Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sự tương đồng và khác biệt gi ữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.94 KB, 20 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



Đề tài


Giảng viên phụ trách : TS. Bùi Văn Mƣa
Học viên thực hiện : Đặng Phƣơng Thảo
STT : 61 – Nhóm : 7
Lớp – Khóa : Ngày 4 – Khóa 22
TPHCM, Tháng 12/2012
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



Đề tài


Giảng viên phụ trách : TS. Bùi Văn Mƣa
Học viên thực hiện : Đặng Phƣơng Thảo
STT : 61 – Nhóm : 7
Lớp – Khóa : Ngày 4 – Khóa 22
TPHCM, Tháng 12/2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 : Cơ sở lý luận 1
1. Triết học Nho gia : 1
1.1. Sơ lƣợc sự hình thành và phát triển của Nho gia 1


1.2. Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Nho gia 2
1.3. Nhận xét 4
2. Triết học Pháp gia: 5
2.1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của Pháp gia 5
2.2. Pháp trị của Hàn Phi 5
2.3. Nhận xét 6
CHƢƠNG 2: Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 7
1. Thuyết trị quốc 7
2. Công cụ trị quốc 7
3. Bản tính con ngƣời 9
4. Ý thức vận động xã hội 9
CHƢƠNG 3: Mở rộng 12
1. Ảnh hƣởng của triết học Nho gia đối với lịch sử và xã hội VN 12
2. Ảnh hƣởng của triết học Pháp gia đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền VN hiện
nay 13
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17


Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 1

LỜI MỞ ĐẦU
Nếu phƣơng Đông là cái nôi của nền văn minh nhân loại thì cùng với Ấn Độ, Trung
Quốc là một trong những trung tâm văn hóa rực rỡ, phong phú và cổ xƣa nhất của nền văn
minh ấy. Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ rất sớm, ngƣời Trung Quốc đã đƣa ra những
quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, chiến tranh loạn lạc xảy
ra triền miên, các nhà tƣ tƣởng Trung Quốc quan tâm trƣớc hết đến việc tìm kiếm đƣờng lối
tối ƣu bảo đảm cho đất nƣớc ổn định, thống nhất, nhân dân đƣợc an cƣ lạc nghiệp. Học

thuyết của các nhà tƣ tƣởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các trƣờng phái tƣ tƣởng của
Trung Quốc thời cổ trung đại. Triết học Trung quốc cổ là một trong những trung tâm của nền
triết học cổ đầu tiên của văn hóa nhân loại, có ảnh hƣởng sâu rộng đến đời sống vật chất, tinh
thần của dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác ở phƣơng Đông. Trong đó, nổi bật phải kể
đến Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia. Trong bài tiểu luận này, em xin đƣợc bàn luận, so
sánh giữa Nho gia – trƣờng phái tƣ tƣởng quan trọng nhất ở Trung Quốc và Pháp gia –
trƣờng phái kết hợp với Nho gia, xuyên suốt trong việc trị nƣớc đến ngày nay.

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 2

CHƢƠNG 1: Cơ sở lý luận
1. Triết học Nho gia :
1.1. Sơ lƣợc sự hình thành và phát triển của Nho gia
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dƣới thời Xuân Thu, ngƣời sáng lập là
Khổng Tử (551 - 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con ngƣời mà
Nho gia bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân tử và Mạnh tử là mạnh nhất. Nho gia
đã đƣợc Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hƣớng khác nhau: duy vật
và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hƣởng rộng và lâu dài nhất trong
lịch sử Trung Hoa và một số nƣớc lân cận.
Thời Tây Hán Đổng Trong Thƣ (179 – 104 TCN) đã dựa trên lợi ích giai cấp phong
kiến thống trị, khai thác lý luận để giải thích vạn vật, con ngƣời và xã hội. Ông đã hệ thống
hóa kinh điển Nho gia thành Tứ thư và Ngũ kinh, đồng thời đƣa ra quan niệm tam cƣơng
(quân – thần, phụ - tử, phu – phụ), ngũ thƣờng ( nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), tam tòng (tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), tứ đức ( công, dung, ngôn, hạnh), đối với
ngƣời phụ nữ. Sang thời Tống, Nho giáo phát triển rất mạnh. Ngƣời đã khởi xƣớng lý học
trong Nho giáo là Chu Đôn Di và Thiệu Ung. Ngoài ra còn có hai anh em họ Trình – Trình
Hạo (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107) đều là những nhà lý học xuất sắc. Đến thời Minh
– Thanh, Nho giáo không có sự phát triển nổi bật mà ngày càng khắt khe, bảo thủ cho đến

cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo thủ của nó mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì
trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp trào lƣu văn minh thế
giới.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thƣ (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh
Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thƣ, Lễ, Dịch và Xuân Thu)
1.2. Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Nho gia
a. Triết lý “thiên mệnh”
Đây là một trong những học thuyết căn bản của Nho gia. Khổng Tử cho rằng vạn vật
không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cƣỡng lại đƣợc mà nền tảng tận cùng của
trật tự đó chính là thiên mệnh. Mọi sự vật, hiện tƣợng con ngƣời đều do mệnh trời chi phối
quyết định, cuộc đời con ngƣời sƣớng khổ, giàu nghèo, sang hèn đều do mệnh trời quyết
định. Ngƣời quân tử có ba điều sợ : mệnh trời, đại nhân, lời nói của thánh nhân. Triết lý thiên
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 3

mệnh chính là cơ sở lý luận của các nhà Nho lúc bấy giờ để giải thích các hiện tƣợng tự
nhiên của xã hội, giải thích các biến cố lịch sử, tự nhiên, con ngƣời và nó cũng đã ảnh hƣởng
khá sâu sắc tới các nhà Nho tại Việt Nam.
b. Học thuyết “Nhân”
Chữ Nhân trong triết học Nho gia đƣợc coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản
tính con ngƣời và mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội. Phạm trù “nhân” có nhiều
nội dung, tùy thuộc mối quan hệ cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà Khổng tử có cách giải thích
khác nhau. Tuy chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt lõi của nhân là hiếu đễ.
Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau
là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con ngƣời. Vì vậy, đạo làm ngƣời phải
tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một ngƣời biết yêu thƣơng kính trọng cha mẹ mình
thì mới biết yêu thƣơng ngƣời ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên
là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Nhƣ vậy, nhân chính là đạo lý làm
ngƣời, vừa thƣơng ngƣời, vừa phải giúp ngƣời.

c. Học thuyết “Lễ”
Tƣ tƣởng Lễ trong Nho giáo đƣợc hiểu là những quy định, những nguyên tắc, những
thủ tục dùng để giao tiếp giữa ngƣời với ngƣời, với xã hội và với thế giới siêu nhiên. Về mặt
tích cực, lễ là thƣớc đo, đánh giá phẩm hạnh con ngƣời. Sự giáo dục con ngƣời theo lễ đã tạo
thành một dƣ luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng ngƣời có lễ và khinh ghét ngƣời vô lễ. Lễ
không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào lƣơng tâm của con ngƣời.
Nhƣng lễ lại là sợi dây ràng buộc con ngƣời làm cho suy nghĩ và hành động của con ngƣời
trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho
xã hội trì trệ.
d. Học thuyết “chính danh”
Để thực hiện Nhân và Lễ, Khổng tử đã nêu ra tƣ tƣởng “chính danh”. Chính danh là
làm cho mọi ngƣời ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình,
cũng không dành vị trí của ngƣời khác. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu
là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lợi vào
tay chƣ hầu; chƣ hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi
ngƣời cần làm đúng danh phận. Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 4

xã hội, làm cho con ngƣời ý thức đƣợc trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng
trong các mối quan hệ xã hội nhƣng suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự
phân biệt đẳng cấp.Tƣ tƣởng này còn kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận
bất kì sáng kiến nào của con ngƣời, làm cho con ngƣời chỉ biết phục tùng theo mà không
sáng tác gì thêm. Nó đã quá đề cao danh phận, làm cho con ngƣời luôn có tƣ tƣởng hám
danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều ngƣời vì hám danh quên phận mà quên cả
luân thƣờng đạo lý.
e. Tƣ tƣởng “Đức trị”
Nho gia quán triệt Nhân và Lễ trong việc cai trị, điều hành xã hội, dùng đạo đức để
đƣa xã hội vào đạo đức kỷ cƣơng, dùng đạo đức giáo hóa con ngƣời, hƣớng tới xây dựng

