Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.11 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA
NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
HVTH : HỨA NGỌC LỢI
Số thứ tự : 32
Nhóm : 04
Lớp : Ngày 4
Khóa : K22
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2012
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
KẾT LUẬN 14
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học cổ điển Đức đã sản sinh ra nhiều nhà triết gia lớn của nhân
loại như Immanuel Căntơ, Giôhan Gốtliếp Phíchtơ, Phrieđrích Vinhem Giôdép
Senlinh, Phrieđrích Hêghen, Lútvích Phơiơbác… Trong đó nổi bật nhất đó là những
tư tưởng triết học của Hêghen. Ông là người đầu tiên đã tổng kết toàn bộ lịch sử nhận
thức, tìm ra nguyên lý cơ bản của tư duy biện chứng và xây dựng một cách có hệ
thống các quy luật của phép biện chứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm.
Tuy phép biện chứng duy tâm Hêghen đã mắc phải sai lầm khi dựa vào quan
điểm duy tâm khi giải quyết các vấn đề về mối quan hệ giữa con người với thế giới,
giữa tinh thần và vật chất, và coi ý niệm tuyệt đối, yếu tố thần linh là trên hết nhưng
nó lại là nền tảng cơ bản nhất để C.Mác và Ăng-Ghen cho ra đời hệ thống triết học
phép biện chứng duy vật lịch sử. C.Mác đã từng viết “ Tính chất thần bí mà phép
biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận


động chung của phép biện chứng ấy, ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu
xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở
đằng sau lớp vỏ thần bí ”.
Đề tài tiểu luận triết học “ Phép biện chứng duy tâm Hêghen và vai trò của
nó đối với sự ra đời của triết học Mác ” sẽ trình bày về những nội dung cơ bản của
hệ thống triết học Hêghen từ đó sẽ đánh giá vai trò của nó đối với sự hình thành phép
biện chứng duy vật lịch sử của C.Mác
I. Bối cảnh ra đời triết học Hêghen
1.1 Điều kiện kinh tế- xã hội và khoa học của nước Đức cuối thế kỷ XVIII đến
đầu thế kỷ XIX
Cuối
thế
kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX nước Đức vẫn còn là một quốc
gia phong kiến điển hình với 360
tiểu
vương quốc tự lập trong một liên bang Đức
chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và
chính
trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp,
nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này vương triều
Phổ
Phriđrich Vin Hem vẫn tăng
cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước
phát
triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình
của
đông đảo
quần
chúng.

Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh
tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã
hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức lúc này tỏ ra hèn kém, những lực lượng tiến
bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu
kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực
tiễn mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với
tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, giai
cấp tư sản Đức phải tìm cách nào đó để thể hiện tinh thần đó và đã gửi gắm vào
trong triết học cổ điển Đức.
1.2 Đặc điểm triết học cổ điển Đức
- Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức
của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học
của Cantơ và Hêghen.
- Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể
hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ
thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của
của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế
giới.
- Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng
phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư
duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả
thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của
Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa
cách mạng trong triết học.
- Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây
dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan
của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong

học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như:
khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
1.3 Tiểu sử nhà triết học Hêghen
HÊGHEN G.V.F : (Georg Wilhelm Friedrich Hegel; 1770 - 1831), nhà triết
học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng
nên phép biện chứng duy tâm. Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy
tâm Đức cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XXI. Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn
bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách
quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế
giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và
loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân, qua ba
giai đoạn:
1) Giai đoạn phát triển trong "nguyên chất" thuần khiết của nó khi chưa có thế
giới: nội dung của "ý niệm tuyệt đối" thể hiện trong hệ thống các phạm trù lôgic
có liên quan với nhau và chuyển hoá lẫn nhau (lôgic học).
2) Dưới dạng tồn tại khác, khi chuyển thành giới tự nhiên (triết học tự nhiên).
3) "Ý niệm tuyệt đối" phủ định giới tự nhiên, trở về với bản thân, nó tiếp tục biến
hoá, nhận thức nội dung của mình dưới các hình thức ý thức và đạt tới nhận thức
cao nhất qua tôn giáo, nghệ thuật, triết học (triết học tinh thần).
Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép biện chứng. Ở Hêghen, phép
biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen vẫn là "người đầu tiên trình bày một
cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng"
(Mac). Hêghen có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức, trong
cuộc đấu tranh chống "thuyết không thể biết" (bất khả tri luận). Hệ thống duy tâm,
bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp
biện chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị phản động
của Hêghen, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình trạng
mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với các thế lực
phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân chủ
phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội. Triết học Hêghen là một

trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp của chủ nghĩa Mac. Các tác phẩm chủ yếu:
"Hiện tượng học tinh thần" (1807), "Khoa học lôgic" (1812 - 16), "Bách khoa thư về
khoa học triết học" (1817, 1830), "Những nguyên lí triết học của pháp luật" (1821),
những bài giảng về triết học lịch sử, về mĩ học, về triết học tôn giáo, về lịch sử triết
học được xuất bản sau khi Hêghen mất.
II. Phép biện chứng duy tâm Hêghen
 Hiện tượng luận tinh thần
Hêghen thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chính là nền tảng
của hiện thực, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là Đấng
tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Ý niệm tuyệt đối phát
triển theo tam đoạn thức: “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh
và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh thần, giữa khách thể và chủ thể…
trong ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý thức con người là sản phẩm của lịch sử nhân
loại; còn lịch sử nhân loại là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của ý niệm
tuyệt đối trên trần gian. Trong Hiện tượng luận tinh thần, Hêghen cũng cho rằng triết
học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn
năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Mỗi hệ
thống triết học của một thời đại đều là sự chắt lọc, kết tinh toàn bộ tư tưởng triết học
trước đó. Do đó, triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau để bao quát toàn bộ
lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối.
 Khoa học lôgích
Khoa học lôgích là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen, vì nó
nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và
nền tảng của toàn bộ hệ thống. Cũng như các nhà lôgích truyền thống, Hêghen coi
lôgích là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Tư duy với
tư cách là đối tượng của khoa học lôgích được Hêghen hiểu là tư tưởng thuần túy, là
tinh thần tuyệt đối. Hêghen phân biệt hai dạng tư duy: tư duy tự nó - chính là tinh
thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; tư duy cho nó - tức tư duy
con người, là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, là giai đoạn tư duy có ý
thức

Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgích học cũng như hệ thống của Hêghen là “
cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”. Nhiệm vụ của khoa học
lôgích là đào thải những hình thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản chất đích
thực của tư duy sống động, đồng thời vũ trang cho con người một phương pháp tư
duy biện chứng nhằm khám phá ra chân lý, đi tới tự do.
Hêghen đưa ra các nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu khoa học lôgích:
tính khách quan, buộc các nhà nghiên cứu không được coi xuất phát điểm một cách
tùy tiện theo ý muốn chủ quan của mình, mà phải tuân theo tính khách quan tùy thuộc
vào từng đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể; đơn giản và trừu tượng nhất: Mọi
quá trình vận động khách quan đều theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn, cho nên điểm khởi đầu phải là cái sơ
khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất; nguyên tắc mâu thuẫn khẳng định
điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát triển thành toàn bộ hệ thống,
tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là mâu thuẫn giữa
tinh thần và vật chất; nguyên tắc thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgích trong việc
xác định điểm khởi đầu: Hêghen coi khoa học lôgích của mình là sự tổng kết toàn bộ
tiến trình phát triển tư tưởng triết học của nhân lịch.
Trong khoa học lôgích, Hêghen hiểu tư duy như một quá trình phát triển biện
chứng thể hiện như sự thống nhất của ba yếu tố sau:
- Thính giác: Đây là tư duy phù hợp với lối suy nghĩ thông thường của mọi
người. Tư duy này con mang nặng tính trực quan, xem xét mọi vật một cách cứng đờ,
tách rời những mắt đối lập mà nhận thấy sự thống nhất giữa chúng.
- Yếu tố biện chứng: Khác với các quan niệm truyền thống coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận, Hêghen hiểu đây là một khoa học về sự phát triển của
các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất của sự vật. Phép biện chứng là
nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực.
Cái biện chứng còn là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính.
- Yếu tố tư biện: thực hiện như sự thống nhất hai yếu tố trên, đồng thời là kết
quả phát triển của chúng, chỉ ơ đây thì phép biện chứng mới đạt đến sự phát triển chín
muồi. Đây là giai đoạn thể hiện bản chất đích thực của mọi cái như sự thống nhất và

