Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

CHUYÊN ĐỀ TIỂU LUẬN TÌM HIỂU VÀ SO SÁNH HAI TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ ĐẠO GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.24 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP


CHUYÊN ĐỀ TIỂU LUẬN
Đ TI:
TÌM HIỂU VÀ SO SÁNH HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT
HỌC NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
GVHD : TS. BÙI VĂN MƢA
HVTH : LÊ THỊ TỐ QUYÊN
MSHV : 55
Nhóm : 6
LỚP : K22_ NGÀY 4


TP. HÔ
̀
CHI
́
MINH, 12/2012
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 2 -

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử
trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái


nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn
minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng
đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giớ0i.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc,
khuôn mẫu đạo đức nhất định, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn
hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc
riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về triết học Nho gia và Đạo gia và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội
Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là
trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh
hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho gia
và Đạo gia, em đã ra đề tài: “ Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia”.
2. Giới thiệu kết cấu chuyên đề tiểu luận
Chương 1: Trường phái triết học Nho Gia
Chương 2: Trường phái triết học Đạo Gia
Chương 3: So sánh hai dòng tư tưởng Nho gia và Đạo gia
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 3 -

CHƢƠNG 1: TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Những tiền đề cơ bản của Nho gia
Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên dưới thời
Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng trầm của
lịch sử, Nho giáo ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở những khía
cạnh, mức độ khác nhau

Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ chuyển giao từ hình thái
chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phương Đông nên Nho giáo thời kỳ này
chịu ảnh hưởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.Giống như các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là một học thuyết chính trị
xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất
định.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển biến từ
thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã đem lại
những bước tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong sản xuất
thủ công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ
công nghiệp ra đời và phát triển như luyện sắt, rèn, đúc…
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đạt được nhiều
thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thương nghiệp cùng nhiều trung
tâm buôn bán trao đổi hàng hoá được mở rộng hơn. Thành thị xuất hiện và trở thành
một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội hình thành tầng lớp quý tộc mới có
thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con em
quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho
việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc đang bước
dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không còn được coi
trọng như trước. Các nước Chư hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át nhà Chu. Mâu
thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình trạng trật tự lễ,
nghĩa, cương thường bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chư hầu lấn quyền
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 4 -

thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rối
loạn"[35;4]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ chức và quản lý
xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là làm thế nào để

thiết lập lại trật tự, kỷ cương đưa xã hội vào thế ổn định để phát triển.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren như trên đã làm nảy sinh một
loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học khác nhau. Tất cả đều đứng trên lập
trường của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một biện pháp khắc
phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đương thời. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia
tranh minh", "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thày). Trong đó, xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng, nhiều hệ thống, trường phái triết học như Nho giáo, Đạo giáo, Mặc gia, Pháp
gia…
1.2 Những quan điểm triết học cơ bản của Nho gia
1.2.1 Những quan điểm về giáo dục – con người của Nho gia được thể hiện ở những
tư tưởng chủ yếu sau:
Tư tưởng giáo dục được coi là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo và nó
được xem như một thành tố gắn liền với tư tưởng chính trị, xã hội, đạo đức
Trong quan niệm của các nhà nho, xã hội lý tưởng chỉ có thể thực hiện được khi mọi
người được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. "Giáo dục cũng là một trong những biện
pháp chính trị để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự kỷ cương
và tạo ra mẫu người lý tưởng" [3; 41]. Muốn cho Nho giáo có thể thấm sâu đến mọi
tầng lớp trong xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc truyền bá tư tưởng
qua con đường giáo dục cùng với sự thịnh trị của chế độ phong kiến, Nho giáo ngày
càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhờ đó, giáo dục Nho giáo cũng được
đẩy mạnh để tuyển lựa những người trung thành với bộ máy cai trị, góp phần vào sự
phát triển của chế độ phong kiến.
* Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của giáo dục Nho giáo trong việc
thay đổi bản tính con người.Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản
của Nho giáo. Nó không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con
người mà còn đặt cơ sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 5 -


