Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VÊĐANTA Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.67 KB, 19 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh
Viện Đào Tạo Sau Đại Học
Đề Tài
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VÊĐANTA
Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI
Học viên thực hiện: Võ Trung Nhân
STT: 49
Nhóm: 5
Lớp: Ngày 4
Khóa: 22
Giảng viên phụ trách: TS.Bùi Văn Mưa
TP.HCM, tháng 12/2012
LỜI MỞ ĐẦU
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri
thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã
và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân
sinh…. và nó như suối nguồn tuôn chảy bất tận vào hàng triệu triệu trái tim con
người trên khắp thế giới. Phương đông cũng là nơi cho ra đời nhiều tôn giáo nhất
như Phật Giáo, Ấn độ giáo, Đạo giáo, Khổng giáo, Hồi giáo…. Nền đạo học ấy
đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội phương đông ngày nay.
Nói đến phương đông không thể không nhắc đến Ấn Độ. Ấn Độ là một
trong những cái nôi của nền triết học phương đông. Và cũng chính nơi đây đã
khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ
trụ của các tôn giáo và các nền triết học”. Triết học Ấn Độ cổ đại đã hình thành
và phát triển, vừa mang tính đa dạng vừa mang tính thống nhất, tạo ra sự sống
động ,muôn màu, muôn vẻ của triết học Ấn Độ. Trong thời kỳ cổ đại, mặc dù
cùng được hình thành và phát triển từ trong truyền thống Vêđa, nhưng các trường
phái triết học Ấn Độ lại luôn xung đột lẫn nhau. Đó là sự mâu thuẫn giữa hệ
thống chính thống và phi chính thống, tiêu biểu là trường phái Vêđanta và trường
phái Phật Giáo. Vậy thì sự tương đồng và khác biệt giữa hai trường phái này là gì


? Đây cũng là đề tài cho bài tiểu luận này: “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết
học Phật giáo và triết học Vêđanta ở Ấn Độ thời cổ đại”. Bài viết giúp tìm hiểu
một cách sâu rộng hơn về những điểm tương đồng và khác biệt, đồng thời tạo ra
cái nhìn đúng đắn, tổng quan hơn về hai trường phái triết học này.
Đề tài hoàn thành dựa trên một số tài liệu tham khảo như: Doãn Chính
(2012), Lịch Sử Triết Học Phương Đông, NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật;
Doãn Chính (2011), Veda Upanishad - Những Bộ Kinh Triết Lý Tôn Giáo Cổ Ấn
Độ, NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật; Bùi Văn Mưa (2011), Triết Học Phần
I – Đại Cương Về Lịch Sử Triết Học, Lưu Hành Nội Bộ;…. và tài liệu ở một số
trang web.
Chương 1: Khái quát điều kiện lịch sử xã hội và tiền đề khoa học, văn hóa
hình thành và phát triển triết học Ấn Độ thời kỳ cổ đại và các đặc trưng cơ
bản
1. Khái quát điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội, Ấn Độ thời kỳ cổ
đại
Ấn Độ cổ - trung đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nám Á (bao
gồm cả nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay) có điều kiện tự nhiên và
cư dân rất đa dạng. Do tính đặc thù của “phương thức sản xuất Châu Á” mà ở Ấn
Độ không có sự phân chia rõ thời cổ đại với thời trung đại. Lịch sử Ấn Độ cổ -
trung đại được chia thành bốn thời kỳ: thời kỳ văn minh Sông Ấn, thời kỳ văn
minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và thời kỳ các vương triều lệ thuộc.
Đây là thời kỳ chế độ nô lệ mang tính chất gia trưởng, và chế độ công xã
nông thôn ở Ấn Độ đã khá phát triển. Các quốc gia chiếm hữu nô lệ nhỏ, phân
tán, nay có xu hướng tập trung và thống nhất lại, trong đó hưng thịnh nhất là thời
kỳ của các vương triều Magadha và vương triều Maurya.
Về kinh tế, do việc cải tiến các phương tiện sản xuất, và việc mở mang các
công trình thủy lợi đào kênh dẫn nước vào ruộng, nên diện tích đất canh tác nông
nghiệp ngày càng tăng lên. Những miền lưu vực các con sông lớn như sông Ấn,
sông Hằng, sông Brahmapoutra,… đều được khai khẩn thành những vùng kinh tế
nông nghiệp phát đạt với những ngành trồng trọt, chăn nuôi trù phú, hình thành