đấu tranh của các mặt đối lập. Và ông tự coi triết học của mình tương ứng với giai
đoạn này trong sự phát triển của tư duy nhân loại.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối còn trên thực tế chúng liên hệ hữu
cơ, không tách rời nhau trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái niệm.
Chúng là những yếu tố của phép biện chứng – linh hồn sống của khoa học lôgích.
 Triết học tự nhiên
Theo Hêghen: là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn tại
khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật chất.
Thế giới chúng ta, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể thống nhất trong đó
mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, không ngừng vận động và phát triển.
Triết học tự nhiên của Hêghen gồm ba phần: thế giới cơ học, thế giới vật lý
học, thế giới các cơ thể sinh học. Ông đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít không thể
tách rời giữa vật chất và vận động. Theo ông “không có vận động nào là vận động
thiếu vắng vật chất và cũng không hoàn toàn giống như không có vật chất nào là vật
chất không vận động”. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở quan niệm di dời vị trí trong
không gian, hoặc sự lặp lại tuần hoàn của cái đã có từ trước. Và những phạm trù trên
vẫn bị ông giải thích một cách duy tâm.
 Triết học tinh thần
Triết học tinh thần của Hêghen bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học
thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh thần chủ quan
thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người, sau đó thể hiện trong ý
thức để phân biệt với cơ thể, sau cùng thể hiện trong tri thức – cái tinh thần bắt thế giới
bên ngoài phục tùng nó. Trong khi đó, tinh thần khách quan là sự phủ định biện chứng
của tinh thần chủ quan. Ý niệm tuyệt đối thể hiện trong pháp quyền, thông qua ý chí cá
nhận. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể thì ý niệm tuyệt đối thể hiện trong đạo đức
học. Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong phong hóa, khi ý
niệm tuyệt đối trở thành tự do trong các hình thức sinh hoạt gia đình, xã hội công dân
và nhà nước. Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất giữa tinh thần chủ quan và tinh thần
khách quan. Ý niệm tuyệt đối lần lượt thể hiện và hoàn thiện trong nghệ thuật, tôn giáo,
triết học. Đây chính là các hình thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để khám phá chính

mình, quay về với mình với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ của nó, trong
đó, triết học là quá trình nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối. Ý
niệm tuyệt đối quay về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối.
Triết học tinh thần của Hêghen thực chất bàn về sự phát triển thức cá nhân và
thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ con người. Theo Hêghen, con người vừa là
chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình,
nhận
thức và tư duy của con người
được hình thành trong chừng mực con người
nhận
thức và cải tạo thế giới. Ý thức
của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ
ý
thức mà nhân loại đã trải qua.
Hêghen đã thấy được
vai
trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển của
ý thức. Lao động
đã
giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người đi lên
thẳng đứng,
tách
con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con
người đã tạo
thức
ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động
vào thế
giới
xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận
thức.

Cũng
chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản
thân
mình.
Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ
óc
con
người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới,
không
có ý thức của con người.
Hêghen khẳng định ý thức và tư duy của con người
hình
thành trong chừng
mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ
rằng
đã bắt đầu thấy vai trò
của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý
thức
và tư duy. Từ đó Hêghen
cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới
tự
nhiên, tạo ra giới tự nhiên
thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên.
Theo Hêghen, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế
thừa.
Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ
lịch
sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt
đối. Nó ra đời nhằm duy
trì,

bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước
ra đời từ những mâu
thuẫn
trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp,
đẳng cấp khác nhau. Bản
chất
của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương về
chính trị, văn hóa, pháp
luật…
III. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời triết học
Mác
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là thành tích cao nhất của tư tưởng cận
đại trước Mác. Triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh,
kinh tế học Anh, đó là ba nguồn gốc chính của chủ nghĩa Mác.
Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tăng lên một cách đặc biệt không
phụ thuộc vào bản thân triết học Hêghen. Tuy nhiên chính học thuyết của Hêghen là
thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của
toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêghen lý giải là phương pháp
đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng được
ông nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là phương pháp chưa
từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Trong triết học Hêghen phép biện chứng
biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của lôgíc học của tư duy
lôgíc. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin
vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết quả của sự phát triển hợp quy luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hòa với trật tự
xã hội Phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những kết luận mâu thuẫn và không
nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình Hêghen đã đặt ra một giới hạn
cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố
rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của các

nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêghen. Phù hợp với chúng Hêghen quan niệm
lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất của tự do có
được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong những tiêu
chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội. Đó chính là lý
do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học thuyết Hêghen trở
thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện chứng
của Hêghen vì chính C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép
biện chứng của Hêghen mà còn lấy lại của Heghen phương pháp biện chứng, cải biến
nó từ một phương pháp biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa duy vật. Sở dĩ Mác thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì
trong biện chứng pháp của Heghen đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt
nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn
cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Trong bộ "Tư bản" C.Mác đã
viết: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát
và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêgen phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái
hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Triết học của Hegel vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng,
tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn.
Phương pháp của Hegel phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong
mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách
có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hegel lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu
thuẫn của hoạt động tinh thần. Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho
rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề
chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử.
Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con
người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý
trong phương pháp biện chứng của Hegel là ở chỗ đó.

Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã
được C. Mác đặt ra đó. C. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một
cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó, trước hết
là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một
công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với phép
biện chứng duy tâm của Hêgen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ
nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các
bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyển hoá lẫn nhau, xâm nhập
vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết
học mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật. Đồng
thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà còn là lý luận hơn thế
nữa là lý luận hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, toàn diện nhất và không phiến diện nhất
về sự phát triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không bao
giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với phép
biện chứng của Hêghen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông vẫn
không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những khái
quát mới về phép biện chứng Hêghen. Điều mà tiếc thay các ông chưa kịp thực hiện.
Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng kiên trì nhấn
mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép
biện chứng Hêghen. Trong bài viết “Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu” -
tác phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu gọi
thành lập “Hội những người bạn duy vật của phép biện chứng Hêghen” để tiến hành
công tác nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêghen: “Dựa
vào cách của Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêghen hiểu theo quan điểm duy
vật, chúng ta có thể và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó trên tất cả các mặt.
Những chỉ dẫn rất quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết luận
được chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêghen và trước
hết là về phép biện chứng Hêghen. Ngay từ giữa những năm 90 thế kỷ XIX, Lênin đã

vạch ra một cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêghen, của mặt cách
mạng của nó mà thậm chí phái Hêgen mới đã bỏ qua trong bài viết nhan đề
"Phriđrích Ăngghen" Lênin viết: “Lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và
vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học Hêgen cho rằng trong
thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học
trò của nhà triết học ở Béclanh không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho
rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn
tại và chống điều ác đang hoành hành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển
không ngừng. Nếu mọi cái đều phát triển nếu những thể chế này bị thể chế khác thay
thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế của vua Phổ hay của Nga hoàng việc một thiểu
số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt đại đa số sự thống trị của giải cấp tư sản đối với
nhân dân lại cứ tồn tại mãi?”.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng chúng ta đánh
giá cao công lao vĩ đại của Hêgen cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học và của thực tiễn hiện đại để làm
giàu thêm phép biện chứng duy vật của C. Mác là nhiệm vụ quan trọng và không bao
giờ kết thúc.
KẾT LUẬN
Chính V.I.Lênin đã từng khẳng định : ‘‘ Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần
với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn ’’. Điều này ngụ ý
rằng triết học duy tâm thần bí không có nghĩa là hoàn toàn không có giá trị. Và phép
biện chứng duy tâm Hêghen chính là phép biện chứng duy tâm thông minh nhất từ
trước đến nay trong lịch sử triết học nhân loại.
Điều giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của Hêghen
chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát triển toàn diện với
tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư cách là sự đi lên theo
thang bậc lôgic có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự phát triển bao gồm sự tương
tác giữa các mặt đối lập, sự phủ định tồn tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái tích
cực từ quá khứ. Phép biện chứng tư duy là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư
tưởng của nhân loại. Triết học Hêghen là một cội nguồn, là nền móng của triết học

Mác sau này. Đối vối nhân loại và nền triết học, phép biện chứng duy tâm của
Hêghen là bước ngoặt lớn cho sự phát triển, hoàn thiện của chủ nghĩa duy vật và nền
triết học hiện đại ngày nay và sau này.
C.Mác đã từng nhận người thầy của chính mình không ai khác chính là
Hêghen. Có thể nói phép biện chứng duy vật của Mác được xây dựng hoàn thiện như
ngày hôm nay nhờ một phần công lao rất lớn từ người thầy Hêghen. Nếu không có
triết học cổ điển Đức thì sẽ không có triết học Mác-Lênin, cũng như không có triết
học Heghen thì cũng không có phép biện chứng duy vật lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh, 2010.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Lút vích Phoi Ơ Bắc và sự cáo chung của Triết học
cổ điển Đức.
/>option=com_content&view=article&id=160:ludwidfeuerbach-va-s-cao-chung-ca-
trit-hc-c-in-c&catid=6:h-hinh-tam-thchc&Itemid=193
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.
4. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Trọng Chuẩn, Ý nghĩa phép biện chứng Hegel.
/>bien-chung-heghen.html
5. Triết học Mác – Lênin (Hệ thống câu hỏi – đáp án gởi mở & Hướng dẫn viết
tiểu luận), Nhóm tác giả Khoa Triết học, Trường Đại học Kinh Tế Tp.HCM.

×