mẫu ngƣời quân tử. Khổng tử cho rằng ngƣời quân tử có đủ tam đức (trí,nhân,thiện) do có trí
nên ngƣời quân tử không nhầm lẫn, do có nhân nên ngƣời quân tử không buồn phiền, do có
dũng nên ngƣời quân tử không có gì phải kinh sợ. Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính
danh của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc
dùng hình phạt để trị dân vì làm nhƣ vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục.
1.3. Nhận xét
So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn
cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tƣ tƣởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn
hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Nho gia đã để lại cho đời những tƣ tƣởng triết học về
luân lý, đạo đức chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay nƣớc ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, mở cửa quan hệ với các nƣớc trên
thế giới, với sự du nhập của văn hoá phƣơng Tây, ở một khía cạnh nào đó, một số giá trị đạo
đức cũng bị thay đổi, thì những tƣ tƣởng về chữ Nhân của con ngƣời có ý nghĩa rất lớn trong
việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên bên cạnh đó những tƣ tƣởng của Nho gia
cũng có một số hạn chế đó là lối sống gia trƣởng trong gia đình, tƣ tƣởng trọng nam khinh
nữ. Trong gia đình ngƣời cha, ngƣời chồng, ngƣời anh cả là ngƣời có quyền lực cao nhất,
ngƣời phụ nữ trong gia đình bị phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, không có quyền tham gia vào
những việc đại sự trong gia đình. Nhƣng xét cho cùng, trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, so
với các quan điểm duy tâm, tôn giáo, ngụy biện của bọn quý tộc cũ thì những tƣ tƣởng của
triết học Nho gia đã là một bƣớc tiến dài trong lịch sử triết học Trung Quốc thời cổ đại.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 5

2. Triết học Pháp gia:
2.1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của Pháp gia :
Là một trƣờng phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trƣơng dùng những luật lệ,
hình pháp của nhà nƣớc là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con ngƣời và củng
cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Ngƣời mở đƣờng cho phái Pháp gia là Quản Trọng. Ông chủ trƣơng phép trị nƣớc phải

đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi ngƣời, Lệnh là để cho
dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho
dân theo đƣờng ngay lẽ phải. Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401 – 337 TCN) đề
cao "Thuật" trong phép trị nƣớc, Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế" và Thƣơng Ƣởng ( 390
-338 TCN) đề cao "Pháp"
Ngƣời hoàn thiện tƣ tƣởng trị nƣớc của pháp gia đã kể trên chính là Hàn Phi (280 – 233
TCN). Trong phép trị nƣớc, Hàn Phi Tử coi trọng cả ba yếu tố Pháp, Thế, Thuật. Trong đó,
"Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị đƣợc thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ,
phƣơng tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phƣơng pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vƣơng.
2.2. Pháp trị của Hàn Phi
a. Ba cơ sở của thuyết pháp trị Hàn Phi
Một là thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực lƣợng khách quan
trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con ngƣời
phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
Hai là, thửa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội nào bất
di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, ngƣời thống trị phải
căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ,
chính sách, cách trị nƣớc sao cho thích hợp. Ông cho rằng không có thứ luật nào luôn luôn
đúng mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển đƣợc theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế
thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Ba là thừa nhận bản tính con ngƣời là ác. Do bản tính con ngƣời là ác và do trong xã
hội kẻ xấu ngƣời tốt cũng có nhƣng ít, còn thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình không nên
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 6

trông chờ vào một số ít, mong họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác.
b. Phép trị quốc của Hàn Phi là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh đƣợc tổng