nên một tầng lớp mới trong xã hội, đó là tầng lớp điền chủ. Nhiều con đường
thủy bộ đã hình thành, nhất là vùng sông Hằng, đã thúc đẩy việc giao lưu buôn
bán hàng hóa trong nước và ngoài nước phát triển. Ấn Độ thời đó đã giao dịch
buôn bán rộng rãi với các nước trong vùng như Trung Quốc, Ả Rập, Trung Á và
cả với các nước vùng Đông Nam Á… Đó không chỉ là con đường giao lưu kinh
tế mà sâu rộng hơn đó còn là con đường giao lưu, truyền bá văn hóa giữa Ấn Độ
với các nước. Tuy nhiên, xã hội Ấn Độ vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của
chế độ công xã nông thôn. Hơn thế, xã hội Ấn Độ thời bấy giờ còn chịu sự chi
3
phối nặng nề của chế độ phân biệt đẳng cấp rất khắc nghiệt. Mọi quyền lợi, địa vị
xã hội đều nằm trong tay giai cấp quý tộc, tăng lữ. Các đẳng cấp thấp hèn như
tiện dân, nô lệ và những người ngoài lề đẳng cấp bị khinh biệt và đói khổ.
Đối với chính trị - xã hội, dưới thời các vua Gupta, để duy trì chế độ trung
ương tập quyền, người ta còn sưu tập những bộ pháp điển ở thời kỳ trước như bộ
luật Manu, bộ Thực lợi luận (Arthasastra) đem dung hòa với chính sách đương
thời, viết ra các bộ sách chính trị, pháp luật làm tiêu chuẩn áp dụng cho tổ chức
xã hội hiện thời; thần thánh hóa ngôi vương đến tột bậc bằng mọi biện pháp như
tuyên truyền, giáo dục; ra các luật lệ, mệnh lệnh, tạo cho nhân dân một niềm tin
và lòng sùng kính tuyệt đối trước quyền uy linh thiên tối cao của quốc vương .
2. Sự phát triển của khoa học và văn hóa Ấn Độ thời kỳ cổ điển
Cùng với sự biến đổi, phát triển về chính trị và kinh tế, thì văn hóa, khoa
học kỹ thuật Ấn Độ thời kỳ này cũng đạt được những tiến bộ đáng kể:
Trong toán học, người Ấn Độ đã nghĩ ra một hệ thống toán học về mọi
mặt, cao hơn toán học Hy Lạp, ngoại trừ môn hình học. Trong hai hệ thống tư
tưởng Ấn Độ cổ đã xuất hiện nhiều lý thuyết, phỏng đoán về nguyên tử, là yếu tố
cấu tạo nên thế giới vật chất.
Về y học, thuật giải phẩu và môn sinh lý học ở Ấn Độ thời kỳ này cũng
đã phát triển. Từ thế kỷ thứ VI TCN, họ đã biết mô tả các dây gân, cách chấp
xương sọ, thần kinh,… trong giải phẩu sinh lý người.
Về điêu khắc và kiến trúc, đến thời vua Asoka, sau một thời gian không

