Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.58 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC
Học viên thực hiện
STT – Nhóm
Lớp – Khóa
Giảng viên phụ trách
:
:
:
:
Mai Thị Huỳnh Mai.
35 – Nhóm 04.
Ngày 4 – K22.
TS. Bùi Văn Mưa.
TP.HCM, tháng 12/2012.
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học được ra đời cùng với các hệ thống lý luận ban đầu của con người từ khoảng thế kỷ
VIII – VI TCN và không ngừng thay đổi, phát triển để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử khác nhau,
hướng đến giải quyết những vấn đề lịch sử được đặt ra. Vào cuối thời cận đại, khác với các nước Anh,
Pháp đã có nền tảng chủ nghĩa tư bản vững chắc, nước Đức vẫn còn là một nước phong kiến và chịu
ảnh hưởng từ các nước Anh, Pháp về nhiều mặt cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản Đức thúc đẩy sự
hình thành và phát triển mạnh mẽ triết học cổ điển Đức trên lập trường duy tâm. Đỉnh cao của triết học
cổ điển Đức là triết học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là “khoa học của các khoa học” -
được xem là hệ thông triết học đồ sộ nhất và cuối cùng trong lịch sử triết học. Hêghen đã trở thành một
trong những bộ óc bách khoa toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử triết học. Dù mang nhiều hạn chế nhưng
triết học Hêghen đã có một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng chung của


nhân loại – phép biện chứng tư duy – cội nguồn của triết học Mác sau này. Bài
tiểu luận tập trung xoay quanh phép biện chứng duy tâm của Hêghen, nêu bật lên
những mâu thuẫn của lớp vỏ duy tâm thần bí với hạt nhân khoa học biện chứng
sống động trong triết học Hêghen từ đó nói lên vai trò của nó với sự ra đời triết
học Mác, Mác và Ăngghen đã vận dụng kế thừa và cải tạo triệt để phép biện
chứng duy tâm Hêghen theo tinh thần duy vật của triết học Phoiơbắc, xây dựng
hoàn chỉnh phép biện chứng duy vật trong thế giới quan duy vật biện chứng, hình
thức phát triển cao hơn của chủ nghĩa duy vật cũng như của phép biện chứng.
Phần đầu bài tiểu luận sẽ giới thiệu tổng quan về hoàn cảnh lịch sử của sự hình
thành và phát triển triết học Hêghen. Sau đó là nội dung chính của phép biện
chứng duy tâm Hêghen và phần cuối là phân tích vai trò của nó trong sự ra đời
triết học Mác.
Cuối cùng, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Bùi Văn
Mưa đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn trong suốt quá trình học và các thầy cô
trong Tiểu ban triết học, thuộc khoa lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.
Hồ Chí Minh đã biên soạn bộ tài liệu Triết học, phần I – Đại Cương về lịch sử
triết học là nguồn tài liệu chính cùng với sách “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức” (1886 ) của Ph. Ăngghen giúp hoàn thành bài
tiểu luận này.
1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC CỦA
HÊGHEN.
1.1. Điều kiện lịch sử.
Vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, các nước Anh, Mỹ, Pháp, Ý…
đã lần lượt thực hiện thành công cách mạng tư sản, phá hủy tận gốc chế độ phong
kiến, cách mạng công nghiệp ở các nước này cũng đạt được những thành tựu
nhất định. Trong khi đó, nước Đức (Vương quốc Phổ) vẫn còn là một quốc gia
phong kiến mặc dù đã đi vào thời kỳ suy yếu từ khi vua Friedrich Wilhelm II lên
ngôi(1786) với nhiều chính sách phản cách mạng,tuy lạc hậu về nhiều mặt so với
các nước phương Tây, yếu kém về kinh tế và suy nhược về chính trị, họ lại có
đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, giai cấp tư sản Đức cũng đang được

hình thành, nhưng còn rất yếu và rời rạc nên họ chỉ cố thực hiện cách mạng tư
tưởng một cách ôn hòa chứ không mạnh mẽ, dứt khoát như Pháp. Đồng thời,
tầng lớp trí thức Đức đã được ảnh hưởng rất nhiều về tình cảm đến sự sáng tạo từ
các thành tựu văn hóa, nghệ thuật rực rỡ cũng như tinh thần của cách mạng tư
sản Pháp. Từ những tác phẩm sáng tạo ra đời của các nhà trí thức Đức bấy giờ đã
làm họ thêm tự hào về bản thân, tôn vinh cả dân tộc Đức, đề cao trí tuệ dân tộc,
nhưng họ vẫn chưa đủ sức làm cách mạng thật sự. Do được hình thành và phát
triển trong những điều kiện trên mà triết học cổ điển Đức chứa đựng nét đặc thù
riêng.
1.2. Sơ lược về triết học cổ điển Đức.
Triết học cổ điển Đức tiếp tục phát huy truyền thống duy lý phương Tây,
phát triển quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa học”. Triết học cổ
điển Đức phát triển nhanh và bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người với
vai trò là cơ sở lý luận. Những phát minh công nghiệp đương thời chứng tỏ tồn
tại nhiều hạn chế trong phép siêu hình máy móc của nền triết học duy vật thế kỷ
XVII-XVIII, nhưng do nổ lực khắc phục những hạn chế siêu hình này mà triết
học cổ điển Đức rơi vào chủ nghĩa duy tâm thần bí với lý luận rằng tính biện
chứng sống động chỉ là bản tính của tinh thần còn bản thân giới tự nhiên thì phi
biện chứng. Tuy vậy, một trong những thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển
Đức là đã kế thừa, phát triển và xây dựng phép biện chứng như một học thuyết
triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển của thế giới từ các tư tưởng
biện chứng chất phát quý báo trong di sản triết học nhân loại, mà người hoàn
thiện nó chính là Phrieđrích Hêghen (1770-1831).
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Imanuen Cantơ
(1724-1804), ông là một trong những nhà triết học vĩ đại của nhân loại, người đã
đặt cơ sở lý luận ban đầu cho nền triết học cổ điển Đức và cũng là tiền đề cho lý
luận của triết học mácxít. Sau này, Giôhan Gốtliếp Phíchtơ (1762-1814) đã kế
tục sự nghiệp của Cantơ, khi chuyển sang lập trường duy tâm khách quan, ông
coi cái tôi tuyệt đối không phải là một cá nhân tuyệt đối mà chỉ là tồn tại thuần
túy hay ý thức thuần túy, tức cái tuyệt đối. Phrieđrích Vinhem Giôdép Senlinh