mình. Đây được xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái
bình, thịnh trị.Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho
giáo là Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về
tính ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau
mà xa nhau" [14; 614]. Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn
toàn trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì cái
bản tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng trong
quá trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản tính của
con người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác nhau."Người ta
sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn sống chẳng qua nhờ may mắn thoát
chết" [14; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng để giữ được bản tính lành trong mỗi
con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá. Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề
"tính người" song những tư tưởng, những quan niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa
to lớn với các nhà nho sau này. Tiếp thu và kế thừa quan điểm của Khổng Tử, Mạnh
Tử cho rằng: "Bản tính người ta vốn thiện cũng như nước chảy xuống thấp vậy" [14;
1193]. Ở đây, Mạnh Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã
hội. Con người ta sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài
cầm thú. Con người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh tác
động. Tư tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng Tử.
Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính thiện
của con người. Đối lập với quan niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định: bản tính
con người là ác, thiện là do con người làm ra. Tuân Tử xuất phát từ việc nhìn nhận
con người từ bản năng tự nhiên khác với Mạnh Tử xuất phát từ nhìn nhận, xem xét
con người từ phương diện đạo đức, xã hội. Tuy coi bản tính con người là ác nhưng
Tuân Tử cho rằng có thể uốn nắn được cái bản tính ấy nhờ giáo hoá, giáo dục mà
phương thức tốt nhất để loại trừ nó là học tập, rèn luyện. Quan niệm về bản tính con
người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập, trái ngược nhau song đều thống nhất ở
chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học
thuyết của mình cả hai ông đều chưa nhận thấy được con người là thực thể thống nhất
giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến

Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 6 -

thuyết tính người của Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy… không
phân biệt thiện với bất thiện" [14; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của
con người không thiện cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động
của hoàn cảnh xã hội và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người. Mặc dù có sự
khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người nhưng các nhà Nho đều
khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất thành bất biến mà có thể
thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh. Phương thức tốt nhất để giữ
được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy nghĩ và hành động theo điều
thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí,tín. Đó là điều có thể lý giải tại sao
Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và coi đây là công cụ cai trị.
Mục đích của giáo dục: Nhằm đào tạo ra lớp người đáp ứng yêu cầu của giai cấp
thống trị, bảo vệ đặc quyền lợi của giai cấp phong kiến, duy trì, ổn định trật tự xã hội.
Quan trọng hơn, giáo dục Nho giáo có mục đích đào tạo ra những bậc quân tử là
những con người mẫu mực có tài trí, đạo đức đem hiểu biết của mình áp dụng vào
cuộc sống và cai trị thiên hạn . Ngoài ra giáo dục Nho giáo còn giáo dục đạo lý làm
người cho dân chúng để họ tuân theo những quy định phép tắc của lễ giáo phong kiến,
khuyên họ an phận thủ thường sống theo đúng danh phận của mình. Tóm lại, tất cả
đều nhằm mục đích đưa xã hội từ loạn lạc trở về thái bình thịnh trị để củng cố, bảo vệ
quyền lợi địa vị của giai cấp phong kiến. Mục đích của giáo dục Nho giáo không nằm
ngoài mục tiêu chính trị. Đối tượng của giáo dục: Trong Luận ngữ Khổng Tử nói "hữu
giáo vô loại" tức là giáo dục không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp.
Nho giáo không chỉ coi tầng lớp quý tộc, thống trị là đối tượng của giáo dục mà người
dân bình thường cũng là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Nhưng thực tế thì không
phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Bởi vì thứ nhất, trong xã
hội phong kiến thì người dân không phải ai cũng có điều kiện để học tập, đặc biệt là
người nghèo khổ. Thứ hai, một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại” nhưng mặt

khác, ở chỗ khác thì đối với người nông dân, những người hèn kém về mặt đạo đức thì
ông lại áp dụng chính sách ngu dân. Đặc biệt, Nho giáo không tính đến vai trò của
người phụ nữ và kẻ tiểu nhân trong việc giáo dục, giáo hoá. . Mạnh Tử cho rằng
không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục. Theo ông, điểm khác nhau
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 7 -