phát triển, nghệ thuật điêu khắc xuất hiện trở lại, gắn liền với sự nghiệp hưng
thịnh Phật Giáo của Asoka. Người Ấn Độ cổ không để những công trình kiến
trúc đồ sộ như Kim Tự Tháp ở Ai Cập hay Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc,
nhưng nó đã để lại một phong cách kiến trúc độc đáo, tinh tế, đặc biệt là lối xây
dựng đền chùa, tháp Phật theo kiểu hình tháp “topa” hay “stupa”. Phong cách
4
kiến trúc và điêu khắc của Ấn Độ đã ảnh hưởng khá đậm nét đến lối kiến trúc của
hầu hết các nước Đông Nam Á.
Ngôn ngữ và chữ viết, khi người Aryan xâm nhập vào Ấn độ họ đã dùng
tiếng nói của mình để sáng tác ra bộ Kinh Vêđa (ngôn ngữ Vêđa). Đến thế kỷ thứ
IV TCN Panini đã sáng tác ra ngôn ngữ Sanskrit (ngôn ngữ này chỉ sử dụng
trong tầng lớp quý tộc). Dân chúng mỗi vùng có một thứ tiếng khác nhau. Do vậy
ở Ấn độ có rất nhiều ngôn ngữ bình dân như Pali (ngôn ngữ của Phật Giáo), tiếng
Tamin của người Dravidien ở miền Nam Ấn Độ.
Thiên văn học, xuất hiện từ thời Vêđa, họ đã quy định được một tháng
gồm ba mươi ngày, một năm gồm có mười hai tháng…. và phỏng đoán được trái
đất hình cầu và quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ thứ V TCN, Thiên văn học
đã giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Văn học, người Ấn Độ đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ
Vêđa và các bộ sử thi: Mahabharata, Ramayana… đây là niềm tự hào của nền
văn hóa Ấn Độ.
3. Quá trình hình thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại và các trường
phái triết học tiêu biểu
a. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Thời kỳ cổ điển (còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – Phật Giáo, khoảng giữa thế
kỷ VI TCN đến thế kỷ thứ VI) gắn liền với những biến động lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội, tư tưởng làm xuất hiện hai hệ thống triết học. Hệ thống chính thống,
thừa nhận uy thế của kinh Vêđa, biện hộ cho giáo lý Bàlamôn, bảo vệ chế độ
đẳng cấp. Hệ thống không chính thổng phủ định uy thế kinh Vêđa, phê phán giáo
lý Bàlamôn, lên án chế độ đẳng cấp. Mặc dù, cùng được hình thành và phát triển

trừ trong truyền thống Vêđa, nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại luôn
xung đột lẫn nhau và sự xung đột này kéo dài cho đến hết thời trung đại.
5
b. Khái quát các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
Dưới sự tác động, chi phối, thống trị của triết lý Vêđa, Upanisát, và giáo
lý đạo Bàlamôn được mệnh danh là tư tưởng truyền thống chính thống, chính
người Ấn Độ đã phân các hệ thống triết học của họ thành hai loại lớn: hệ thống
chính thống (astika): hữu và hệ thống không chính thống (nastika): vô. Các
trường phái triết học được gọi là hệ thống Bàlamôn chính thống - tức các
dashanas – là các trào lưu bằng cách này hay cách khác đều thừa nhận ưu thế
mặc phải tối cao của kinh Vêđa và triết lý về tinh thần sáng tạo vũ trụ tuyệt đối
tối cao Brahman trong Upanisát, biện hộ cho giáo lý của đạo Bàlamôn, bảo vệ
cho chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội.
Hệ thống triết học chính thống gồm 6 trường phái, gọi là 6 darshanas
(quan điểm): Samkhya, Vêđanta, Nyaya, Vaisesika, Mimansa, Yoga.
Các trường phái triết học không chính thống, đó là các trường phái có tư
tưởng phủ nhận uy thế tối cao của kinh Vêđa và Upanisát, phê phán giáo lý của
đạo Bàlamôn, đả phá chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội.
Hệ thống triết học không chính thống gồm các trường phái: Phật giáo,
Lôkayata, đạo Jaina.
Sự phân chia đó có căn cứ lịch sử, cho thấy rõ sự ảnh hưởng thống trị của
chủ nghĩa duy tâm tôn giáo trong thánh kinh Vêđa, Upanisát và đạo Bàlamôn
trong sự phát triển tư tưởng ở Ấn Độ cổ đại. Song, một trong những đặc điểm và
động cơ thật sự của phát triển tư tưởng triết học Ấn Độ đương thời chính là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa vô thần và tư tưởng thần bí tôn giáo. Các trường phái
triết học được coi là không chính thống tuy cùng có những điểm chung nhưng
giữa họ có sự khác biệt nhau trong cả quan điểm về thế giới cũng như quan điểm
về nhân sinh.
Phản ánh hiện thực xã hội, triết học tôn giáo Ấn Độ thời kỳ này đã diễn ra
quá trình đấu tranh, tranh luận triết lý khá sôi động và gây gắt giữa các trường