(1775-1854) đã dựa vào ý tưởng này của Phíchtơ để phát triển nội dung chủ đạo
trong triết học đồng nhất của ông, chống lại quan điểm máy móc siêu hình thời
cận đại, ông khẳng định sự phát triển của giới tự nhiên cũng chính là sự phát
triển của cái tinh thần. Triết học Senlinh trong thời kỳ đầu có ảnh hưởng lớn đến
Hêghen, từ đó, Hêghen đã tìm tòi nghiên cứu triết học và trở thành nhà triết học
vĩ đại nhất, người đã hoàn chỉnh nền triết học duy tâm khách quan biện chứng cổ
điển Đức. Sau Hêghen, Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872) – nhà triết học duy vật
duy nhất của triết học cổ điển Đức – đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII-XVIII, làm sinh động thêm thế giới quan duy vật khoa học lúc bấy giờ,
nhưng với tư duy siêu hình, ông đã phủ nhận toàn bộ hệ thống triết học duy tâm
của Hêghen mà không nhận ra được hạt nhân duy lý- phép biện chứng tư duy
trong đó. Công việc này đã được hoàn thành sau này bởi Mác và Ăngghen. Triết
học cổ điển Đức có những đóng góp to lớn với sự phát triển văn hóa- khoa học
nhân loại, đóng góp lớn nhất là đóng góp về phép biện chứng gắn liền với tên
tuổi của Hêghen, đóng góp thứ hai là đóng góp về thế giới quan duy vật (chủ
nghĩa duy vật) gắn liền với tên tuổi của Phoiơbắc. Và đây cũng chính là tiền đề lý
luận trực tiếp của triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung.
2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN.
2.1. Tiểu sử Hêghen.
Phrieđrích Hêghen (Friedrich Hégel, 1770 – 1831) sinh ra trong một gia
đình quan chức cao cấp ở thành phố Stuttgart. Cha ông theo đạo Tin Lành và
mong ông trở thành giáo sĩ nên đã đưa ông vào trường dòng – trường đào tạo về
thần học vào 1788. Ở đó ông đã phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich
Hölderlin và nhà triết học Senlinh. Hêghen say mê nghiên cứu triết học từ Cantơ,
Platông, Phíchtơ…và thông thuộc các học giả Hy Lạp, La Mã cổ đại và văn học
Đức. Sau khi hoàn tất việc học ở trường dòng, ông quyết định không trở thành
mục sư mà chọn con đường trở thành giáo sư giảng dạy ở trường đại học. Khi
giảng dạy tại Đại học Inna, ông đã cộng tác với Senlinh xuất bản tạp chí “Phê
phán triết học”. Hêghen bắt đầu xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan
trong tác phẩm “Hiện tượng luận tinh thần”(1807) chứa đựng những nền tảng của

một triết học mới và qua đó, Hêghen đã thoát ra khỏi sự rành buộc từ tư tưởng
của Senlinh, đánh dấu sự kết thúc quá trình hình thành thế giới quan triết học của
Hêghen thời kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự bất đồng nhất định giữa Hêghen
và Senlinh trong việc lý giải các vấn đề triết học. Nhiều tác phẩm có giá trị lần
lượt được xuất bản sau đó như Bách khoa toàn thư các khoa học triết học trình
bày chi tiết toàn bộ nội dung hệ thống triết học mới của Hêghen(gồm 3 quyển:
khoa học Lôgích (1812-1816), triết học tự nhiên và triết học tinh thần(1817-
1830)) cùng nhiều tác phẩm về lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, thẩm mỹ học…
đánh dấu sự phát triển vượt bậc so với những tư tưởng trước đó.
2.2. Phép biện chứng duy tâm trong hệ thống triết học của Hêghen.
Thế giới quan của toàn bộ hệ thông triết học đồ sộ của Hêghen là thế giới
quan duy tâm và phép biện chứng lại chính là linh hồn sống động xuyên suốt của
nó. Toàn bộ triết học Hêghen xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt đối và sự tự vận
động của ý niệm tuyệt đối, phép biện chứng ở Hêghen là sự tự phát triển của ý
niệm, giải quyết những mâu thuẫn bên trong nó, trải qua phát triển, thông qua các
khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự phong phú hơn (lôgích học). Do có sự
vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái khác nó (tha hoá),
đối lập nó, tức là giới tự nhiên (triết học tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận
động về với bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá nhân và xã hội loài
người, sự hoàn thành sự vận động của nó đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống
triết học Hêghen (triết học tinh thần). Ông là người đầu tiên nhìn nhận toàn bộ
giới tự nhiên, xã hội và tư duy là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo
tinh thần duy tâm - sự phát triển của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự
nhiên và con người, vì vậy, phép biện chứng Hêghen là phép biện chứng duy tâm
tuyệt đối. Hệ thống triết học của ông chứa đựng nhiều mâu thuẫn bên trong,
phạm trù “ý niệm tuyệt đối” mơ hồ, thần bí lại mang trong nó hạt nhân khoa học
cách mạng – phép biện chứng tư duy, “những kết cấu gượng gạo ấy chỉ là cái
khung, cái giàn cho công trình của ông mà thôi. Nếu người ta đừng phí công
dừng lại ở những kết cấu ấy mà đi sâu hơn nữa vào trong tòa nhà đồ sộ, người ta
sẽ thấy trong ấy có vô số những vật quý giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ

giá trị của chúng”(Ăngghen).
2.2.1. Phép biện chứng trong Hiện tượng luận tinh thần.
Hiện tượng học tinh thần" (1807) với bốn nền tảng của triết học mới đánh
dấu sự chín muồi trong thế giới quan triết học của Hêghen, ông bắt đầu đề ra
những nguyên lý cơ bản nhằm xây dựng hệ thống triết học độc lập của mình.
Mác gọi Hiện tượng học tinh thần là cội nguồn và bí mật của triết học Hêghen.
Hêghen quy mọi quá trình của hiện thực về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện
thực về lịch sử nhận thức, hoạt động vật chất thực tiễn của con người cũng bị quy
về quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Quan niệm này được trình bày khá rõ
trong "Hiện tượng học tinh thần" và được triển khai trong toàn bộ hệ thống triết
học Hêghen.
Hêghen cho rằng cơ sở của mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất
của thế giới, nền tảng của hiện thực là một ý thức chung "khách quan", tồn tại
độc lập với con người, có trước tự nhiên, trước loài người, luôn vận động và biến
đổi được ông gọi là "ý niệm tuyệt đối". Ý niệm tuyệt đối là sự hợp nhất giữa thực
thể - giới tự nhiên (Xpinôda) và Cái Tôi tuyệt đối (Phíchtơ), sự đồng nhất giữa tư
duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất. Con người chỉ là sản phẩm của quá
trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải
tạo thế giới của con người-lịch sử nhân loại-chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý
niệm tuyệt đối, công cụ đế nó nhận thức chính bản thân mình và quay về chính
mình. Theo Hêghen, tư duy lôgích, không phải trực giác nghệ thuật (Senlinh), là
hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hêghen đã tuyệt đối hóa vai trò
của cái tinh thần trong lý luận lẫn thực tiễn.
Ông thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối –cái khởi nguyên- là cái
nội dung phát triển của tất cả những cái hiện có. Giai đoạn phát triển cao nhất
của tư duy-tinh thần tuyệt đối-là tư duy con người-lịch sử nhân loại. Khác các
nhà triết học siêu hình, Hêghen coi sự phát triển không chỉ là sự tăng, giảm đơn
thuần về lượng, hay sự dịch chuyển vị trí của vật về không gian. Ông hiểu sự
phát triển là do mâu thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối tự vận động từ thấp lên
cao, đó là một chuỗi các hành động phủ định biện chứng - cái mới liên tục thay

thế cái cũ đồng thời thừa kế những yếu tố tích cực của cái cũ. Quá trình phát triển
của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”,
trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu cơ, chuyển hoá lẫn nhau. Đó
cũng là quá trình phát sinh, giải quyết mâu thuẫn giữa vật chất và tinh thần, giữa
khách thể và chủ thể…trong ý niệm tuyệt đối. Phương pháp biện chứng – nguyên
lý phát triển và quy luật phủ định của phủ định – yếu tố khoa học cách mạng
trong triết học Hêghen lại bị bao phủ bởi yếu tố duy tâm thần bí, sự phát triển
biện chứng trong giới tự nhiên và lịch sử - mối liên hệ nhân quả của sự vận động
từ thấp đến cao với những bước thụt lùi tạm thời – “chỉ là sự sao chép lại sự tự
vận động của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu, …
độc lập đối với mọi bộ óc đang tư duy của con người. Sự xuyên tạc mang tính
chất tư tưởng ấy là cái cần gạt bỏ” (Ăngghen).
Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử - hiện thân của ý niệm tuyệt đối,
đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Sự phát triển của lịch
sử luôn mang tính kế thừa, mỗi thời đại lịch sử là kết quả của cả một tiến trình
phát triển trước đó. Ý thức cá nhân là sự khái quát, sự rút ngắn về thời gian, sự
tái diễn về không gian toàn bộ chặng đường mà ý thức nhân loại đã trải qua trong
lịch sử. Ý thức nhân loại là sự tái hiện toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, nó là
sản phẩm của lịch sử và là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động của con
người càng phát triển bao nhiêu thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu.
Ở đây, Hêghen đã tiến dần đến quan niệm về bản chất xã hội của ý thức, vai trò
của lao động trong việc hình thành ý thức. Ông nhận thấy rằng sự phát triển của ý
thức diễn ra thông qua ý thức của nô lệ chứ không phải qua ý thức ông chủ. Mác
đã nhìn thấy tầm vóc của "Hiện tượng học tinh thần" của Hêghen ở chỗ nhà triết
học đã "tóm được bản chất của lao động", hiểu con người "như là sản phẩm của
lao động của chính mình".
Theo Hêghen, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa
nhận có ba hình thức ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và
triết học. Trong đó triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ
nhất ý niệm tuyệt đối. Theo ông, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa

học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con
người. Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học của riêng mình. Học
thuyết này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại đó được thể hiện dưới
dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là chắt lọc, kết
tinh, khái quát lại toàn bộ lịch sử triết học trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học.
Triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái tư
duy và cái lịch sử. Vì vậy triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý
niệm tuyệt đối. Theo đó, triết học Hêghen chia thành ba bộ phận: khoa học
lôgích, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với ba giai đoạn phát triển của ý
niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn
tại khác của nó(tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với
nó.
2.2.2.Phép biện chứng trong Khoa học lôgích.
Trong Khoa học lôgích- tác phẩm quan trọng nhất của hệ thống triết học
Hêghen- ông đã khởi thảo một lôgích học mới giúp vạch ra bản chất của tư duy,
có vai trò như một phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học. Đó là
khoa học về những phạm trù, qui luật của tư duy- tư duy thuần túy-ý niệm tuyệt
đối trong chính nó hay Thượng đế. Hêghen coi giới tự nhiên chỉ là tư duy khách
quan vô thức – tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật, để phân biệt với tư duy con
người là tư duy khách quan có ý thức- một giai đoạn phát triển cao của ý niệm
tuyệt đối, qua đó ý niệm tuyệt đối có khả năng ý thức được bản thân. Theo
Hêghen, trong tư duy mọi cái đối lập đều thống nhất. Lôgích học - hệ thống siêu
hình học với phát biểu: “Tất cả cái gì là hiện thực, đều là hợp lý, và tất cả cái gì
là hợp lý, đều là hiện thực”, nhưng không phải tất cả những gì hiện đang tồn tại
cũng đều là hiện thực mà nó tồn tại trong tính tất yếu: “Tính hiện thực, trong sự
phát triển của nó, tự biểu lộ ra như là tính tất yếu”, sự phát triển trong lôgích học
– tư duy là một quá trình biện chứng, mọi phạm trù, quy luật của nó cũng liên tục
vận động, chuyển hóa linh hoạt, phát triển theo các quy luật biện chứng.
Khoa học lôgích của ông bao gồm ba phần được xây dựng trên những
nguyên tắc cơ bản là tính khách quan; nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể

trong tư duy, từ đơn giản đến phức tạp; nguyên tắc mâu thuẫn và nguyên tắc
thống nhất tính lôgích với tính lịch sử. Phát triển là sự vận động tiến lên phía
trước nhưng nó cũng chính là sự quay về điểm khởi đầu đã được triển khai đầy
đủ. Mỗi phần trong nghiên cứu tương ứng một trong ba giai đoạn tương ứng của
tư duy thuần túy trong chính nó. Đó là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản
chất và học thuyết về khái niệm
Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa
lượng và chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi gián
đoạn về chất và ngược lại - cách thức tồn tại của sự vật (khái niệm). Tồn tại xuất
phát không phải là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần túy- không tiền đề, không
nội dung, tồn tại ở một phương diện nhất định và không là sản phẩm của bất kỳ
một sự trung gian nào- đồng nhất với hư vô thuần tuý, tồn tại dẫn đến sinh thành.
Như vậy là khái niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng mâu thuẫn trong nó, vì nó
bao hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư
vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động và vận động đến mức nào đó thì dẫn đến
sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứ tồn tại khác. Quá trình chuyển từ tồn
tại thuần túy sang sinh thành là sự thống nhất giữa chất, lượng trong độ. Chất là
tính quy định bên trong, lượng là tính quy định bên ngoài sự vật. Độ là sự thống
nhất giữa chất và lượng trong sự vật để sự vật là chính nó. Khi lượng của sự vật
thay đổi vượt quá độ- điểm nút - chất này chuyển thành chất khác, tức bước nhảy
xảy ra. Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định mới, sâu
sắc hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất".
Trong học thuyết về bản chất, Hêghen bàn về sự tự vận động phát triển
của các phạm trù: đồng nhất – khác biệt – đối lập – mẫu thuẫn, bản chất – hiện
tượng, nội dung – hình thức, khả năng – hiện thực, nguyên nhân – kết quả. Qua
đó, ông đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc biệt về
mâu thuẫn, ông coi mâu thuẫn chính là mối liên hệ qua lại, sự lệ thuộc, quy định
lẫn nhau của các mặt đối lập, vạch ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của sự vật (khái
niệm). Ông cho rằng trong khái niệm vốn có sẵn cái khác biệt được sinh ra từ cái

đồng nhất, đồng nhất và khác biệt không tồn tại tách rời nhau, mà đối lập nhau
nhưng gắn bó với nhau về bản chất. Khác với quan niệm siêu hình về đồng nhất
là đồng nhất trừu tượng, loại bỏ sự khác biệt, quan niệm biện chứng hiểu đồng
nhất là đồng nhất cụ thể bao hàm trong nó sự khác biệt. Mỗi vật là một sự đồng
nhất cụ thể, hàm chứa trong nó cái đối lập, cái phủ định của nó, hàm chứa trong
nó cái sẽ có. Lúc đầu là khác biệt nhỏ, tích lũy dần dần đến khác biệt cơ bản (đối
lập); từ đây mâu thuẫn hình thành và phát triển dẫn đến chuyển hóa. Gắn liền với
mâu thuẫn là quan niệm về phủ định. Hêghen phân biệt phủ định trừu tượng (phủ
định sạch trơn) với phủ định cụ thể. Phủ định cụ thể không chỉ xoá bỏ cái cũ mà
còn giữ lại những yếu tố mầm mống, tạo khả năng sống cho sự vật, tức là phủ
định có kế thừa và chọn lọc. Hêghen cho rằng sự phát triển tất yếu đưa tới phủ
định bởi phủ định không phải là sự gán ghép từ bên ngoài mà là kết quả của quá
trình phát triển tất yếu của sự vật. Chính sự phủ định đó là một nấc thang trong
quá trình phát triển nên bản thân nó cũng phải chịu sự phủ định trong tiến trình
tiếp theo của sự vật, kết quả là dường như quay về cái cũ nhưng trên cơ sở mới
cao hơn. Bản thân sự giải quyết mâu thuẫn cũng chính là sự phủ định của cái mới
đối với cái cũ, là sự phá vỡ độ dẫn đến sự hình thành chất mới. Với những nghiên
cứu về các quy luật chung nhất của sự biến đổi và phát triển của mọi sự vật,
Hêghen đã giáng một đòn nặng nề vào quan niệm siêu hình về tính bất biến của
mọi sự vật. Ông khẳng định quá trình phát triển là sự biến đổi cả về bề ngoài và
về bên trong, không chỉ về hiện tượng mà cả về bản chất với tất cả những tính
quy luật vốn có của nó (nguyên nhân, kết quả, tất yếu, ngẫu nhiên ).
Học thuyết về khái niệm bàn về sự tự vận động phát triển của ý niệm tuyệt
đối thông qua các hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm – phán đoán –
suy luận, bàn về thực tiễn, về chân lý hay ý niệm, sự thống nhất giữa khái niệm
và thực tiễn. Ông vạch ra con đường phát triển của khái niệm là sự phủ định của
phủ định, phát triển theo đường xoắn ốc. Sự phát triển diễn ra theo xu hướng từ
trừu tượng đến cụ thể, từ khái niệm nghèo nàn, phiến diện đến khái niệm phong
phú hơn về nội dung trong một sự thống nhất chỉnh thể. Hêghen rất coi trọng tính
cụ thể của khái niệm. Lần đầu tiên ông coi nguyên lý đi từ trừu tượng tới cụ thể