giữa con người và con vật chính là ở tứ thiện tâm: Trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị phi. Ở
kẻ tiểu nhân thì ngay từ khi lọt lòng mẹ đã mất đi những điều này. Tức là trong quan
niệm của Mạnh Tử thì kẻ tiểu nhân không thể là đối tượng của giáo dục.
Tuân Tử thì cho rằng kẻ tiểu nhân ngay từ khi sinh ra mãi mãi là kẻ tàn bạo, gian ác
thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng rèn luyện và họ không phải là đối tượng
của giáo dục. Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng có cùng một quan niệm cho rằng
thứ dân, kẻ tiểu nhân không phải là đối tượng của giáo dục và cho dù có được học
hành thì dưới con mắt của các nhà Nho, người cầm quyền, thì họ cũng chỉ là những kẻ
hạ ngu "không nghe theo giáo hoá" khinh nhờn lời dạy của thánh nhân.
Như vậy, xét về đối tượng giáo dục, Nho giáo thể hiện tính chất bất bình đẳng, tính
chất giai cấp rõ rệt. Chứng tỏ, trong xã hội, mà giai cấp bóc lột là kẻ thống trị thì
không có nền giáo dục bình đẳng không phải ai cũng được học hành.
Nội dung của giáo dục Nho giáo:không nằm ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh và những lời
dạy của bậc thánh hiền tức là không ngoài những nguyên lý đạo đức cơ bản của Tam
cương, Ngũ thường. Trong nội dung giáo dục của mình, Nho giáo còn đề cao việc
giáo dục đạo trị nước" cho con người. Nho giáo còn chủ trương dùng hình, pháp và
luật để giáo hoá, giáo dục nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì trật tự xã hội bảo
vệ lợi ích giai cấp phong kiến. Nhìn chung, nội dung giáo dục là sát với vấn đề thực tế
nhưng hạn chế lớn hất là chưa bao giờ dạy cho con người những tri thức về tự nhiên,
khoa học tự nhiên, lao động sản xuất. Vì vậy đã đào tạo ra những con người thuần tuý
sách vở chỉ biết nghe theo lời dạy của thánh hiền mà mất đi khả năng chủ động, sáng
tạo trong lĩnh vực sản xuất, thụ động trước những biến đổi của thời cuộc.

Phương pháp giáo dục: thứ nhất Nho giáo đề cao phương pháp nêu gương trong giáo
dục. Thứ hai là phương pháp "ôn cố nhi tri tân" (ôn cũ biết mới). Thứ ba là phương
pháp phân loại học trò. Phương pháp thứ tư mà Nho giáo chú trọng đến là phương
pháp "gợi mở vấn đề". Thứ năm là phương pháp học đi đôi với hành. Nho giáo còn
đưa ra nguyên tắc cho cả người dạy và người học "học không biết chán, dạy không
biết mỏi". Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và tích cực song xét một cách tổng thể quan
niệm về nội dung, mục đích, đối tượng, phương pháp giáo dục của Nho giáo không
tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh xã hội quy định. Với tất cả những gì đã làm
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 8 -

thì giáo dục Nho giáo được đánh giá cao và có ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam nói
riêng, xã hội phong kiến nói chung và cho tới ngày nay
1.2.2 Những quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư
tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người
nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của
xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba
rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua- tôi,
cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn
nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ.
” Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam cương”,
Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc
biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị
Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội
đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một
“xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng- tôi hiền, cha từ-
con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ

vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc
cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và
chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong
việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với
những kẻ cộng sự ”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lế”
được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức.
Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con
không giữ đúng đạo con nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính
danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và cha
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 9 -

đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù
rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha
mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi
được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.”
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc,
chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó
là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là
tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết
vua Trụ.
Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
“đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo
dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng
giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác
như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân

trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi
là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa
người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức
chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng
trong triết lý nhân sinh của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống
đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua
những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá
con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên
hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng
người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có
nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu
hoạch hết quả”
Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân”
chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung quy
lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 10 -

cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” ,
“việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người mới
có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được
phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với “thiên lý”. Nhưng người
muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Người nhân
có dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành
động một cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn.
Người nhân có dũng mới tự chủ đựoc mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi
cơn thiếu thốn cực khó không nao núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung

túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
Thứ tư: Vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị – xã hội
đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung hoa thời cổ phải đặt ra và
giả quyết vấn đề bản tính con người. Trong Nho gia khong có sự thống nhất quan
điểm về vấn đề này nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông “bản tính
người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi
mới sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa
Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị- đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên.
Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con
người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn
là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ
quan điểm đó về tính người, Tuân tử đã chủ trươngđường lối trị nước kết hợp Nho gia
với pháp gia.