6
phái triết học vô thần, “hay những người theo thuyết hư vô”,… với các môn phái
triết học duy tâm tôn giáo, đặc biệt là triết lý Vêđa, Upanisát, và giáo lý
Bàlamôn, nhằm phủ nhận quan điểm suy tôn thượng đế, chống lại những quan
điểm về sự bất tử của linh hồn, về nghiệp báo, luân hồi và sự siêu thoát của linh
hồn con người sang “thế giới bên kia”.
4. Các đặc trưng cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất: do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ
đại không thể phân chia rõ thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép
biện chứng và phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu được chia
thành hệ thống chính thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường
phái triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình.
Thứ hai: do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học
Ấn Độ cổ đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nội dung giáo lý
của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi
sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn
cá nhân con người; vì vậy triết học Ấn Độ cổ - trung đại mang nặng tính chất duy
tâm chủ quan và thần bí.
Thứ ba: triết học Ấn độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề, song nó rất quan
tâm đến việc giải quyết các vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người) nhằm tìm kiếm phương tiện, con
đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã
hội khắc nghiệt.
7
Chương 2: Khái quát về triết học Vêđanta và Phật giáo
1. Trường phái Vêđanta
Hình thành vào thế kỷ thứ II TCN, do Badarayana khởi xướng và Sankara
phát triển , tiếp nối các tư tưởng của Upanisát, đưa ra các kiến giải siêu hình và
duy tâm về nguyên nhân hình thành thế giới (vũ trũ và vạn vật).

Vêđanta là học thuyết triết học tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn trong hệ
thống triết học chính thống ở Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào tổng thuật,
chú giải, khai thác mặt triết lý có tính chất trừ tượng, uyên áo của kinh Vêđa và
kinh Upanisát – học thuyết có uy thế nhất trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ cổ đại.
Những tư tưởng cơ bản:
 Một là, thừa nhận sự tồn tại của Bratman – linh hồn vũ trụ là thực tại
tinh thần tối cao, là bản chất là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi
sự sinh thành và hủy diệt của mọi cái trong thế giới.
 Hai là, coi Atman – linh hồn cá nhân – là hiện thân của Bratman nơi thể
xác trần tục của con người và bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn nhục
dục của thể xác. Để giải thoát atman khỏi sự ràng buộc vây hãm này, con người
(atman) phải dốc lòng tu luện, suy tư, chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính
thần thánh của mình mà quay về với Bratman.
 Bà là, coi thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do vô minh của con người
mang lại
2. Trường phái Phật Giáo
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ V
TCN, do Xítđácta Gôtama sáng lập và nhanh chóng được truyền bá ở miền Bắc
Ấn Độ. Ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ
phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, đạo Phật với triết lý đạo đức nhân sinh sâu
8
sắc đã trở thành một trong những ngọn cờ tiên phong của phong trào đòi tự do tư
tưởng và bình đẳng xã hội ở Ấn Độ đương thời.
Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu nói về thế
giới quan và nhân sinh quan.
 Thế giới quan:
Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên
luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất
phác, được trình bày trong thuyết duyên khởi thông qua phạm trù vô ngã và vô
thường.

Duyên khởi có nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả
mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn nhân duyên là
nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả. Phật giáo cho
rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ
tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ
trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm
vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường: vô ngã là không có một
thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả; vô thường là không có cái gì là
trường tồn và vĩnh cữu.
 Nhân sinh quan:
Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, tư
tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo nguyên
thủy là thuyết Tứ diệu đế với bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế:
khổ đế lý luận về những nỗi khổ ở thế gian; nhân đế là lý luận về những nguyên
nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con người; diệt đế là lý luận về khả năng
tiêu diệt được nổi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn, cực lạt; đạo đế
là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát.
9
Chương 3: So sánh triết học Phật giáo và triết học Vêđanta
1. Những điểm tương đồng
Căn cứ trên cái nhìn của triết học Phật giáo và Vêđanta với tư tưởng Veda
vẫn xứng đáng là nguồn cảm hứng cho sự bộc phát những tư tưởng triết học của
dân tộc Ấn Độ. Trong một giới hạn nào đó, giữa Vêđanta và Phật giáo đã tìm
thấy nhau ở những điểm chung:
a. Vấn đề trung tâm
Tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ tuy thiên sai, vạn biệt, song đều đưa
đến một điểm then chốt, đó là việc giải quyết vấn đề nhân sinh. Những nhà tư
tưởng Ấn Độ đi tìm chân lý không phải để triết lý về những điều trừu tượng viển
vông và khô khan mà đều tập trung vào một mục đích tối cao là “tìm ra chỗ quy
hướng của kiếp người, tìm lấy một phương châm thực tiễn để quyết định cho lẽ

