phán thuyết ý niệm của Platong, mở ra một tư tưởng mới về triết học
duy vật:
Tuy là học trò của Platong nhưng Aristotle lại có những tư tưởng trái ngược với
người thầy của mình, ông đã chỉ ra sai lầm của Platong là ở chổ Platong đã tách rời
bản chất khỏi cái có bản chất đó, và biến ngay cái chung (khái niệm) thành cái riêng
bên cạnh thế giới cảm tính, quyết định thế giới cảm tính. Nghĩa là, Platong đã biến
những khái niệm được hình thành trong quá trình nhận thức thành một thế giới riêng
biệt, siêu cảm giác, tồn tại một cách độc lập đối với những sự vật được phản ánh.
Như vậy thì, một là, thế giới của các ý niệm (khái niệm) là tồn tại tối cao, còn thế
giới các sự vật cảm tính chỉ là một tồn tại cấp thấp. Hai là, nếu thế giới các ý niệm
độc lập và tách rời thế giới các sự vật cảm tính, thì các khái niệm, phạm trù chẳng có
vai trò gì đối với nhận thức cả. Ba là, nếu cho rằng thế giới của các ý niệm là độc
lập đối với các sự vật, nhưng các sự vật lại là cái bóng, là bản sao của ý niệm, thì rõ
ràng là tự mâu thuẫn với mình, vì như thế là chúng có chỗ tương đồng. Sự phê phán
trên đây của Aristotle đối với thuyết ý niệm của Platong đã vạch ra một cách tài tình
căn nguyên nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm nói chung. Theo Aristotle, bản
chất tồn tại (chứa đựng) ngay trong bản thân sự vật. Những bản chất này được nhận
thức của con người khái quát thành những cái chung, cái phổ biến dưới dạng, các
khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Vì vậy, không phải khái niệm phạm trù, quy
luật là cái có trước, sinh ra sự tồn tại của sự vật, mà ngược lại. Trong tác phẩm "Các
phạm trù", Aristotle khẳng định: "Khái niệm không bao giờ lại là nguyên nhân của
sự tồn tại của sự vật, mà sự vật, có thể gọi là nguyên nhân chân chính của khái
niệm". Quan niệm đó được Lênin đánh giá là đã tiến sát đến chủ nghĩa duy vật.
Trên cơ sở phê phán học thuyết ý niệm của Platong, Aristotle đã xây dựng hệ
thống triết học riêng của mình, ông thừa nhận giới tự nhiên tồn tại một cách khách
quan với những sự vật hết sức đa dạng. Vật lý học nghiên cứu các dạng tồn tại cụ
Trang 7
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
thể của nó; ông coi đây cũng là triết học, nhưng là "triết học thứ hai". Siêu hình học
nghiên cứu bản chất của tồn tại nói chung và được ông coi là "triết học thứ nhất".
Khi giải thích về bản chất của tồn tại, của sự vật, ông thường đặt các câu hỏi (vì sao,
vì cái gì) để giải thích nguyên nhân tồn tại của chúng. Từ đó ông đưa ra 4 nguyên
nhân của tồn tại nói chung: Nguyên nhân vật chất, nguyên nhân hình dạng, nguyên
nhân vận động, nguyên nhân mục đích. Ví dụ, cái nhà mà có được, là nhờ vật liệu
(vật chất), hình thức của nó (hình dạng), hoạt động của thợ (vận động), nhà để ở
(mục đích). Trong những nguyên nhân ấy, nguyên nhân thứ nhất và thứ hai là cơ
bản, trong đó, nguyên nhân hình dạng là cái quyết định, là cái bản chất của sự vật.