1.3 Ý nghĩa phƣơng pháp luận

So với các học thuyết khác, Nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp
thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 11 -

Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều
giai đoạn lịch sử trung Đại; Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn cả
là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng
Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình DI (thời Tống).

Trong bối cảnh nước Trung Quốc thời Xuân Thu, một xã hội loạn lạc, cha không ra

cha, con không ra con, mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. Chủ trương dùng “Nhân” để
giáo hoá con người, cải biến xã hội từ loạn thành trị của Nho gia đã biểu hiện tính tích
cực, tính nhân bản của đạo Nho. Nhưng do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của các
sự biến lịch sử và bị những quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp cải biến con
người và xã hội của Khổng Tử chỉ đạt ở mức cải lương, duy tâm chứ không phải bằng
cách mạng hiện thực
- Trong triết học của Khổng Tử các phạm trù “nhân” “lễ”, “trí”, “dũng” có nội dung
hết sức phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm nhập vào nhau vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nó luôn cố gắng giải đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và đây
có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của ông.
- Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên trong triết học của Khổng Tử
luôn chứa đựng những mâu thuẫn giằng co, đan xen giữa những yếu tố duy vật, vô
thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo
thủ, phản ánh tâm trạng bị giằng xé của ông trước biến chuyển của thời cuộc.Tính
không nhất quán ấy của ông đã là cơ sở để các thế hệ sau khai thác, xuyên tạc theo
khuynh hướng duy tâm, tôn giáo thần bí. Nhưng dù sao ông cũng xứng đáng với lòng
suy tôn của nhân dân Trung Quốc

Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là những quan
niệm của ông về tự nhiên về lịch sử xã hội cũng như về luôn lý đạo đức, nhưng trong
học thuyết về chính trị xã hôị với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân” có ý nghĩa tiến
bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Vì thế Mạnh Tử xứng
đáng được hậu thế phong ông là bậc á thánh.
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 12 -

- Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ thì những tư tưởng của triết học Nho gia tuy còn
nhiều yếu tố duy tâm khi lý giải về những vấn đề xã hội, thiếu khách quan khoa học
nhưng so với các quan điểm duy tâm, tôn giáo, chiết trung, nguỵ biện của bọn quý tộc

cũ, đã là một bước tiến dài trong lịch sử triết học Trung Quốc thời cổ đại.
- Những tư tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế kỷ VI trước công nguyên,
trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết
học về luân lý, đạo đức chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Nhất là trong
giai đoạn hiện nay nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa quan hệ
với các nước trên thế giới, với sự du nhập của văn hoá phương Tây, ở một khía cạnh
nào đó, một số giá trị đạo đức cũng bị thay đổi, thì những tư tưởng về chữ Nhân của
con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay.

Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường, nhiều
người vì chạy theo lợi nhuận mà đôi khi làm lợi cho mình nhưng lại làm hại cho người
khác, điều này là trái với những tư tưởng của đạo Nho

Trong kinh doanh, việc đạt chữ Tín lên đầu có ý nghĩa rất lớn nhất là trong giai đoạn
hiện nay, chúng ta mở cửa quan hệ với các nước trên trế giới, với việc đầu tư của các
nhà tư bản lớn trên thế giới thì một sự bất tín vạn sự bất tin.

Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng của Nho
gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại.

Hiện nay, trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với người trong xã hội,
chữ “lễ”, chữ “nghĩa” đôi khi đã bị xem nhẹ. Do vậy, vận dụng những tư tưởng đạo
đức của Nho gia vào việc giáo dục con người là hết sức có ý nghĩa.