hợp từ Pháp, Thế, Thuật
“Pháp” là những mệnh lệnh, quy tắc, luật lệ do nhà vua ban hành và đƣợc ghi chép
lại, nó phải minh bạch, công bằng, khách quan, mọi ngƣời có thế hiểu đƣợc, thực hiện đƣợc.
Vì vậy, pháp là cơ sở khách quan, là tiêu chuẩn để định rõ phải, trái, tốt, xấu, biết điều nên
làm và không nên làm, từ đó có sự thƣởng, phạt nghiêm ngặt. So với chủ trƣơng “nhân trị”,
thì “pháp trị” có ƣu thế hơn, nó đƣợc thực hiện nhanh chóng và mang lại hiệu quả rõ rệt, hơn
nữa sử dụng luật pháp thì đƣợc số đông, trị dân khắp nƣớc. Cùng với luật pháp, “thế” là yếu
tố không thể tách rời trong phép trị nƣớc của Pháp gia. Thế là vị trí, chức vụ, là uy tín, năng
lực của nhà cầm quyền. Nhờ vào cái “thế” của mình mà nhà vua đặt ra và ban bố pháp luật.
Nhƣng làm thế nào để vua chọn đúng ngƣời, giao đúng việc và làm sao để vua có thể điều
khiển, giám sát đƣợc hành vi của quan lại và của dân cả một nƣớc, đó là nhờ cái “thuật”.
Thuật chính là nghệ thuật cai trị hay cách thức, thủ đoạn, mƣu lƣợc của nhà cầm quyền để
quản lý xã hội.
2.3. Nhận xét
Tƣ tƣởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích
cực đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của lịch sử. Tƣ tƣởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có
giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền hiện nay.
Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bƣớc tiến lớn, trong tƣ tƣởng chính trị
cổ đại Trung Quốc, góp phần quan trọng vào việc cải cách xã hội và thống nhất đất nƣớc
Trung Hoa. Lý luận về phƣơng pháp trị nƣớc bằng luật pháp và hình phạt với hệ thống
“Pháp”, “Thế”, “ Thuật” đã đáp ứng đƣợc lợi ích của giai cấp phong kiến, đó là muốn thiết
lập sự thống trị tuyết đối của mình trên đầu dân chúng. Tuy nhiên chúng cũng bị bọn phản
động công kích dự dội. Đó là số phận của Pháp gia nói chung và của Hàn Phi nói riêng.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 7

CHƢƠNG 2: Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
1. Thuyết trị quốc
Trong lĩnh vực chính trị xã hội, để điều chỉnh hành vi đạo đức của con ngƣời, khôi

phục lại trật tự xã hội, nhằm trả lời cho câu hỏi lớn đặt ra cho mỗi nhà tƣ tƣởng Trung Hoa
đƣơng thời rằng : thiên hạ thay đổi nhƣ nƣớc cuồn cuộn, làm thế nào cải biến xã hội để thiên
hạ trị? Nếu nhƣ Nho gia chủ trƣơng trị dân phải bằng “nhân trị”, giáo hóa đạo đức từ bên
trong, từ nhân tâm con ngƣời, tức là phƣơng pháp giáo dục, thuyết phục và noi gƣơng của
ngƣời quân tử để khuyến khích ngƣời dân làm điều tốt, việc thiện, tránh điều xấu việc ác thì
hoàn toàn ngƣợc lại, Pháp gia chủ trƣơng trị dân bằng luật pháp và sự thƣởng phạt, tức là
bằng phƣơng pháp cƣỡng bức để buộc bề tôi và các thần dân phải làm những điều nên làm
và không đƣợc làm những điều đã bị cấm đoán.
Vì vậy Nho gia thƣờng phê phán Pháp gia là cực đoan, tầm thƣờng, là kẻ vong nhân.
Còn Pháp gia phản đối Nho gia là lệ cổ, bảo thủ nặng nề về chủ nghĩa kinh nghiệm. Sự đối
lập tƣ tƣởng của Nho gia và Pháp gia là sự đối lập trong một chỉnh thể thống nhất. Đó là sự
đối lập giữa lý thuyết mang tính nhân đạo, tính lý tƣởng và lý thuyết mang tính thực tế, giữa
một bên đề cao kinh nghiệm truyền thống với một bên coi trọng công việc hiện đại; giữa một
bên muốn cải tạo xã hội, con ngƣời từ sự giáo hóa nội tâm, từ cái “ nhân “ bên trong con
ngƣời với một bên chủ trƣơng cải hóa con ngƣời, cai trị xã hội bằng sự cƣỡng bức của luật
pháp và hình phạt. Sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập này nếu chỉ nhấn mạnh một
chiều, thì trở thành hai thái cực phiến diện. Một số nhà Nho gia đã cảm nhận đƣợc điều này,
nhƣ Mạnh Tử viết : “ Chỉ có đức nhân không đủ để trị. Chỉ có mình luật pháp cũng không
thể tự nó thi hành đƣợc” nhƣng họ vẫn cho rằng giáo hóa con ngƣời về đạo đức vẫn là cái
gốc của trị dân. Tuy nhiên xét cho cùng thì pháp trị cũng chỉ là một hình thức cụ thể của
nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi hành đƣợc các chủ trƣơng của phái Pháp gia nêu ra, xã hội
cũng cần có một đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và
chịu khép mình theo nguyên tắc đó.
2. Công cụ trị quốc
Do khác nhau về tƣ tƣởng trị quốc nên công cụ trị quốc của Nho gia và Pháp gia cũng
khác nhau. Nho gia cho rằng không nên lạm dụng luật pháp để ép dân đi vào tôn ti trật tự; ổn
định xã hội hữu hiệu nhất phải bằng đức hạnh vì đức hạnh có khả năng cảm hóa con ngƣời
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 8