Ví dụ, bức tượng bằng đồng, cái chén bằng bạc. Đồng và bạc chỉ là vật liệu tham gia
vào sự vật, còn cái quyết định là hình dạng. Sở dĩ nó là bức tượng, cái chén, vì nó có
hình dáng bức tượng, hình dáng cái chén. Nếu ta đem đồng và bạc làm cái khác thì
nó không còn là bức tượng, cái chén nữa. Và theo ông, hình thức của mọi hình thức
là tư duy, là lý tính, sự suy nghĩ, là thượng đế. Quan niệm trên đây của Aristotle cho
thấy ông đã dao động, do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, hoà nhập
vào thần học, trở lại gần gũi với Platong, thầy học của ông.
Về vấn đề linh hồn, Aristotle cho rằng con người có phần linh hồn và phần thể
xác, tựa như mỗi sự vật đều được hình thành từ vật chất và hình thức. Ông phê phán
Platong xem “thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử ". Theo ông,
linh hồn không có trong cơ thể chết; không thể có linh hồn nếu không có vật chất.
Nhưng ông lại chia linh hồn làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi dưỡng
và sinh sản; linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh;
linh hồn con người có hoạt động lý tính, đây là loại linh hồn cao nhất. Trong con
người có cả ba loại linh hồn nói trên. Khi người ta chết, riêng linh hồn lý tính còn
tồn tại bất diệt. Quan niệm về linh hồn như trên chứng tỏ rằng Aristotle là nhà triết
học không triệt để, vừa phê phán Platong, vừa kế thừa quan điểm duy tâm của
Platong
Trang 8
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
2. Tác phẩm “Chính trị luận” đã đặt nền tảng căn bản cho Chính trị học Tây
phương và ảnh hưởng sâu rộng đến các tư tưởng gia đời sau
Aristotle viết Chính Trị Luận năm 350 trước Thiên Chúa giáng sinh. Trong
Chính Trị Luận, Aristotle dùng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ đơn vị xã hội
nhỏ nhất là gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia, để tìm ra những đặc tính
thiết yếu mà nhà nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng. Ngoài phương
pháp quy nạp, Aristotle cũng dùng phương pháp so sánh giữa mô hình nhà nước "lý
tưởng" và mô hình nhà nước trong thực tế và đưa ra những nguyên lý xây dựng một
nền chính trị mang lại "điều tốt nhất" cho con người.
Chính Trị Luận có 8 quyển.
Quyển I mang tựa đề "Lý thuyết về Gia đình," gồm 13 chương. Aristotle mở đầu
Chương 1 bằng nhận xét bất hủ: "mỗi một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới
một cái tốt nào đó; vì hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó
nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất cả các cộng đồng đều nhắm đến một cái tốt, thì nhà nước
hay cộng đồng chính trị - cộng đồng cao nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng phải
nhắm tới cái tốt cao cả hơn mọi cái tốt khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất."
Trong Quyển I, Aristotle dùng phương pháp luận lý phân tích và truy nguyên các
hình thức quần tụ của con người từ đơn vị nhỏ nhất là gia đình, đến làng mạc, rồi
đến quốc gia. Trong Chương 12, Q. I, Aristotle luận về vai trò phụ nữ trong hộ gia
đình. Dĩ nhiên, những nhận định này cũng tương tự như quan niệm về nô lệ, nay đã
lỗi thời nhưng có lý trong bối cảnh xã hộ đương thời. Aristotle quan niệm: "người
nam do bản chất tự nhiên, ngoại trừ trường hợp bị tật bẩm sinh, thích hợp với vai trò
chỉ huy hơn là người nữ; cũng tương tự như với tuổi tác và sự chín chắn thích hợp
với vai trò chỉ huy hơn tuổi trẻ thiếu khôn ngoan." Aristotle không nói "chỉ huy" cái
gì, nhưng nhận định thêm rằng vai trò người chồng đối với vợ cũng giống như vai
trò của nhà lãnh đạo chính trị đối với các công dân, và vai trò của người cha đối với
con cái cũng giống như của nhà vua đối với thần dân. Quan niệm của Aristotle về
phụ nữ cũng là quan niệm của Tây phương về vai trò phụ nữ là lo việc quản trị gia
Trang 9
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
đình. Ngay cả Thánh kinh của Ki tô giáo cũng quan niệm tương tự như vậy. Về
phương diện chính trị, trong thời đại "văn minh" của chúng ta, phụ nữ cũng chỉ mới
có quyền đầu phiếu từ năm 1893 tại New Zealand, và tại Mỹ từ năm 1920.