sống”(
1
) và đạo sống của con người. Chính ở đặc điểm này tính chất nhân bản
của triết học Ấn Độ đã tỏa sáng và luôn luôn là những bài học, những câu hỏi
sống động, hấp dẫn làm day dứt bao con tim và khối óc con người trên trái đất
này.
b. Thế giới quan và nhân sinh quan
Hai trường phái triết học này đều cố gắng đi tìm cái chân bản của con
người mà về bản chất là đồng nhất với bản thể của vũ trụ hay nguồn sống của vũ
trụ tuyệt đối vĩnh hằng, hay tìm ra cái vũ trũ tuyệt đối, sáng suốt, thanh tịnh trong
cái ta giả, cái ta hiện tượng đầy hư vọng và tham dục của con người. Nó đặt ra
những câu hỏi xung quanh vấn đề về bản ngã của con người như: Con người sinh
ra từ đâu? Con người đi về đâu ? Ý nghĩa tối cao của cuộc đời con người là gì ?
Làm thế nào để con người đạt tới cõi hạnh phúc lý tưởng vĩnh hằng ? Có thể nói,
những vấn đề về bản chất đời sống tinh thần, tâm linh, đạo đức, tâm lý của nhân
sinh là những vấn đề cốt lõi nhất của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Để tìm ra đạo
1 Kimura Taiken: Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969, tr.22
10
sống của con người và để tinh thần con người vượt qua được sự mê hoặc của thế
giới hiện tượng giả tưởng, ảo vọng khát khao vươn tới bản thể tuyệt đối tối cao,
vĩnh viễn, là nguồn sống của vũ trụ, vạch ra sự tương ứng tương đồng giữa nội
tâm và ngoại giới, giữa cái “tiểu ngã” và cái “đại ngã”, triết học Ấn Độ tất yếu
phải lý giải về tất yếu của vũ trụ, và đằng sau thế giới hiện tượng thiên hình, vạn
trạng, luôn biến đổi như ảo ảnh phù du là một thực tại chân thực có tính chất
tuyệt đối và vĩnh viễn. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con người chỉ
là những biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất, tuyệt đối, tối cao, được gọi là
“Tinh thần vũ trụ tối cao” – Bratman của phái Vêđanta hay đó là Niết bàn của
phái Phật giáo.
c. Quan niệm yếm thế và giải thoát
Do ảnh hưởng của thuyết luân hồi mà xưa kia người ta cho rằng cõi trời là