và nó làm cho con ngƣời hổ thẹn với mình khi có hành vi sai phạm. Vì vậy, Khổng tử đã sử
dụng đạo đức làm công cụ thực hiện học thuyết chính danh của mình. Nội dung của đạo đức
ấy theo Khổng tử thông thƣờng nhất và cũng là quan trọng nhất là Nhân , Trí và Dũng. Nhân
không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính. Ngƣời có nhân đồng nghĩa là
ngƣời hoàn thiện nhất nên nhân là nghĩa rộng nhất của đạo đức làm ngƣời. Khổng tử cho
rằng : nếu tâm con ngƣời luôn hƣớng về nhân thì không bao giờ con ngƣời nghĩ đến chuyện
phản loạn , do đó miệng không nói bậy và thân không dẫn đến việc ác, tà. Chính vì vậy, đối
với dân, nhân cần thiết hơn tất cả những gì cần thiết khác và đối với những ngƣời cầm
quyền, đức nhân nhƣ một thành trì để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đạt đƣợc. Ngƣời muốn
đạt đức nhân phải là ngƣời có trí và dũng. Trí đƣợc hiểu là sự minh mẫn nói chung để phân
biệt, đánh giá con ngƣời và tình huống, qua đó tự xác định cho mình cách cƣ xử cho phải
đƣờng, phải đạo. Nói chung theo Khổng tử con ngƣời phải có trí con ngƣời mới vƣơn đƣợc
tới đức nhân nên không thể là ngƣời nhân thiếu trí. Nhƣng ngƣời muốn đạt nhân chỉ có trí
thôi chƣa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Ngƣời nhân có dũng phải là ngƣời có thể tỏ rõ ý
kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao, khi vận nƣớc loạn
lạc, khi ngƣời đời gặp phải hoạn nạn. Ngƣời nhân có dũng mới tự chủ đƣợc mình, mới quả
cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực khó không nao núng làm mất nhân cách
của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
Ngƣợc lại, phƣơng pháp cai trị của Pháp trị gắn với thƣởng và phạt, đó là hai đòn bẩy
trong tay vua để giữ vững chính quyền. Trong khi phê phán chủ trƣơng “ chỉ phạt tội mà
không thƣởng công” của Thƣơng Ƣởng, Hàn Phi nhận xét rằng đó là lý thuyết thiên lệch, cần
phải thực hiện hoàn thiện cả hai mặt: khuyến khích và răn đe, thƣởng và phạt. “Thƣởng mà
hậu thì điều mình muốn cho dân làm dân mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét
và cấm đoán dân mới mau mắn mà tránh”. Tác dụng của thƣởng và phạt không chỉ có ý
nghĩa ban ơn hay trừng trị, mà còn khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa kẻ làm điều
ác, nhƣ vậy nƣớc sẽ tự yên mà không có điều gì hại cho dân cả. Hàn Phi chủ trƣơng việc
thƣởng và phạt trong pháp luật phải thật nghiêm minh và triệt để, thậm chí “thƣởng thật hậu
và phạt thật nặng”. Đồng ý với quan điểm của Thƣơng Ƣởng về sự trừng phạt – “ sự trừng
phạt không cần biết đến tƣớc vị của giới quý tộc”, Hàn Phi chủ trƣơng mọi ngƣời đều bình