Quyển II gồm 12 chương. Trong phần đầu của Quyển II từ Chương 1 đến 8,
Aristotle bàn về các nhà nước lý tưởng trên lý thuyết. Trong các chương 9-12,
Aristotle nhận diện các nhà nước mà theo ông đã tiến đến gần lý tưởng như Sparta,
Crete, và Carthage cùng với những khuyết điểm sâu sắc mà các nhà nước này mắc
phải và đã đưa đến sự suy vong sau này.
Quyển III gồm 18 chương và chủ đề của Quyển III là khảo sát về bản chất công
dân và các mô hình hiến pháp. Nhân loại vốn không hoàn mỹ lại còn có nhiều
khuyết điểm cho nên quốc gia không thể kiếm được người hoàn toàn tài đức để đưa
vào vai trò lãnh đạo. Thực tế này được các chế độ độc tài chuyên chế trong quá khứ
và hiện tại chứng minh qua tình trạng thiếu công lý cũng như các chính sách nhằm
bảo vệ quyền lợi riêng tư của giai cấp lãnh đạo thay vì để chăm lo cho quyền lợi
quốc gia. Ðối diện với tình trạng này, Aristotle suy luận rằng mỗi công dân đều có
quyền lãnh đạo quốc gia nhưng không ai có thể chiếm được ngôi vị tối thượng trong
quốc gia. Ngôi vị tối thượng trong quốc gia phải được giành cho luật pháp. Luật
pháp phải được áp dụng một cách không thiên vị để tránh sự kỳ thị hay xu nịnh. Tuy
nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, Aristotle đề nghị là những sắc luật đặc biệt
(psephisma) nên được ban hành để giữ được đức tính công bình của xã hội và tránh
được sự hà khắc của luật pháp. Sau các sắc luật đặc biệt, phương pháp điều đình nên
được sử dụng dựa trên căn bản quyền lợi công lý. (Aristotle đã dự đoán chính xác về
kết quả hà khắc thiếu công minh của luật pháp. Một người không biết đọc hay viết
có thể bị chủ nợ gài bẩy bắt ký nhượng toàn bộ tài sản nếu không thể trả một món
nợ rất nhỏ đúng hẹn. Luật pháp vốn mù lòa cho nên có thể khiến con nợ bị tan gia
bại sản bởi vì mảnh giấy giao kèo thiếu công bằng này. Tại nhiều quốc gia pháp trị
hiện nay, các quan tòa phải dùng nguyên tắc công bằng (equity) để bảo vệ những
công dân yếu thế.)
Trang 10
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
Quyển IV gồm 16 chương. Trong Quyển IV, Aristotle luận về các mô hình hiến
pháp (chế độ) và các dạng khác nhau của từng mô hình trong thực tế. Aristotle chú
trọng vào vai trò của hiến pháp và chính thể pháp trị. Hiến pháp là bộ luật căn bản
quy định sự phân quyền và tưởng thưởng trong một quốc gia. Sự thành công của
một quốc gia lệ thuộc vào khả năng phân chia quyền lợi đồng đều trong xã hội.
Quốc gia sẽ đạt được công lý nếu sự tưởng thưởng được chia sẻ và quyền lực chính
trị được sử dụng trên căn bản đóng góp cho sự ích lợi của xã hội.
Trong các chương còn lại, Aristotle cũng đề nghị là dạy cho trẻ em phát triển thể
chất trước khi phát triển tinh thần. Cho nên, trẻ em nên được tập thể dục trước, vì
huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ em phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác, rồi
đến âm nhạc, sau rốt mới đến các môn học về tri thức.