một nơi sung sướng cao tột, song cuối cùng họ lại bảo đó không phải là một chỗ
vĩnh viễn yên vui. Từ sau thời kỳ các học phái mọc lên, trong tư tưởng giới Ấn
Độ đều có khuynh hướng yếm thế. Nhưng nói cho đúng, khuynh hướng yếm thế
không nhất định là do quan niệm luân hồi phát sinh. Nếu nói theo một ý nghĩa
khác, ta có thể cho rằng, vì người ta quá tôn sùng quan niệm lý tưởng nên mới có
khuynh hướng yếm thế. Nhưng dù sao chăng nữa thì quan niệm luân hồi cũng đã
làm khuynh hướng yếm thế biểu hiện một cách rõ rệt. Đó là một sự thật lịch sử
hiển nhiên, và kết quả của khuynh hướng ấy đã khiến cho toàn thể tư tưởng giới
Ấn Độ đi tìm sự giải thoát, nghĩa là muốn thoát khỏi cái kiếp người đầy lo âu để
đến một cảnh giới lý tưởng yên vui, bất biến. Đó cũng là lẽ tự nhiên. Cho nên nói
giải quyết vấn đề nhân sinh, bất luận theo ý nghĩa nào, đều lấy sự giải thoát làm
mục tiêu. Tư tưởng giải thoát đã trở thành một trong những đặc điểm nổi bật và
xuyên suốt của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Hai giáo phái triết học này đều đi đến
một mục đích chung, một lý tưởng cao cả nhất đó là giải thoát.
11
d. Nguyên lý cơ bản
Vấn đề nghiệp lực được coi là nguyên lý cơ bản của tất hai trường phái
này, đồng thời cũng là của tất cả các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ.
Nghiệp (karma) là những hành vy thiện hay ác, do “thân nghiệp, “khẩu nghiệp”
mà con người đã tạo tác ở kiếp trước rồi chất chứa trong tâm thức của con người
để đến kiếp này trở thành động lực chi phối đến vận mệnh. Làm điều thiện thì có
nghiệp tốt ứng báo điều lành, điều tốt cho đời sau. Gây điều ác thì có nghiệp xấu
ứng báo điều xấu cho đời sau. Do đó linh hồn con người phải chịu đầu thai vào
hết loài này hay loài khác. Đó chính là kiếp luân hồi (samsara).
e. Điểm hạn chế
Cả hai trường phái đều không giải thích đúng đắn bản chất của các hiện
tượng xã hội, không tìm được nguyên nhân của mọi nỗi khổ của nhân gian. Hơn
thế nữa, cả hai đều không chỉ ra được con đường va biện pháp đích thực để cải
tạo xã hội, xóa bỏ sự đao khổ của quần chúng trong hiện thực, bằng hành động
cách mạng hiện thực.

2. Những điểm khác biệt
a. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Phật giáo: trong xã hội Ấn độ cổ đại thời bấy giờ, với sự thống trị của tư
tưởng duy tâm – tôn giáo Balamon và chế độ phân biệt đẳng cấp rất khe khắt,
nghiệt ngã. Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh
Vêđa, phê phán giáo lý Balamon, lên án chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội; đòi tự
do tư tưởng và bình đẳng xã hội. Đó là sự thể hiện ý chí phản kháng của nhân
dân lao động chống lại những bất công trong xã hội Ấn Độ đương thời.
Vêđanta: đại diện cho tâng lớp Tăng lứ, quý tộc, giai cấp thống trị trong
xã hội Ấn Độ cổ đại ra sức bảo vệ quyền lời cho chế độ mình, biện hộ cho giáo
lý Balamon, thừa nhận uy thế của kinh Vêđa.
12
b. Thế giới quan
 Phật giáo
Cho rằng thế giới về bản chất là một dòng biến ảo vô thường, không do
một vị thần sáng tạo ra cả. Do vậy, trong thế giới không thực có vật, không thực
có cái ngã, không có thực thể nào tồn tại thường định và vĩnh viễn. Theo triết lý
Phật giáo, sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là do vạn vật trong vũ
trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ
duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới…; cứ như
thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và
kết quả cuối cùng nào cả. Quá trình đó có thể diễn ra trong nháy mắt hay trong
từng giai đoạn thay đổi hẳn về chất lượng. Sự biến hóa, vận động không ngừng
của vũ trụ do nhân duyên mà Phật giáo gọi đó là” chư hành vô thường”.
Do chủ trương vô ngã, không thừa nhận linh hồn bất tử, cho nên quan
niệm luân hồi của Phật giáo căn bản được thể hiện ở tư tưởng về nghiệp và tái
sinh.
 Vêđanta
Cho rằng bản chất sâu xa của mọi cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ trụ
nảy sinh va hòa nhập về với nó khi tiêu tan, đó là linh hồn vũ trụ tối cao