là một trong những nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm lôgích học.
Trừu tượng và cụ thể là hai cấp độ nhận thức, hai cấp độ phát triển khác nhau của
ý niệm tuyệt đối. Khái niệm không bất động mà nó phải trải qua các giai đoạn
khác nhau của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn trực quan cảm tính với cảm
giác, tri giác, biểu tượng và giai đoạn lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý.
Do khái niệm luôn biến đổi, mà phán đoán dựa trên khái niệm ngày càng sâu sắc
hơn và suy lý được xây dựng trên phán đoán ngày càng sáng tạo, năng động hơn.
Khoa học lôgích thể hiện quá trình tự thân vận động phát triển của ý niệm
tuyệt đối trong chính nó và cho nó. Triết học tự nhiên và triết học tinh thần mô tả
quá trình tự hiện thực hoá của ý niệm tuyệt đối. Lôgích học Hêghen là lôgích
biện chứng, dưới hình thức duy tâm ông đã trình bày các quy luật và các cặp
phạm trù cơ bản của phép biện chứng một cách đầy đủ, minh bạch và rõ ràng
nhất. Tư duy là nền tảng khởi nguyên của mọi cái đang tồn tại, Hêghen coi lôgích
học là học thuyết về bản chất của mọi sự vật, thông qua phép biện chứng của ý
niệm đoán được phép biện chứng của sự vật. Học thuyết của ông về biện chứng
của tư duy, về mối liên hệ và vận động của các khái niệm đã gián tiếp vạch ra nội
dung và tính quy luật của quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật không lệ
thuộc vào nhận thức tư duy của con người. Nhưng nguồn gốc đích thực của phép
biện chứng ấy chính là biện chứng hiện thực khách quan của các sự vật, các quá
trình trong tự nhiên và xã hội. Vận động trở về cái khởi đầu cũng là tiến lên phía
trước là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Hêghen. Luận điểm
này không chỉ nói lên bản chất duy tâm mà còn vạch rõ linh hồn biện chứng của
toàn bộ triết học Hêghen. Ở đây cũng bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong hệ thống triết
học của ông. “Đối với triết học biện chứng đó thì không có gì là tối hậu, là tuyệt
đối, là thiêng liêng cả” (Ăngghen), và trong tư duy biện chứng của Hêghen, ông
thừa nhận tính phổ biến và khách quan của mâu thuẫn nội tại dẫn đến sự phát
triển không ngừng của ý niệm tuyệt đối. Nhưng ông lại kết luận rằng triết học
của mình là điểm tận cùng trong sự phát triển của ý niệm tuyệt đối, đó là hệ
thống triết học hoàn mỹ, không có mâu thuẫn - chân lý tuyệt đối không còn phát
triển thêm được, kết luận này mang tính tư biện và giáo điều, trái với phương

pháp biện chứng của chính ông. Ông đã miễn cưỡng gán ghép một kết thúc cho
hệ thống của mình và khi có xuất hiện mâu thuẫn trong nó, thay vì đấu tranh biện
chứng, ông lại tìm cách dung hòa tránh xung đột. “Phương pháp tư duy hết sức
cách mạng lại đã đưa tới một kết luận chính trị rất ôn hòa” (Ăngghen), nó phản
ánh tư tưởng mẫu thuẫn của giai cấp tư sản Đức lúc đó, muốn làm cách mạng
nhưng lại không dám và cũng chưa đủ sức làm cách mạng.
2.2.3.Phép biện chứng trong Triết học tự nhiên.
Đây là học thuyết về giới tự nhiên với ý nghĩa là một dạng tồn tại khác
của ý niệm tuyệt đối dưới dạng vật chất. Hêghen không giải thích ý niệm tuyệt
đối chuyển từ nó sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý
niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài thời gian và giới tự nhiên cũng không có khởi
đầu trong thời gian. Hêghen cho rằng quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý
niệm tuyệt đối đồng thời cũng là quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện
ra thành giới tự nhiên. Sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn tại
khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật
chất tự nhiên như cơ học, vật lý học, sinh thể học với bản chất và đặc tính vận
động tương ứng. Hêghen cố gắng trình bày về giới tự nhiên như một chỉnh thể
thống nhất mà trong nó, mọi vật có liên hệ hữu cơ với nhau và không ngừng vận
động và phát triển, nhưng lập luận của ông lại theo tinh thần duy tâm lẫn màu sắc
siêu hình. Do coi giới tự nhiên là sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, mà ông cho
rằng bản thân giới tự nhiên thụ động, không tự vận động, không biến đổi không
phát triển theo thời gian mà chỉ vận động trong không gian. Ông đã nhìn thấy
mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa vật chất và vận động, nhưng ông
chỉ dừng lại ở quan niệm di dời vị trí trong không gian hoặc sự lặp lại tuần hoàn
của cái đã có từ trước. Hêghen muốn đem lại một cái nhìn lịch sử về tự nhiên, về
thế giới, theo đó, vũ trụ của chúng ta không phải ngay từ đầu đã có trạng thái như
hiện nay. Tuy nhiên, nhà biện chứng lỗi lạc lại diễn tả tư tưởng đó một cách duy
tâm. Ông khẳng định là chỉ có ý niệm mới có thể chuyển hoá thành giới tự nhiên.
Và sự chuyển hoá này diễn ra liên tục, không ngừng, “Thế giới được tạo ra, hiện
đang được tạo ra và sẽ vĩnh viễn được tạo ra” bởi tinh thần tuyệt đối. Tại đây,

Hêghen lại có những lập luận tư biện và bất chất khoa học, mâu thuẫn với tinh
thần biện chứng trong đó, ông bác bỏ hết những gì không dung hợp được với ý
niệm tuyệt đối. Tuy triết học tự nhiên Hêghen cũng có một vài tư tưởng quý giá
nhưng nó được xem là khâu yếu nhất trong hệ thống của ông bởi vì: một là, khoa
học tự nhiên đã sớm thoát khỏi quan niệm quy tâm thần bí hơn bất cứ lĩnh vực
nhận thức nào khác; hai là, Hêghen đã không tổng kết, lĩnh hội những thành tựu
khoa học tự nhiên đương thời, “Quan điểm duy tâm và siêu hình về tự nhiên nói
chung, sự phủ nhận tư tưởng phát triển đã khiến triết học tự nhiên của Hêghen
trở nên lạc hậu hơn nhiều so với Cantơ thời kỳ tiền phê phán” (Ăngghen, “Chống
Đuyring”. 1957.Tr.11-12). Toàn bộ triết học tự nhiên duy tâm của Hêghen đưa
đến một cấu trúc phi lý về giới tự nhiên, lấy ý niệm thay thế cho sự nghiên cứu
khoa học về cơ sở vận động và phát triển của thế giới đó, mâu thuẫn với những
thành tựu phát triển khoa học tự nhiên. Theo quan điểm của ông, trong giới tự
nhiên, tinh thần không thể đạt sự toàn vẹn thống nhất, đặc điểm của hiện tượng
tự nhiên là thụ động và hữu hạn cho nên muốn đạt đến sự toàn vẹn của nó, tinh
thần phải trở lại lĩnh vực của nó nhưng trở lại mà càng phong phú thêm do sự lưu
lại ở những lĩnh vực tồn tại khác. Để phù hợp với hệ thống triết học của mình,
ông chuyển sang vấn đề triết học tinh thần.
2.2.4.Phép biện chứng trong Triết học tinh thần.
Trong triết học tinh thần, Hêghen xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn
cuối cùng trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục
sự tha hóa, quay về lại chính mình. Triết học tinh thần bao gồm học thuyết về
tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về tinh thần
tuyệt đối. Tinh thần chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh
hồn con người (nhân loại học), sau thể hiện trong ý thức (hiện tượng học) phân
biệt với cơ thể, cuối cùng nó thể hiện trong tri thức (tâm lý học) – cái tinh thần
bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó. Tinh thần khách quan là sự phủ định biện
chứng tinh thần chủ quan, thể hiện tính tự do của ý niệm tuyệt đối trước hết trong
pháp quyền; nó lấy tự do ý chí làm nền tảng, lấy ý niệm pháp quyền và việc thực
hiện pháp quyền làm đối tượng. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể đạo đức