Tuy nhiên bên cạnh đó những tư tưởng của Nho gia cũng có một số hạn chế đó là lối
sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong gia đình người
cha, người chồng, người anh cả là người có quyền lực cao nhất, người phụ nữ trong
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 13 -


gia đình bị phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, không có quyền tham gia vào những việc
đại sự trong gia đình. Đặc biệt đạo “tam tòng” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu từ tòng tử), (ở nhà thì phải nghe theo cha, đi lấy chồng theo chồng, chồng chết
theo con) đã trói buộc người phụ nữ họ không có quyền tự chủ quyết định cuộc đời và
tương lai của mình.

CHƢƠNG 2: TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ĐẠO GIA

2.1 Những tiền đề cơ bản của Đạo gia
2.1.1 Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù
“Đạo”, một phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia
xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh
Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và
sau đó có tác động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết
học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở
Trung Quốc và một số nước châu Á khác.
2.1.2 Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa nhận
và tôn vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử
được sánh ngang với Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh
Hà Nam. Tiểu sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương
truyền, trước khi Lão Tử cưỡi trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn
Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm Cốc) viết lại "Đạo Đức Kinh", gồm 81 chương.
Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Các học giả hiện đại đánh giá, đó là
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4

Trang - 14 -

một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như muốn người đọc phải tự
lí giải. Chính vì vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận
giải, ông phải sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN).
Tư tưởng của ông được diễn đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng
hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ thuyết của ông là quý sự sống, trọng bản thân.
Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không chịu mất một sợi lông để làm lợi
cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một
trong hai bộ kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có
nhiều điểm lấy từ Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng
thuận. Một số nhà nghiên cứu sau này cho rằng phần lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa
kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
2.2 Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia
Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại
không đi sâu vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền
thống triết học phương Tây, mà tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan
và thống nhất với tự nhiên, trực giác tâm linh và phi lý tính. Nó được thể hiện qua các
tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa kinh” của Trang Tử và một số tư
tưởng của Dương Du được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh Tử”, “Nam Hoa
kinh”, “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc
biệt là giữa Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính
yếu của phái Đạo gia đều thống nhất trên nên tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng
biện chứng và quan điểm “vô vi”. Dưới đây xin trình bày khái quát về ba quan điểm
triết học cơ bản đó.
2.2.1 Quan điểm về “ĐẠO”
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 15 -

“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ,
nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh
của Lão Tử. Theo tiếng Hán cổ, Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên
lý"…
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có
thể gọi được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là
mẹ của vạn vật” (Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô
danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu – Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo
chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy
được, thấy được không còn phải là nó nữa.Có thể nào lấy trí mà hiểu được cái hình
dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho đạo” (Nam
Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của
tồn tại và phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương
và nhờ sự chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
“Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo
Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng.
Nhưng nó không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây.
2.2.1.1 Thể của Đạo
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn
không tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc
và cái trống rỗng. Nó là “đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”,
“thái cực” và đồng nhất với “đạo” nói chung, có sức sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo
sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài
trước cả tiên đế” (Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa,

khi chưa có trời đất, làm thiêng liêng quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 16 -

thái cực mà chẳng là cao, ở dưới lục cực mà chẳng là sâu. Sinh trước trời đất mà
chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là già” (Nam Hoa kinh, Đại tông sư). Đạo
sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự nhiên, không ý
chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình. Nhờ đó mà trời đất
vạn vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng…
2.2.1.2 Tướng của Đạo
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định
nào ngoài vẻ tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền
diệu, nhìn không thấy, nghe không được, không nắm được, không nếm được, không
ngửi được, không sáng, không tối… “Thoắt lặng không hình, biến hóa không
thường ” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, Thiên hạ). Nói chung, Đạo không thể cảm giác,
không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào.
2.2.1.3 Dụng của Đạo
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi,
sản sinh, nuôi dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn,
vô cùng, vô tận… theo trật tự của Đạo. Đạo làm cái không làm, săn sóc cái không
việc, không làm mà như đã làm, đã làm mà như không làm…
Nói tóm lại, Đạo gia đã đề cập đến Đạo một cách phi thường, siêu việt, không đứng
trên lập trường duy vật hay duy tâm thuần túy, mà ta chỉ nhận biết được điều đó khi
xem xét trong quá trình đề cập đến sự vận hành, tác động của nó.
Khi dùng hai chữ “đạo đức”, tức là vừa nói tới mặt bản thể của “đạo” nói chung vừa
nhấn mạnh thêm mặt Dụng. Khi Đạo ở dạng “thể” thì không có tên, nhưng đến
“dụng” (đức) thì có tên. Vạn vật nhờ “đức” mà có tên, phân biệt, lễ nghĩa… Cho nên:
“Mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi sinh nhân, mất nhân sinh nghĩa, mất nghĩa sinh
lễ…” (Đạo đức kinh). Nó ẩn chứa lý lẽ sống chưa hiển lộ.