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 9

đẳng trƣớc pháp luật, không loại trừ một ai, kế cả quý tộc, quan lại “ Luật không xu nịnh giới
quý tộc”.
Dù chủ trƣơng sử dụng những công cụ trị quốc rất khác nhau nhƣng mục đích cuối
cùng của Nho gia lẫn Pháp gia đều là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cƣơng.
3. Bản tính con ngƣời
Trong Nho gia, Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng bản tính con ngƣời là thiện, con
ngƣời có tính ngƣời, tính ngƣời do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi
con ngƣời. Nhƣng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn cảnh, môi trƣờng khác nhau, do tập
quán, tập tục không giống nhau mà ngƣời này khác xa ngƣời kia – “Thiên mệnh chi vị tính,
xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” và “ tính tƣơng cận, tƣơng tập viện”. Ngƣợc lại, Tuân
Tử lại khẳng định rằng “Nhân chí tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã” – bản tính của con ngƣời là
ác, đó là bản tính tự nhiên, vốn sinh ra đã có. Cũng giống thầy của mình, Hàn Phi của phái
Pháp gia cho rằng bản chất con ngƣời là ích kỷ, không có con ngƣời nào mà lại “ không
mong muốn nhận đƣợc sự giúp đỡ từ ngƣời khác” và không tính toán, ham thích lợi ích của
ngƣời khác. Nhƣ vậy “ích kỷ “ là đặc tính vốn có của con ngƣời – đó là bản chất tự nhiện,
trong đó không có cái thiện và cái ác.
4. Ý thức vận động xã hội
Trong quan niệm về thế giới, tƣ tƣởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Một
mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đƣơng thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tƣợng
trong tự nhiên luôn luôn tự vận động, biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “
Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi”; hay “ cũng nhƣ dòng
nƣớc chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ”. Đó là yếu tố duy vật
chất phác và tƣ tƣởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí
và có thể chi phối vận mệnh của con ngƣời (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách quan
trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra đƣợc cũng do mệnh Trời, mà bị
bỏ phế cũng là do mệnh Trời” hay “làm sao có thể cải đƣợc mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh

Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành con ngƣời hoàn thiện là ngƣời quân tử. Cũng nhƣ
thế, Mạnh tử cũng cho rằng chính quyền do trời cho và thông qua các bậc vua chúa hiền
minh để thực hiện ý trời. Nhƣ vậy, Nho gia chịu ảnh hƣởng của quan niệm cho rằng vạn vật
đều có chung nguồn gốc và vận động không ngừng theo “ đạo” của nó. Còn theo Hàn Phi,
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 10

lịch sử luôn tiến hóa và phát triển. Sự phát triển của lịch sử trong mỗi thời kỳ luôn nảy sinh
những vấn đề mới có tập quán cố hữu của riêng mình, vì vậy biện pháp chính trị đƣợc sử
dụng trong mỗi thời kỳ không thể giống nhau. Ngƣời thống trị phải căn cứ vào nhu cầu
khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách,
vạch ra cách trị nƣớc sao cho thích hợp. Ông cho rằng không có một thứ pháp luật luôn luôn
đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển đƣợc theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời
thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Trong quan niệm duy vật và
biện chứng của Hàn Phi bộc lộ rõ khát vọng giải thích sự phát triển của xã hội và cuộc đấu
tranh diễn ra trong đó với sự giúp đỡ của nhân tố vật chất. Hàn Phi xem lợi ích vật chất nhƣ
là cơ sở của tất cả quan hệ xã hội và hành vi con ngƣời. Nhƣ vậy, dựa trên nguyên nhân của
sự biến động xã hội và đặc điểm của thời đại, Hàn Phi đã đƣa ra phƣơng pháp trị nƣớc bằng
luật pháp. Luật pháp không phải là điều cứng nhắc bất biến mà nó luôn thay đổi phù hợp với
hoàn cảnh xã hội. Đây là tƣ tƣởng duy vật biện chứng về lịch sử của Pháp gia, nó chỉ ra tính
tất yếu của việc thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ chuyên chế phong kiến.
Ngoài một số điểm tƣơng đồng nói trên, giữa Nho gia và Pháp gia còn có một số điểm
chung nhƣ cả hai đều đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính trị - đạo đức. Bởi đây là thời kỳ
đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đã đặc biệt quan tâm, suy tƣ, tìm cách lý giải
và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tƣợng xã hội biến động trong
lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại. Mặc dù phong phú, đa dạng nhƣng nhìn chung các
học thuyết triết học tập trung vào các vấn đề là làm thế nào để thống nhất đất nƣớc; làm thế
nào để ổn định xã hội và các chuẩn mực đạo đức mà con ngƣời phải tuân thủ. Tuỳ theo lập
trƣờng chính trị khác nhau và lợi ích giai cấp khác nhau mà có cách giải đáp khác nhau về