Bratman. Bratman là thực thể duy nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, vô hình, vô
danh, vô sắc, là bản chất của tất cả, xâm nhập và bao hàm tất cả, ở ngoài giới hạn
của không gian va thời gian. “Bratman là nguồn sáng của mọi nguồn sáng”
(
1
)
, là
nguồn sống, là Linh hồn vũ trụ tối cao. “Tinh thần vũ trụ tối cao” Bratman biểu
hiện trong con người và chúng sinh là linh hồn cá nhân (Atman). Linh hồn cá
nhân chỉ là một bộ phận cái toàn bộ, tuyệt đối, tối cao Bratman. Nhưng vì Atman
chỉ là một bộ phận của Bratman, Atman chỉ là sự thể hiện khác nhau của Bratman
trong sự vật, hiện tượng, cho nên về bản chất Bratman và Atman là đồng nhất.
1 The Upanishads, Vol 1, Mundaka Upanishad, 1, 1, 6, Bonanza Books, New York, 1949, p.264
13
Nhưng vì Atman thể hiện trong mỗi thân xác con người với cảm giác, ý chí, dục
vọng, nên con người lầm tưởng rằng linh hồn cá nhân là cái khác với Linh hồn
vũ trụ tối cao.
Quan niệm luân hồi: cho rằng linh hồn là bất tử, trú ngụ trong các hình
thức thể xác khác nhau.
c. Quan niệm về giá trị con người
 Phật giáo
Cho rằng “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng
cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là
ở nơi hành vi của họ mà không phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã xác
định sự bình đẳng giữa người với người, không có ai là quý tộc và cũng không có
ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai cấp quy định. Đây là một
tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất rõ trong suốt quá trình
hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng cánh cửa giải thoát nhằm
tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao thượng hay hèn hạ….
Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ. Ngài

cho rằng ai cũng có thể tu tập và đạt được giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một
người cho dù xuất thân từ giai cấp Balamon cao quý hay ở những giai cấp thấp,
nếu thực hành theo giáo pháp của Ngài thì đều được thưởng thức hương vị thánh
đạo.
Điểm đặc biệt nhất là Phật giáo đã tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn.
Vì Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói
đây là một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn.
 Vêđanta
Quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có sự bình
đẳng. Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân.
14
Những người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng
tuyệt đối vào sự an bài này. thân phận con người không được tôn trọng như
nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn những
người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật chất của
những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm gì có cơ hội thăng hoa
trong đời sống tinh thần.
d. Tư tưởng giải thoát
 Phật giáo
Cho rằng giải thoát tức là trạng thái đời sống tin thần của con người vượt
ra khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục vọng và
đạt tới cảnh trí Niết bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tĩnh, không vọng động, an
lạc, bất sinh, bất diệt và tự do tự tại, bằng con đường tu luyện đạo đức giữ
nghiêm giới luật và tu luyện tri thức, thiền định, thực nghiệm tâm linh để đạt tới
giác ngộ theo “Tam hoc” (giới, định, tuệ).
Bằng học thuyết “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính
đạo”, Phật giáo đã chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của vũ trụ và thế
gian, tìm ra nguồn góc của nỗi khổ cuộc đời con người, từ đó vạch ra con đường,
cách thức để giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiệp báo, luân hồi.
Con đường cao thượng, đúng đắn nhất để đạt tới giác ngộ và giải thoát đó

