Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận triết học Mác Lênin (phần chủ nghĩa duy vật biện chứng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.65 KB, 14 trang )


Tiểu luận triết học Mác Lênin
(phần chủ nghĩa duy vật biện chứng)

Cơ sở lý luận : Thực tiễn là gì ? Vai trò của thực tiễn trong
nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện
của Sinh viên hiện nay.
 Sinh viên : Phạm Sỹ Nguyên
 Lớp : AT5C
 Giáo viên hướng dẫn : Đỗ Minh Sơn

Hà Nội, ngày 12/12/2008
Tiểu luận triết học – Phạm Sỹ Nguyên AT5C
I. Th ực tiễn là gì ?
Phạm trù thực tiễn
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế
giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết
không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó
khuyết điểm lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính lịch sử - xã hội
đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan.
Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước
đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác được của con người
là thực tiễn”.
Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập đến thực
tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính,
có tính năng động của con người. Do đó, ông đã coi thường hoạt động thực
tiễn, xem thực tiễn là cái gì có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu
được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Đối với ông chỉ có hoạt động đích thực lý luận mới là quan trọng, mới là hoạt


động đích thực của con người.
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt
động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá.
Vì vậy, chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần
chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính
của con người. Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen, nhà triết học duy
tâm lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc là: bằng thực tiễn, chủ
thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế
giới bên ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý
niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với Hêghen, thực tiễn là “suy lý lôgic“.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem
lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Các ông không những trực tiếp tham gia vào hoạt động thực tiễn cách mạng
của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn thực tiễn xã hội để khái quát,
phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Với việc đưa
phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã thực hiện một
bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận
2
Tiểu luận triết học – Phạm Sỹ Nguyên AT5C
thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Ở đây, cần khẳng định rằng, phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của
lý luận nhận thức mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết học
mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác nói chung.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính
lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ
là những hoạt động vật chất để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động
lý luận, hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con
người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện,
công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội
để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt
động thực tiễn, con người làm biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó
làm cơ sở để biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để
biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là
hoạt động có tính năng động, sang tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá
trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá
trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc
cải tạo khách thể; trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở
thành mắt khâu trung gian nối liền nhận thức con người với thế giới bên
ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động
đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm
thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào
thực tiễn – như hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế
giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực
với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với
những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải
tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao
động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo công cụ và sử
dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản
xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và
phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên chủ yếu của mối quan
hệ giữa con người với thế giới.

Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn thay đổi qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng
3
Tiểu luận triết học – Phạm Sỹ Nguyên AT5C
hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là hoạt động
có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể được tiến hành chỉ
bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng
nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức thực
hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động
và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh
phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt
động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như
nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có lien hệ
với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn
không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ
bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt
động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt
động thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt
động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của
động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội
nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội.
Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của
thực tiễn cũng xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt
động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực tiễn
được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lĩnh

vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo… Sở dĩ gọi là “không cơ
bản” không phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được
hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phát
sinh.
4
Tiểu luận triết học – Phạm Sỹ Nguyên AT5C
II. Vai trò của thực tiễn trong nhận thức.
- Là cơ sở động lực của nhận thức do yêu cầu sự phát triển sản xuất vật
chất cải tiến xã hội thì buộc con người phải nhận thức thế giới xung
quanh
- Thông qua hoạt động thực tiễn con người làm cho sự vật bộc lộ thuộc
tính nó để con người nhận thức. Vậy thực tiễn đem lại tài liệu cho nhận
thức
- Thông qua hoạt động thực tiễn làm giác quan con người phát triển và
hoàn thiện. Thực tiễn là mục đích quá trình nhận thức
- Nhu cầu thực tiễn dẫn đến hình thành và phát triển ngành khoa học
biến tri thức khoa học thành phương tiện vật chất hùng mạnh giúp con
người trong hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Thực tiễn giúp con người
cải tạo thế giới
• Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Muốn kiểm tra tri thức ta dựa trên thực tiễn. Nếu tri thức phù hợp hiện
thực khách quan là chân lý còn không phù hợp là sai lầm
- Tiêu chuẩn chân lý là thực tiễn vừa có tính tương đối và tuyệt đối.
Tuyệt đối ở chỗ thực tiễn ở 1 thời điểm nhất định ở giai đoạn nhất định
hoàn toàn phù hợp với tri thức là có được. Tính tương đối là thực tiễn
luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy khi chúng ta nhận thức
được tính tương đối và tuyệt đối, thực tiễn là tiêu chuẩn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa
con người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực
vào thế giới khách quan – tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan

bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và
sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn
của cá nhận và cộng đồng.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói
riêng. Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người
phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch
sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc,
nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó
5

×