Aristotle mở đầu Chính Trị Luận bằng lập luận rằng "nhà nước, hay cộng đồng
chính trị là cái tốt cao nhất" và lý do để nhà nước hiện hữu là để giúp cho công dân
sống một đời sống "tốt." Do đó, việc giáo dục công dân trở thành những người dân
đạo đức là điều tối quan trọng. Khi một nước có được những người dân vừa học
thức lại vừa đức hạnh, dĩ nhiên đất nước đó phải trở nên tốt hơn. Đó cũng là kết luận
tự nhiên khi Aristotle chấm dứt Chính Trị Luận bằng chương luận về giáo dục.
Mặc dù đã trên hai ngàn năm, với một số nhận định về nô lệ và phụ nữ đã không
còn hợp thời nữa, nhưng Chính Trị Luận vẫn là một kiệt tác nêu lên những câu hỏi
căn bản của đời sống chính trị "lý tưởng" của mọi quốc gia, và là một trong những
tác phẩm kinh điển của khoa Chính trị học Tây phương.
3. Triết học Aristote làm căn bản cho các tư tưởng Thiên chúa giáo đời đó
Theo quan niệm của Aristotle, thì quyền lực của Thiên chúa được thể hiện trong
các hiện tượng thiên nhiên. Aristotle quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ
Trang 11
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
quan niệm cử động trong vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi
mãi, nguyên do sự cử động ấy là ở đâu? Aristotle cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên
chúa, đó là vị chúa tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu
tố nhỏ hơn được xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này
không có hình thể, không thể phân chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt.
Theo Aristotle thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động.
Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn
thể những diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có
thể so sánh được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.
Aristotle còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài
không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động.
Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì không ước muốn
nên không bao giờ ngài hành động. Những tư tưởng của Aritotle ban đầu bị giáo hội
phản đối kịch liệt, nhưng sau đó những tư tưởng này đã thánh Thomas dựa trên nó
để xây dựng thành một tư tưởng Thiên chúa giáo có ảnh hưởng rất lớn vào thời đó
4. Ảnh hưởng của Aristotle trong lĩnh vực khoa học tự nhiên:
Theo Aristotle, toàn bộ vật chất trong vũ trụ được tạo thành từ 4 yếu tố ban đầu:
đất, nước, lửa, không khí, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Các yếu tố này được tác động
bởi hai lực: lực hấp dẫn có xu hướng làm chìm xuống đối với đất và nước, lực nâng
có xu hướng làm nâng lên đối với không khí và lửa. Trong nước, nếu nóng thắng
lạnh thì nước trở thành hơi nước, nếu khô thắng ẩm thì nước trở thành nước đá. Bốn
tính chất này luôn đấu tranh với nhau tạo ra sự chuyển hóa các yếu tố và mọi hiện
tượng trong thiên nhiên. Mỗi yếu tố đều có vị trí tự nhiên của nó trong thế giới. Vị
trí tự nhiên của đất là địa cầu, là trung tâm bất động của thế giới. Vị trí tự nhiên của
nước là phần khối cầu bọc ngoài địa cầu. trí tự nhiên của không khí và lửa là 2 phần
khối cầu bọc ngoài nữa. Mặt cầu ngoài cùng là giới hạn vị trí của lửa, có gắn các sao
bất động, đó là giới hạn của thế giới. Mỗi yếu tố khi bị cưỡng đưa ra khỏi vị trí tự
Trang 12
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
nhiên của nó đều có xu hướng trở về vị trí ban đầu của nó. Đó là nguyên nhân gây ra
chuyển động tự nhiên. Hòn đá rơi từ trên cao xuống hay ngọn lửa bốc lên cao đều là
những chuyển động tự nhiên đưa chúng về vị trí tự nhiên. Một hòn đá lên cao là
chuyển động cưỡng bức, nhưng cuối cùng nó cũng tìm về chuyển động tự nhiên để
rơi xuống.