thì tinh thần khách quan tự phát triển vào lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp
quyền của hành vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi của các chủ thể làm cơ sở. Tinh
thần khách quan hoàn thành quá trình phát triển trong phong hóa. Phong hóa là
sự thể hiện bản tính tự do của ý niệm tuyệt đối trong các hình thức gia đình, xã
hội công dân và nhà nước, trong đó nhà nước là hình thức cao nhất. Khác với các
nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII đấu tranh vì một xã hội tự do, bình đẳng cho
mọi người, Hêghen cho rằng con người về bản tính vốn là bất bình đẳng, bất
công và tệ nạn xã hội là hiện tượng tất yếu của sự phát triển xã hội xuất phát từ
bản tính con người, dẫn đến xung đột, mâu thuẫn giữa các giai cấp, giữa cá nhân
và xã hội. Sự nảy sinh không ngừng và giải quyết những mâu thuẫn giữa các
quan hệ xã hội đó là một trong những động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Và
chính vì những mâu thuẫn đó mà nhà nước xuất hiện để giải quyết chúng và định
hướng cho xã hội phát triển, nhà nước tồn tại trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử. Theo Hêghen, Nhà nước là sự ngao du của Thượng đế trong xã hội loài
người, là sự thể hiện tinh thần tuyệt đối. Theo tư duy biện chứng của ông, mâu
thuẫn xã hội là phổ biến và khách quan, là động lực phát triển của lịch sử, lịch sử
là phương thức tồn tại của con người, là kết quả hoạt động của tửng con người cụ
thể nhưng nó diễn ra theo quy luật khách quan và tất yếu, không phụ thuộc vào
bất kỳ ai. Tiến trình lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ
quan trong hoạt động của con người. Lịch sử các dân tộc cũng đều phát triển
trong khung cảnh lịch sử thế giới, trong dòng lịch sử chung.Tư tưởng biện chứng
của ông cũng được thể hiện xuyên suốt cả trong triết học tinh thần dù vẫn trong
lớp vỏ duy tâm, thành tựu lớn ở đây là sự lý giải các tiến trình phát triển xã hội
thông qua mối liên hệ và mâu thuẫn nội tại của nó. Tuy nhiên lập trường giai cấp
và tư tưởng dân tộc đã đưa ông đến một số mâu thuẫn trong lập luận. Ông vừa đề
cao các cuộc chiến tranh là phương tiện bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát,
vừa chống lại chiến tranh làm xáo trộn xã hội. Nhằm bảo vệ sự thống trị của nhà
nước quý tộc Phổ, Hêghen lại chủ trương dung hoà các mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội đương thời. Ông cho rằng dân tộc Đức vĩ đại và đề cao chế độ quân
chủ Phổ, coi nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật, Nhà nước

Đức tồn tại muôn đời và là nhà nước lý tưởng để các nước khác hướng tới, dân
tộc Đức là bậc thầy của các dân tộc phương Tây. Hêghen chủ trương thoả hiệp
với hiện thực chứ không nên thực hiện cách mạng, không nên can thiệp vào sự tự
phát triển của tinh thần tuyệt đối vì nó là thiên mệnh, điều này đã đi ngược với
lập luận phủ định biện chứng- sự đầu tranh giữa các mặt đối lập mà ông đã đưa
ra. Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất của tinh thần chủ quan và tinh thần khách
quan, thể hiện đầu tiên trong nghệ thuật, thông qua việc đề cao cái đẹp tinh thần
– hình cảnh cảm tính của ý niệm tuyệt đối; sau đó, nó thể hiện trong tôn giáo,
thông qua việc thống nhất niềm tin với lý tinh – biểu tượng của ý niệm tuyệt đối;
và cuối cùng, nó hoàn thiện chính mình trong hệ thống khái niệm trừu tượng triết
học. Sự sáng tạo nghệ thuật vừa mang tính chủ quan của con người vừa mang nội
dung khách quan nhất định. Nghệ thuật phải hướng đến con người theo những
nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo. Cống hiến của Hêghen ở đây là việc ông đặt
vấn đề về sự cần thiết phải xem xét nghệ thuật trong mối liên hệ hữu cơ của nó
với các lĩnh vực hoạt động khác của con người như kinh tế, chính trị, đạo đức và
các vấn đề lịch sử của thời đại, trong đó nghệ thuật là một bộ phận, một hình
thức thể hiện tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đồng thời đem lại một cái
nhìn biện chứng về tiến trình phát triển của nghệ thuật thế giới. Theo Hêghen,
nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để
khám phá ra chính mình, để rủ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình nơi trần
gian và quay về với chính mình- cái khởi đầu- trong tính toàn vẹn của nó, trong
đó, triết học là quá trình tự nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt
đối. Hêghen cho rằng, triết học của ông – học thuyết về tinh thần tuyệt đối – là sự
tổng hợp toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đó, thuộc mọi lĩnh
vực nghiên cứu hoạt động tinh thần của con người, là “khoa học của mọi khoa
học”, khoa học cuối cùng của lịch sử. Trong triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối
đã hoàn thành quá trình nhận thức của mình, đã khám phá ra chính mình và quay
trở về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh thần tuyệt đối là kết
quả tối cao, toàn diện và triệt để của toàn bộ lịch sử thế giới. Quan niệm đậm
chất duy tâm thần bí khiến ông đưa ra kết luận một cách siêu hình mâu thuẫn với

