TIỂU LUẬN
Tìm hiểu mối quan hệ giữa phân
công lao động xã hội và xã hội
hoá sản xuất qua một số tác
phẩm thời kỳ đầu của Mac
1
LỜI MỞ ĐẦU
Phân công lao động xã hội chính là sự chuyên môn hoá sản xuất trong
phạm vi xã hội. Trong các xã hội cũ, phân công lao động xã hội diễn ra có
tính tự phát, còn trong xã hội chủ nghĩa, phân công lao động xã hội được tiến
hành một cách tự giác.
Phân công lao động xã hội phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội, đồng thời mỗi bước tiến của sự phân công lao động xã hội lại
có tác dụng thúc đẩy lực lượng s
ản xuất của xã hội phát triển, lực lượng sản
xuất của xã hội phát triển lại tạo ra năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy
cao, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất diễn ra mạnh hơn. Bởi bậy xã hội
hoá sản xuất vừa là tiền đề vừa là kết quả của phân công lao động xã hội. Xã
hội hoá sản xuất cao chính là cái đảm bảo cho phương thức sản xuấ
t xã hội
chủ nghĩa chiến thắng phương thức sản xuất cũ. Điều này càng có ý nghĩa
quan trọng trong việc đưa nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX. Các Mac đã làm cuộc cách mạng trong lịch sử
các học thuyết kinh tế và triết học xây dựng nên học thuyết của chính mình.
Học thuyế
t của C.Mac ra đời là sự kế thừa những học thuyết của các đại biểu
xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã
hội khoa học. Quan niệm của chủ nghĩa Mac đã vạch rõ sự phát sinh, phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ,
đồng thời cũng vạch rõ nhữ
ng khuyết tật và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới tiến
bộ hơn đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Mà nguyên nhân sâu
xa chính là mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản
xuất. Điều này được thể hi
ện rõ trong các tác phẩm thời kỳ đầu của Mac như
bản thảo kinh tế triết học, gia đình thần thánh, hệ tư tưởng Đức, tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, tiền công giá cả
và lợi nhuận…
2
Để nghiên cứu những cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa phân công lao
động xã hội và xã hội hoá sản xuất, nhằm quán triệt hơn nữa đường lối quan
điểm của Đảng ta về vấn đề này. Chính vì vậy em chọn đề tài: "Tìm hiểu mối
quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất qua một số
tác phẩm thời kỳ đầu của Mac" để nghiên c
ứu.
Do hạn chế về mặt thời gian về nhận thức. Nên bài tiểu luận này không
tránh khỏi sai sót cần phải sửa đổi bổ sung. Rất mong được thầy (cô) tạo điều
kiện giúp đỡ, cho ý kiến bổ sung để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Sinh viên
3
CHƯƠNG I
PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG XÃ HỘI CƠ SỞ TIỀN ĐỀ XUẤT PHÁT
CỦA SỨC SẢN XUẤT
Phân công lao động xã hội là biểu hiện của sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội C.Mac nói "trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một dân
tộc bộc lộ rõ ràng nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động", và
cho rằng "phân công là hình thức cơ
bản của nền sản xuất xã hội", đồng thời
cũng là một hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động có
tác dụng mạnh mẽ đối với sản xuất, thúc đẩy kỹ thuật sản xuất phát triển,
trước hết là thúc đẩy sự cải tiến của công cụ sản xuất, nâng cao năng suất lao
động Mác nói: "…sức sản xuất củ
a lao động nhất thiết phụ thuộc chủ yếu
vào…sự phân công lao động", "sự phân công lao động đó làm cho người ta có
thể sản xuất nhanh hơn do đó cũng rẻ hơn". Phân công lao động xã hội gắn
liền chặt chẽ với công cụ sản xuất. Khi nền sản xuất mới xuất hiện thì phân
công lao động xã hội cũng phải đạt được trình độ tương ứng với nền s
ản xuất
ấy. Đó là một tất yếu khách quan, một yêu cầu cấp bách của bản thân nền sản
xuất xã hội. "Do nền công nghiệp lớn, nên việc xoá bỏ sự phân công cũ đã trở
thành một điều kiện của bản thân nền sản xuất".