Vũ trụ bên ngoài Mặt trăng được bao trùm bởi ete (ether), được đặc trưng bằng
chuyển động tròn, lấy Trái đất làm tâm, Aristotle đã đặt nền móng cho thuyết vũ trụ
địa tâm.
Hệ thống triết học tự nhiên của Aristotle đã đề cập đến nhiều vấn đề thực tế hơn,
dẫn đến nhiều kết luận phù hợp với thực tại xung quanh. Do đo, nó ảnh hưởng trực
tiếp hơn đến khoa học tự nhiên. Tư tưởng của ông vừa có yếu tố duy vật, vừa có yếu
tố duy tâm nhưng sau này giáo hội đã tướng bỏ yếu tố duy vật đồng thời tuyệt đối
hóa yếu tố duy tâm, biến chúng thành những giáo lý chính thống để giảng dạy chính
thức trong nhà thờ và trường học, nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích tôn giáo. Vì
vậy, cuộc đấu tranh chống những giáo điều đó đã trở thành cuộc đấu tranh chính trị
hết sức khốc liệt
5. Những cống hiến của Aristotle trong lĩnh vực sinh vật học:
Ở lĩnh vực sinh học, Aristotle đã trình bày những kiến thức sinh học vô cùng cụ
thể và chi tiết. Đã có đến 50 loài động vật được Aristotle trình bày cấu tạo giải phẫu
tương đối cụ thể và chính xác. Giới động vật được Aristotle chia làm 2 nhóm: không
có lông và có lông hoặc không có máu và có máu. Ông cũng bước đầu xây dựng
được các khoa phân loại động vật tương đối hợp lý dựa trên hình thái ngoài, cấu tạo
trong, nơi cư trú, tập tính sinh hoạt của chúng. Theo Aristotle, sinh vật thấp nhất là
thực vật, cao nhất là thú và đặc biệt là con người. Ông quan niệm, loài động vật tạo
thành thang độ từ đơn giản (côn trùng và sâu bọ ở dưới cùng ) đến phức tạp ( con
người ở trên cùng ), nhưng sự tiến hóa không thể xảy ra. Những tư tưởng của
Aristotle là rất tiến bộ, tuy còn nhiều điểm chưa chính xác nhưng những tư tưởng về
động vật học của ông đã mở ra một sự hiểu biết mới cho con người về thế giới sinh
Trang 13
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
vật, do đó nó đã được giảng dạy ở rất nhiều trường đại học cho đến khi Thuyết tiến
hóa của nhà khoa học người Anh Charles Darwin ra đời vào thế kỷ thứ 19.
6. Ảnh hưởng của Aristotle trong lĩnh vực nghệ thuật:
Aristotle cho rằng, nghệ thuật là sự “mô phỏng” của hiện thực. Trước tiên, ông
khẳng định tính chân thực của thế giới hiện thực, từ đó cũng khẳng định tính chân
thực của nghệ thuật “mô phỏng” hiện thực. Đồng thời, Aristote đi xa hơn cho rằng
chức năng “mô phỏng” của nghệ thuật khiến nó hiện thực thế giới được nó “mô
phỏng” càng trở nên chân thực. Ông nhấn mạnh, cái mà nghệ thuật mô phỏng không
chỉ là vẻ bề ngoài hoặc hiện tượng của thế giới hiện thực, mà là bản chất, quy luật
bên trong của thế giới hiện thực. Từ đó, ông cho rằng nhà thơ và họa sĩ khong nên
“mô phỏng y nguyên dáng vẻ vốn có của sự vật” mà nên “mô phỏng cái dáng vẻ cần
có của sự vật”, cũng có nghĩa là vẫn nên biểu hiện đặc trưng, bản chất của sự vật.