là con đường trung đạo. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật đã nói: “Người
xuất gia có hai cực đoan cần tránh, một con đường thấp hèn chủ trương cuộc
sống chỉ cần khoái lạc, một con đường cực nhọc vô ích như chủ trương của phái
khổ hạnh ép xác. Con đường trung đạo thì ở giữa hai thái cực kia, có thể dẫn đến
giác ngộ và giải thoát”.
 Vêđanta
Phạm trù giải thoát được định nghĩa là sự xóa bỏ mọi ràng buộc của thế
giới nhục dục, đưa tiểu ngã (Atman) hay linh hồn cá biệt phải nhận thức được và
15
hòa nhập vào đại ngã (Bratman) hay “Tinh thần vũ trụ tối cao”. Khi đó, con
người sẽ trút bỏ được mọi sự ràng buộc, mê hoặc của thế giới sự vật , hiện tượng
hữu hình, hữu hạn, luôn luôn biến đổi như ảo ảnh phù du; diệt được mọi dục
vọng, tư lợi nhỏ nhen; vượt lên trên mọi quan niệm thiện và ác, sống và chết,
sống hòa hợp, thanh thản.
Con đường giải thoát là con đường nối liền tiểu ngã tương đối với đại ngã
tuyệt đối, bằng nhận thức trực giác nhận ra bản chất chân thực của thực tại vũ trụ,
chân bản của con người và thực tướng của vạn vật, vượt qua thế giới hiện tượng
hữu hình, hữu hạn, thường biến, giả tướng, đưa linh hồn cá biệt (Atman) đồng
nhất với tinh thần thế giới vô ngã, tuyệt đối, tối cao (Bratman).
16
KẾT LUẬN
Qua phân tích trên đã cho thấy giữa triết học Phật giáo và triết học
Vêđanta vẫn là hai trào lưu tư tưởng với hai phương tiện khác nhau, nhưng lại
giống nhau ở mục đích. Đó là việc đem đến sự giải thoát cho con người khỏi mọi
khổ đau ràng buộc, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trào lưu dựa trên tư
tưởng và giải pháp luận của riêng mình để đưa ra những phương cách rất khác
nhau như đã phân tích ở trên. Bài tiểu luận cũng đã đưa ra một bức tranh tổng
thể, cho ta cái nhìn sâu sắc hơn về hai trường phái này.
Đối với xã hội, Đạo Phật đã làm một cuộc cách mạng xóa bỏ tư tưởng giai cấp
đầy bất công, về phương diện tu tập thì đạo Phật chủ trương thực hành giáo lý

Trung Đạo đả phá con đường khổ hạnh Chính vì giá trị thiết thực ấy đã làm cho
Đạo Phật tồn tại mãi với thời gian như lịch sử đã ghi nhận : “Tại các nước Á
Đông, mọi nền đạo học, thần học hết sức phong phú, nhưng cho đến nay dần dần
tan biến đi để chỉ còn lại một Đạo Phật tồn tại và đại diện cho Đông Phương
trong thực tại sinh hoạt thế giới hiện nay”. Tất cả những điều này minh chứng
Đạo Phật có một bản sắc độc đáo riêng mà các triết phái khác không có được
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (2011), Triết Học Phần I – Đại Cương Về Lịch Sử Triết
Học, Lưu Hành Nội Bộ.
2. Chandradhar Sharma (2005) (dịch giả: Nguyễn Kim Dân), Triết Học
ấn Độ Nghiên Cứu Và Phê Bình, NXB: Tổng Hợp Tp-HCM.
3. Doãn Chính (2012), Lịch Sử Triết Học Phương Đông, NXB: Chính Trị
Quốc Gia – Sự Thật.
4. Doãn Chính (2011), Veda Upanishad - Những Bộ Kinh Triết Lý Tôn
Giáo Cổ Ấn Độ, NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật.
5. Doãn Chính (1997), Tư Tưởng Giải Thoát Trong Triết Học Ấn Độ,
NXB: Chính Trị Quốc Gia.
6. Doãn Chính và Lương Minh Cừ (1991), Lịch Sử Triết Học ấn Độ Cổ
Đại, NXB: Đại Học Và Giáo Dục Chuyên Nghiệp.
7. Trang web: />50_6-1_17-60_14-1_15-1/
8. Trang web: />2/335giaolytrungdao.html
9. 9. Trang web:
10.
11. Trang web:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: Khái quát điều kiện lịch sử xã hội và tiền đề khoa hoc, văn
hóa hình thành và phát triển triết học Ấn Độ thời kỳ cổ đại và các đặc
trưng cơ bản 1

1. Khái quát điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội, Ấn Độ thời
kỳ cổ đại 1
2. Sự phát triển của khoa học và văn hóa Ấn Độ thời kỳ cổ điển 2
3. Quá trình hình thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại và các
trường triết học tiêu biểu 3
4. Các đặc trưng cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại 5
Chương 2: Khái quát về triết học Vêđanta và Phật giáo 6
1. Trường phái Vêđanta 6
2. Trường phái Phật giáo 6
Chương 3: So sánh triết học Phật giáo và triết học Vêđanta 8
1. Những điểm tương đồng 8
2. Những điểm khác biệt 10
KẾT LUẬN 15

×