chính tư duy biện chứng mà ông đã cố gắng chỉ rõ trong hệ thống triết học của
mình.
Nếu Triết học tự nhiên có nhiều điểm yếu thì Triết học tinh thần là một
thành tựu vĩ đại của triết học Hêghen. Đây là học thuyết duy tâm bàn về sự phát
triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển tri tuệ, lý tính con
người. Ở đây, ông đã lý giải tiến trình phát triển xã hội theo tinh thần duy tâm
như đã phân tích ở trên. Theo Hêghen, con người là sản phẩm của một thời đại
lịch sử nhất định. Ông đề cao vai trò của cả lý tính và cảm tính, ông cũng thấy
được tính chất của xã hội và vai trò của lao động, sự phân công lao động cũng
như tính xã hội của lao động đối với sự phát triển của lịch sử và con người. Theo
ông, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả quá trình lao động của mình. Ông
đã tiếp cận được tư tưởng đề cao vai trò tích cực của hoạt động thực tiễn và nền
tảng kinh tế đối với sự phát triển của đời sống xã hội cũng như tiến trình lịch sử.
Tuy nhiên, thứ nhất, dưới góc độ duy tâm, bản thân hoạt động thực tiễn của con
người thực chất vẫn bị Hêghen coi là dạng hoạt động tinh thần. Thứ hai, do chưa
thoát khỏi lập trường giai cấp, ông chưa đánh giá đúng mức vai trò sản xuất vật
chất của quần chúng đối với sự phát triển xã hội, dù đã khẳng định hoạt động
thực tiễn cao hơn lý luận.
Ông khẳng định lịch sử thế giới là lịch sử phát triển theo khuynh hướng
tiến bộ, sự tiến bộ trong ý thức tự do. Hêghen coi sự phát triển về tự do là chuẩn
mực cơ bản đánh giá sự ưu việt của giữa các thời đại. Chỗ hợp lý của quan điểm
này là nó coi trình độ phát triển của tư duy nhân loại, cũng như sự giải phóng của
con người là tiêu chí đánh giá lịch sử nhưng tiêu chí đó không thể coi là cơ sở
duy nhất để phân kỳ và đánh giá sự tiến bộ lịch sử. Hơn thế nữa Hêghen hiểu tự
do dưới góc độ duy tâm, đó là sự nhận thức và thực hiện đầy đủ những quy luật
tất yếu của thế giới -hiện thân của ý niệm tuyệt đối, hay dưới góc độ tôn giáo, tự
do con người thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo Thượng đế. Bên cạnh những
hạn chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, triết học tinh thần của
Hêghen chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về sự phát triển xã hội cũng như tiến
trình lịch sử, làm nền tảng cho quan niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi

sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Tóm lại, phép biện chứng là linh hồn sống động của triết học Hêghen, do
bị giam hãm trong thế giới quan duy tâm thần bí, phép biện chứng duy tâm
Hêghen có mặt bảo thủ, mâu thuẫn nhưng “Tính chất bảo thủ của phương pháp
nhận thức đó là tương đối, còn tính chất cách mạng của nó là tuyệt đối - đó là
điều tuyệt đối duy nhất được triết học biện chứng thừa nhận… Đó là kết luận tất
yếu của phương pháp của ông, nhưng bản thân ông lại không bao giờ rút ra được
một cách rõ ràng như vậy… tất cả những điều đó không ngăn trở hệ thống
Hêghen bao trùm mọi lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và
phát triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người
ta vẫn còn ngạc nhiên. Hêghen cố gắng phát hiện ra và chỉ rõ sợi chỉ đỏ của sự
phát triển xuyên suốt lĩnh vực ấy. Vì Hêghen không những chỉ là một thiên tài
sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu
của ông tạo thành thời đại” (Ăngghen). Với một hệ thống triết học tương đối
hoàn chỉnh, tri thức bách khoa, kiến thức uyên bác và thiên tài của mình, Hêghen
trở thành một trong những nhà triết học vĩ đại của nền triết học nhân loại. Với
phép biện chứng tư duy, triết học Hêghen trở thành cội nguồn của triết học Mác.
3. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VỚI SỰ
RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC – TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN TRỰC TIẾP.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu- thời
kỳ chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng
công nghiệp, kinh tế phát triển mạnh mẽ và những mâu thuẫn xã hội vốn có của
nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên
lập trường của giai cấp vô sản cách mạng. Nguồn gốc lý luận của triết học Mác là
toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời đại các ông
nhưng trực tiếp là kinh tế chính trị cổ điển Anh; chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp và triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học
Phoiơbắc. Bên cạnh những tiền đề lý luận, các thành tựu khoa học tự nhiên -

những phát minh khoa học đã tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật
và phương pháp biện chứng duy vật ra đời. Triết học Mác ra đời là tất yếu lịch
sử, cùng với những điều kiện chủ quan như sự thông minh, cần cù chịu khó làm
việc và lòng yêu thương những người dân lao động của chính Mác và Ăngghen.
Phép biện chứng duy tâm Hêghen là một trong các tiền đề lý luận trực tiếp
của sự ra đời triết học Mác. Mác- Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của
triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông, đặt phương pháp biện
chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình
trong triết học Phoiơbắc, kế thừa chủ nghĩa duy vật nhân bản và làm giàu chủ
nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác và
Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Ăngghen đã từng nói “hệ thống của Hêghen, cả về phương pháp lẫn nội
dung chỉ là một thứ chủ nghĩa duy vật lộn ngược đầu xuống dưới một cách duy
tâm chủ nghĩa…người ta lấy khía cạnh cách mạng đã trình bày trên kia của triết
học Hêghen, tức là phương pháp biện chứng, làm điểm xuất phát. Nhưng dưới
hình thức kiểu Hêghen thì phương pháp ấy lại không dùng được”. Với lớp vỏ duy
tâm thần bí, giá trị khoa học cách mạng trong hệ thống triết học Hêghen-phép
biện chứng tư duy- đã không được nhìn nhận và bị những nhà triết học duy vật
trước Mác bác bỏ, mà cụ thể là Phoiơbắc. Mâu thuẫn giữa phép biện chứng
Hêghen với chính hệ thống triết học duy tâm, siêu hình chứa đựng nó đã gây ra
nhiền tranh luận mà chính Phoiơbắc là người đã giải quyết những mâu thuẫn đó
theo chủ nghĩa duy vật nhân bản, tuy nhiên, “Phoi-ơ-bắc đã đập tan hệ thống
Hêghen và đơn giản đã gạt bỏ nó ra một bên. Song chỉ tuyên bố một triết học nào
đó là sai lầm thì chưa có nghĩa là thắng được nó. Và một công trình vĩ đại như
triết học của Hê-ghen, một công trình đã ảnh hưởng lớn tới sự phát triển trí tuệ
của dân tộc thì không thể chỉ giản đơn không thèm biết tới nó mà gạt bỏ được nó.
Cần phải “xóa bỏ” nó theo ý nghĩa riêng của nó, tức là theo ý nghĩa là phải tiêu
diệt hình thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy nội dung mới mà nó đã đạt
được”(Ăngghen). Mác là người đã cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân
biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của hệ thống triết học Hêghen, hoàn