Thuyết “mô phỏng” của Aristote có ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn nghệ thuật, từ
thời trung đại, thời văn nghệ phục hưng, đến thế kỉ 17,18 luôn là sự ngưỡng vọng
của rất nhiều nhà mĩ học, nhà nghệ thuật châu Âu.
Trang 14
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
KẾT LUẬN
Aristotle là nhà triết học, tự nhiên học danh tiếng nhất của nền văn minh Hy Lạp
cổ. Ông là người đã tạo lập nên một chuỗi hệ thống nghiên cứu khoa học đồ sộ gồm
nhiều ngành khác nhau. Ông đã tổng kết từ đa phương diện mọi thành quả của các
môn khoa học cổ Hy Lạp để chính thức đưa nền khoa học cổ Hy Lạp thoát khỏi
trạng thái sơ khai. Sau Aristotle vài trăm năm, không có bất kỳ ai nắm vững các
ngành khoa học một cách toàn diện như ông. Bên cạnh những tri thức khoa học
đúng đắn mà Aristotle đem đến cho loài người không thể tránh khỏi những sai lầm
do hạn chế của thời đại. Một số ý tưởng của ông phản lại những tiêu chuẩn đạo đức
ngày nay như, ví dụ ông tin vào sự kém cỏi của phụ nữ hay ông ủng hộ chế độ nô lệ.
Thời gian và lịch sử đã sàng lọc tất cả các đóng góp của Aristotle đối với nhân loại
và vẫn luôn cúi đầu kính phục trước ông. Những quan điểm của ông đã có ảnh
hưởng vô cùng to lớn đến xã hội phương Tây. Ngay từ thời Trung Cổ các học giả Ả
rập đã tìm lại các tác phẩm của ông và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau như :
Latinh, Italia, Pháp, Đức,… Ngay cả người thầy Platong của ông cũng đã tự hào gọi
ông là “bậc tinh anh của trường”. Còn với chúng ta, những người hậu thế, xin được
tôn vinh ông là bậc tinh anh của nhân loại mọi thời đại.
Trang 15
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (2012), Giáo trình Triết học - phần 1: Đại
cương về lịch sử Triết học, Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Kinh tế
TPHCM
2. Rupert Woodfin – Judy Groves (2006), Nhập môn Aristotle,
NXB Trẻ
3. GS.TS Shin Ji Hyon, Aristotle - Những câu chuyện thú vị, NXB
Giáo dục
4. David Bradshaw (2004), Aristotle East and West: Metaphysics
and the Division of Christendom, Cambridge University Press
5. Tài liệu từ Internet:
- />-
- https:// daichungvienvinhthanh.com
- https:// hoa-hao.com/kktd/chinh_tri/Aristotles.html
- />Trang 16
HVTH: Nguyễn Thị Thu Hương
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ARISTOTLE VÀ CÁC QUAN NIỆM TRIẾT
HỌC CỦA ÔNG 2
1. Giới thiệu về Aristotle 2
2. Các quan niệm triết học của Aristotle 4
CHƯƠNG II: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CHÍNH CỦA TRIẾT HỌC ARISTOTLE
ĐỐI VỚI XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY 7
1. Phê phán thuyết ý niệm của Platong, mở ra một tư tưởng mới về triết học duy
vật 7
2. Tác phẩm “Chính trị luận” đã đặt nền tảng căn bản cho Chính trị học Tây
phương và ảnh hưởng sâu rộng đến các tư tưởng gia đời sau 9
3. Triết học Aristote làm căn bản cho các tư tưởng Thiên chúa giáo đời đó 11
4. Ảnh hưởng của Aristotle trong lĩnh vực khoa học tự nhiên 12
5. Những cống hiến của Aristotle trong lĩnh vực sinh vật học 13
6. Ảnh hưởng của Aristotle trong lĩnh vực nghệ thuật 14
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
Trang 17