2.2.2 Quan điểm “Vô vi” về chính trị - xã hội
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 17 -

“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là
phải tiến hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo,
không cố gắng hoạt động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì
“Đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng
nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính” (sđd,
Chương 42). Dương Chu giải thích thêm: “Các sinh vật khác không phải là của ta,
nhưng đã có chúng rồi thì không được diệt trừ chúng đi” (Liệt Tử, chương VII).
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự
vật. Nếu để mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Cũng như:
“Ngũ sắc làm cho mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cưỡi
ngựa săn bắn làm cho lòng phát cuồng, vật khó khiến cho lòng tà vậy” (Đạo đức kinh,
chương 12). Những ai không biết thuận theo bản tính tự nhiên thuần phác, theo Dương
Chu, đó là những kẻ “ham sống lâu, ham danh vọng, ham địa vị, tiền tài. Vì ham bốn
cái đó nên sợ quỷ, sợ người, sợ kẻ có quyền uy, họ sống hay chết thì số mệnh của họ
cũng tùy thuộc vào ngoại vật” (Liệt Tử, chương VII).
Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”,
chống lại chủ trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì
coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Nó là
nguyên nhân gây ra điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục,
nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng
nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng
thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, chương 57).
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị
là bọn ăn bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ
chẳng “vô vi”.

Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự
giàu. Ta vô dục mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 18 -

giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con
người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho
dân sáng mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (sđd,
chương 18). Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham
muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự
nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt,
bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48). Cũng như: “Không chuộng
hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy
vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm
cho dân lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không
biết, không muốn” (sđd, chương 3).
Bản thân Dương Chu, mặc dù có lúc trọng trí khôn, nhưng ông vẫn bảo: “Trời kia còn
không biết, huống chi là con người”. Hễ “cái gì không biết tại sao, thì gọi đó là mệnh
trời”, “thuận mệnh” tự nhiên (Liệt Tử, chương VI).
Mẫu hình xã hội lý tưởng của Lão Tử là “nước nhỏ, dân ít. Dù khí cụ gấp trăm gấp
chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi
đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ
văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm
chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể
nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy đến già chết
mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, chương 80). Xã hội được cai trị bằng
cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã được cai trị… Con người sống tự nhiên
thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng, không cần đến cả tri thức, văn hóa hay bất

cứ sự tiến bộ xã hội nào…
Tư tưởng “vô vi” quan niệm về mẫu người lý tưởng như sau: “Bậc toàn thiện xưa tinh
tế, nhiệm màu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng khả dò… thận trọng dường qua sông
lạnh, do dự dường sợ mắt ngó bốn bên, nghiêm kính dường khách lạ, chảy ra đường
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 19 -

băng tan, quê mùa dường gỗ chưa đẽo gọt, trống không dường hang núi, phan lẫn
dường như nước đục” (sđd, chương 15). Trang Tử bảo họ “không ham sống, không
gét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi” (Nam hoa
kinh, Đại tông sư). Ấy là bậc “thánh nhân”, “chân nhân”.
2.2.3 Một số tư tưởng biện chứng
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội
nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn
gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi
phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh
hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật
căn bản chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
2.2.3.1 Luật quân bình (luật bù trừ)
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời
đất; là trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến
đổi theo một trật tự điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền,
cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ thì mới, ít thì được, nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức
kinh, chương 22); “Đạo của trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu” (sđd, chương 42); “Một âm
một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt” (Trang Tử, Nam Hoa kinh).
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất
cả. Nước ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh
mông rộng lớn, không gì không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu

hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh thì không gì hơn được nó, không lấy gì thay thế
được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 20 -

Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn
vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì
không đứng vững, xoạc chân ra thì không bước được…”.
2.2.3.2 Luật phản phục
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự
vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược
lại để trở thành tính chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu thao hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn,
nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng
tròn lại khuyết, trăng khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi
vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”),
“đến chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh
ra, ta lại thấy nó trở về với gốc. Ôi! Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó.
Trở về với cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là quay về với mạng” (Đạo đức kinh, chương 16).
Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên sơ,
tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không thể cưỡng lại. “Đạo pháp tự nhiên” là
vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định sẽ thất bại.
2.3 Ý nghĩa phƣơng pháp luận
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai
ngàn năm, và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực
về mặt phương pháp luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận
thức lẫn trong hoạt động thực tiễn.
2.3.1 Ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động nhận thức

Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 21 -

Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một
số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách
quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong
phú, thể hiện ra muôn hình vạn trạng, với các mặt đối lập và vô vàn các mối liên hệ.
Thế giới ấy không do ai sáng tạo ra hoặc chi phối nó dưới bất kỳ hình thức nào, mà tự
sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc,
siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận
thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp
nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con
người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham
muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược
bánh xe lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ
cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ
mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được
sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tưởng tới và rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián
tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực
và tiến bộ, thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và
phát triển quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy
tâm, quan điểm siêu hình… Ngược lại, nếu nhìn về những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn
chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng tuần hoàn
thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri…
2.3.2 Ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn

Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 22 -

Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong
hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và
vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và
chuốc lấy hậu quả khôn lường, như Lão Tử cảnh báo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà
khó lọt” (Đạo đức kinh, chương 73).
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo
tự nhiên”, không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo
những toan tính lợi ích tầm thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu
sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn
đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính trị - xã hội, một hệ lụy trực
tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền “văn minh”
không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống
nói chung, gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy
hoại môi trường một cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi
con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải
luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ
động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại,
không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham
lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ…
Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên
mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ
trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang

trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 23 -

thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài động vật bậc cao được sinh
ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người.
CHƢƠNG 3: SO SÁNH HAI DÒNG TƢ TƢỞNG NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
3.1. Nét đặc thù của hai dòng tƣ tƣởng Nho gia và Đạo gia
3.1.1 Bàn về vũ trụ và bàn về nhân sinh
Hai trường phái tư tưởng này nói chung đều bày tỏ về nhân sinh quan và vũ trụ
quan. Tuy nhiên, nội dung của Nho gia hầu như đặt trọng tâm ở những vấn đề của thế
sự, xã hội. Đó là các vấn đề chính trị, pháp luật, việc trị - loạn, việc bình định xã hội,
quan điểm về giá trị đạo đức, thẩm mỹ, v.v
Tất cả những cố gắng của Nho gia là tổ chức ổn định trật tự xã hội. Một trong
những nội dung quan trọng của học thuyết là nói về chính trị. Khổng Tử khẳng định
“Đạo người thì chính trị là việc lớn” (Nhân đạo chính vi đại - Lễ ký: Ai công vấn,
XXVII). Ông đề ra cái gốc của chính trị, nguyên nhân của trị loạn, và rất nhiều các
biện pháp làm chính trị (noi theo thánh hiền, bồi dưỡng người quân tử, thuận lòng dân,
v.v.). Những vấn đề khác mà Khổng Tử đề cập đến cũng nhằm ổn định xã hội là việc
giáo dục, kỷ cương luân thường đạo lý, lễ nhạc, v.v. đều là những vấn đề của nhân
sinh.
Mục tiêu của Nho gia là đào tạo con người thành “thánh nhân”. Khái niệm
“thánh nhân” ở đây không siêu hình, không phải chỉ bậc tiên thánh có phép thuật, có
năng lực siêu nhiên, mà chỉ người có tài đức, có khả năng cai trị thiên hạ. Chữ “Nho”
được nhiều sách diễn giải ý nghĩa là chỉ người cần dùng cho xã hội. Khái niệm “Đạo”
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 24 -