thành yêu cầu cấp bách của triết học thời đại đó.
Từ những nền tảng tư duy lý luận mà Hêghen đã đưa ra, kết hợp với tinh
thần duy vật, thì thực chất “những ý niệm trong đầu óc của chúng ta là những
phản ánh của sự vật hiện thực, chứ không xem những sự vật hiện thực là những
phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý niệm tuyệt đối…bản thân
biện chứng của ý niệm cũng chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận
động biện chứng của thế giới hiện thực; và làm như vậy, là phép biện chứng của
Hêghen đã được đặt ngược lại, hay nói đúng hơn, từ chỗ trước kia nó đứng bằng
đầu, bây giờ người ta đặt nó đứng bằng chân…mặt cách mạng của triết học
Hêghen được khôi phục lại và đồng thời được giải thoát khỏi những đồ trang sức
duy tâm chủ nghĩa, tức là những cái đã cản trở Hêghen vận dụng khía cạnh cách
mạng đó một cách quán triệt”(Ăngghen). Bên cạnh đó, Ăngghen đánh giá công
lao của Hêghen ở chỗ đã vạch ra rằng: Sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật,
không phải tuần hoàn mà luôn luôn đi lên (tuy quan điểm này của Hêghen chưa
thật triệt để bởi ông tuyệt đối hóa giá trị ý niệm tuyệt đối) và mỗi thời đại lịch sử
đều có những đặc điểm riêng, quá trình phát triển của lịch sử có sự liên hệ, kế
thừa, giữa các giai đoạn trước và sau không tách rời.Khi cải tạo phép biện chứng
duy tâm Hêghen theo tinh thần duy vật của triết học Phoiơbắc, phép biện chứng
duy vật đã được hình thành, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Đây là bước phát triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen
thực hiện. Tính duy tâm thần bí trong triết học Hêghen đã bị phê phán triệt để,
trong đó, quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa học” cũng bị triết
học Mác đoạn tuyệt. Theo đó, quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể
là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, tư tưởng biện chứng
của ông cũng đồng thời được đánh giá cao: “Tính thần bí của phép biện chứng đã
mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người
đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái và vận động
chung của phép biện chứng.”
1

1 C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
T.20,tr.494.
KẾT LUẬN
Hêghen đã để lại cho chúng ta một di sản triết học đồ sộ và vô giá. Lần
đầu tiên trong lịch sử tư duy của nhân loại, trong khi phê phán phương pháp siêu
hình, Hêghen đã nâng phép biện chứng từ dạng tự phát, kinh nghiệm lên thành
những lý luận tổng quát chặc chẽ thông qua một hệ thống các quy luật, phạm trù.
Tuy phép biện chứng Hêghen, hạt nhân duy lý trong hệ thống triết học của ông
lại mang lớp vỏ duy tâm thần bí, sơ cứng giáo điều khó hiểu làm cho hệ thống
triết học Hêghen chứa trong mình nhiều mâu thuẫn, nhưng giá trị tư tưởng to lớn
của nó cho đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Mặc dù triết học
Hêghen ngay lập tức đã có ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại
với đông đảo các môn phái như phái Hêghen già, phái Hêghen trẻ nhưng chỉ khi
Mác-Ăngghen xuất hiện thì phương pháp biện chứng- di sản quý báu nhất của
triết học Hêghen- mới thật sự được phát hiện, được đánh giá thích đáng, được
Mác tiếp thu, giải thoát khỏi lớp vỏ duy tâm bí và kết hợp với tinh thần duy vật
của triết học Phoiơbắc để trở thành phép biện chứng duy vật.
Với hệ thống triết học đồ sộ chứa đựng phép biện chứng duy tâm của
mình, Hêghen thật sự xứng đáng là một bậc thầy về tư duy biện chứng, nhà triết
học - nhà bác học vĩ đại nhất. Mác đã tự nhận mình là đồ đệ của Hêghen, đối với
Mác, Hêghen là người thầt vĩ đại về phép biện chứng và cũng là người thầy duy
nhất mà Mác tự thừa nhận. Lênin đã gọi Hêghen là nhà duy tâm thông minh, mà
chủ nghĩa duy tâm thông minh theo cách nói của Lênin trong “Bút ký triết học”
thì nó gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn là chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn
và ý niệm tuyệt đối của Hêghen mang ý nghĩa tuyệt đối duy tâm, nhưng được
Lênin đánh giá: “Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào
mà chỉ có chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ ra phải là sự trình bày
hay nhất về phép biện chứng”. Mặc dù triết học của Hêghen không phải là đỉnh
cao nhất trong lịch sử phát triển như ông đã nhận định, nhưng đây chính là bước
ngoặt lớn cho sự phát triển- bước nhảy của triết học nhân loại- sự ra đời của chủ

nghĩa duy vật biện chứng, làm cho triết học Mácxít trở thành thế giới quan và
phương pháp luận thật sự khoa học trong nhận thức lẫn thực tiễn hiện nay vì sự
tiến bộ của xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Văn Mưa và cộng sự, 2011. Triết học Phần I- Đại cương về lịch sử
triết học. Đại học

×