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" chỉ rõ: …"Mối quan hệ giữa các
dân tộc khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển củ
a các dân tộc về các
mặt lực lượng sản xuất, phân công lao động và mối quan hệ bên trong.
Nguyên lý đó được mọi người thừa nhận. Tuy nhiên không chỉ riêng mối
quan hệ của một dân tộc với các dân tộc khác, mà cả toàn bộ kết cấu bên
trong của chính dân tộc đó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất
của nó và của mối quan hệ bên trong và bên ngoài của nó. Trình độ phát triển
của l
ực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ rệt nhất ở trình độ phát triển
của sự phân công lao động. Bất cứ sức sản xuất mới nào trong chừng mực
không phải chỉ là một sự mở rộng đơn thuần về số lượng của những lực lượng
4
sản xuất mà cho đến lúc đó người ta đã biết (sự khai phá đất đai mới chẳng
hạn), thì cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển thêm sự phân công lao
động xã hội"…
Cac - Mac chỉ ra rằng: "Sự phân công lao động bên trong một dân tộc
trước hết đưa tới sự tách rời giữa một bên là lao động công nghiệp và thương
nghiệp và một bên là lao động nông nghiệp và do đó đưa tới s
ự tách rời giữa
thành thị và nông thôn và sự đối lập quyền lợi của hai bên. Đồng thời do phân
công lao động bên trong các ngành khác nhau nên sự phân công giữa những
cá nhân cùng lao động với nhau trong cùng một ngành lao động cũng ngày
càng tỉ mỉ thêm..".
Phân công lao động xã hội biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. Thể hiện năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cả
i vật chất, là cơ sở tiền đề xuất phát của sức
sản xuất.
5
CHƯƠNG II
XÃ HỘI HOÁ SẢN XUẤT - VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN SỨC SẢN XUẤT
Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xã hội. Ngay trong buổi bình
minh của lịch sử, trong quá trình hái lượm, săn bắt theo bầy, đàn không có
hoạt động sản xuất nào diễn ra độc lập. Tính xã hội của sản xuất không chỉ
tồn tại trong buổi đầu hình thành xã hội con người, mà còn phát triể
n cao hơn
trong điều kiện xã hội hiện đại. Tính xã hội hoá của sản xuất phát triển từ thấp
lên cao gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình
phát triển của lịch sử. Trong các xã hội gắn liền với nền sản xuất nhỏ, kinh tế
tự nhiên tự cung tự cấp, các hoạt động kinh tế trong xã hội thường được ti
ến
hành bởi các đơn vị kinh tế độc lập với nhau, hoặc nếu có quan hệ với nhau
cũng chỉ là quan hệ tập hợp theo số cộng đơn thuần, chưa có quan hệ hữu cơ
với nhau. Nền sản xuất ở đây tuy mnag tính chất xã hội nhưng nền sản xuất
vẫn chưa xã hội hoá. Bởi vậy, nếu xem xét xã hội hoá sản xuất với tư cách là
m
ột hệ thống hữu cơ, thì xã hội hoá sản xuất trực tiếp gắn liền với sự ra đời và
phát triển của nền sản xuất lớn trong lịch sử.Từ đó có thể hiểu: xã hội hoá sản
xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệtt hành quá trình kinh tế xã
hội, tồn tại hoạt động và phát triển liên tục như một hệ thống hữu cơ.
Đó là
quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng
sản xuất, phản ánh xu thế phát triển tất yếu mang tính chất xã hội của sản
xuất. Việc tạo nên những tổ chức, những quan hệ kinh tế mới đáp ứng yêu
cầu và phản ánh quá trình kinh tế khách quan kể trên là sự xã hội trên thực tế.
Xã hội hoá sản xuất là quá trình kinh tế khách quan của sự phát triển
tính xã hộ
i hoá của sản xuất. Sự vận động và phát triển của xã hội hoá sản
xuất được quy định bởi sự phát triển biện chứng giữa lực lượng sản xuất xã
hội và quan hệ sản xuất xã hội. Xã hội hoá sản xuất được biểu hiện ở trình độ
phát triển của phân công và hiệp tác lao động. Phân công lao động phát triển