của Nho gia nguyên thủy cũng không mang tính siêu hình. “Đạo” đây là đạo của thánh
nhân truyền lại, cụ thể là đạo truyền từ Nghiêu Thuấn, là đường đi, là cái lý, cái giá trị,
cái chuẩn mực, v.v. phải theo.
Nội dung của những vần đề về bản thể luận, vũ trụ, thiên địa, quỷ thần, v.v.
trong Nho gia không đủ sâu rộng. Quyển Chu Dịch là một trong những quyển sách
căn bản của Nho gia, chứa nội dung phong phú về hình nhi thượng. Nhưng xét cho
cùng, với nguồn gốc còn chưa được truy cứu rõ ràng, với thời gian hoàn thành được
xác định trong hàng ngàn năm, và là thành quả của công sức nhiều người, nên điều có
thể khẳng định là đây là tác phẩm của phái Dịch học. Đặc biệt, phần Dịch truyện được
viết từ cuối Xuân Thu trở đi, bao gồm cả tư tưởng của Nho và Đạo. Những tác giả
phần Truyện có đem tư tưởng của Nho, Lão “cột” vào phần Kinh, làm cho Chu Dịch
trở thành một tác phẩm triết lý có đủ vũ trụ quan và nhân sinh quan [5:105]. Nho gia
mãi đến đời Tống mới xây dựng hoàn chỉnh Đạo học, có hấp thu tư tưởng của Đạo gia
và Phật học.
Đạo gia quan tâm nhiều đến vũ trụ quan trước khi bàn về nhân sinh quan. Sở dĩ
gọi là Đạo gia, lý do cơ bản là ở chữ “Đạo”. Lão Tử đã xây dựng một học thuyết hoàn
chỉnh về vũ trụ quan. “Đạo” ở đây là khái niệm trừu tượng, là “bản nguyên của vũ
trụ”, “có trước trời đất”, v.v Ở học thuyết của Khổng, phần hình nhi thượng là phần
tinh thần của Khổng giáo, phát hiện ra ở phần hình nhi hạ, tức là phần thiết thực ở đời
[7:69]. Ở học thuyết của Lão, “chỉ Lão Tử mới trình bày rõ ràng một vũ trụ quan làm
cơ sở cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ; nhân sinh quan và chính
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 25 -

trị quan chỉ là tự nhiên quy kết của phần vũ trụ quan” [4: 53]. Như vậy, Nho gia đặt
phần nhân sinh quan làm nội dung nền móng, ngược lại, Đạo gia đặt phần vũ trụ quan
làm nền móng.
3.1.2. Hữu vi và vô vi
Hai từ hữu vi và vô vi, về nghĩa đen của từ, chỉ hai trạng thái trái ngược nhau

“có làm” và “không làm”. Hai khái niệm này trong phạm trù tư tưởng triết học thì
chưa hẳn là hoàn toàn trái nghĩa nhau, bởi khái niệm “vô vi” của Đạo gia khá phức
tạp. Tuy nhiên, đây vẫn là tôn chỉ khác nhau cơ bản giữa hai dòng tư tưởng Nam Bắc.
Nho gia, với tư tưởng mưu cầu “bình thiên hạ”, chủ về “hành động” và có các
thủ thuật hành động riêng.
Một số “hành động” được Nho gia đề ra như phải dạy dỗ dân, tề dân, khiến
dân, ngăn cấm dân: thánh nhân trị dân và hóa dân là phải dùng cả chính lẫn hình. Bậc
thái thượng lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề dân. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà khiến dân,
và lấy hình mà ngăn cấm: hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc hóa dân mà
dân không theo, để đến hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng hình vậy” [7:136]
(“Thánh nhân chi trị, hóa dã, tất hình chính tương tham yên. Thái thượng dĩ đức giáo
dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ, dĩ chính sự đạo dân, dĩ hình cấm chi, hình bất hình giã.
Hóa chi phất biến, dân chi phất tòng, thương nghĩa nhi bại tục, ư thị hồ dụng hình hỹ”
Khổng Tử gia ngữ: Ngũ hình giải, XXX); phải làm cho dân nhiều, làm cho dân giàu,
và dạy cho dân biết lễ nghĩa: Học trò Nhiễm Hữu hỏi: “(dân) đã đông vậy, lại nên
thêm gì nữa?” Khổng trả lời “Làm cho dân giàu”. Học trò lại hỏi tiếp “Đã giàu rồi lại

×