một vấn đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa phong phú và vừa sâu sắc của triết
học Trung Hoa cổ đại. Bên cạnh đó, Nho gia và Pháp gia không có sự phân biệt rạch ròi giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các học thuyết
triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất quán.
Các trƣờng phái tƣ tƣởng Trung Quốc cổ trung đại, trong đó có Nho gia và Pháp gia,
đều ra đời trong thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc, thế sự loạn lạc, các nƣớc chƣ hầu nội chiến
triền miên, tranh giành quyền bá chủ Trung Quốc. Và thời kì đó cũng là buổi đầu mở ra nền
thống trị của các vƣơng triều phong kiến, thiết lập nền quân chủ chuyên chế kéo dài suốt
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 11

mấy ngàn năm tren đất nƣớc Trung Quốc. Bởi lẻ đó, học thuyết của Nho gia và Pháp gia
nhìn chung đều chủ trƣơng một vị thiên tử uy quyền vô hạn, cầm quyền thƣởng phạt, độc
quyền nắm giữ quân đội, dùng vũ lực và bắt mọi ngƣời – kể cả dân trong nƣớc và tứ di, tức
là các nƣớc láng giềng phải theo mệnh, tuyệt đối không đƣợc trái ý thiên tử. Cả hai trƣờng
phái triết học đề cao tôn ti trật tự trong xã hội, vai trò của ngƣời làm vua đối với đất nƣớc, kẻ
làm nam nhi trong gia đình, xã hội. Từ đó, những học thuyết giáo dục, răn đe mọi ngƣời
trong xã hội phải làm theo, để đảm bảo xã hội ổn định. Song, hầu hết các quy tắc đều đề cao
ngƣời đàn ông, quan lại, vua chúa,… một số còn quá khắt khe, cứng nhắc nên dẫn đến quan
liêu, lạm quyền.

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 12

CHƢƠNG 3: Mở rộng
1. Ảnh hƣởng của triết học Nho gia đối với lịch sử và xã hội Việt Nam
Nho giáo đƣợc du nhập vào nƣớc ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Do
tồn tại lâu dài và đƣợc các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng nên Nho giáo đã có ảnh

hƣởng sâu rộng. Đặc biệt, tƣ tƣởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời
phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hƣởng của nó vẫn còn.
Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con ngƣời có sự đối xử nhân ái, khoan dung,
độ lƣợng với nhau. Lễ giúp con ngƣời có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc,
theo khuôn phép. Xét theo phƣơng diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực
trong việc duy trì trật tự, kỷ cƣơng của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Bên cạnh
đó, tƣ tƣởng chính danh giúp cho con ngƣời xác định đƣợc nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dƣỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt
là chú ý đến đạo đức ngƣời cầm quyền (những ngƣời có chức, quyền). Theo Nho giáo, đạo
đức ngƣời cầm quyền có ảnh hƣởng lớn đến sự hƣng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng
Tử khuyên ngƣời cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gƣơng cho ngƣời dƣới. Với việc đề
cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp ngƣời
sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gƣơng sáng ngời về đạo
đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, ngƣời
làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng ngƣời,
để cai trị. Ngày nay tƣ tƣởng này vẫn còn nguyên giá trị. Ngƣời cán bộ trong bộ máy nhà
nƣớc phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục.
Thế nhƣng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên đi pháp luật là sai lầm. Do
coi trọng quan hệ đạo đức “thân hiền” của Nho giáo, nhiều ngƣời khi có chức quyền đã kéo
bè kéo cánh, đƣa ngƣời thân, anh em họ hàng không đủ năng lực, trình độ vào cơ quan mình
đang quản lý. Nhiều ngƣời vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm
của ngƣời khác. Do quan niệm sai lệch về Nhân, Nghĩa là phải đền ơn trả nghĩa mà trong
thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp
để trục lợi, tham ô, cửa quyền…Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con ngƣời theo lễ một
cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tƣ tƣởng tôn ti, tƣ tƣởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị,
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 13


coi thƣờng lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành
động của không ít ngƣời. Những tƣ tƣởng gia trƣởng nhƣ trong gia đình là quyền quyết định
của ngƣời cha, ngƣời chồng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “phu xƣớng phụ tòng” (chồng
đề xƣớng, vợ phải theo), ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo, Sự giáo dục và tu
dƣỡng đạo đức của Nho giáo mang tính cứng nhắc đã tạo nên những con ngƣời sống theo
khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn dƣ tƣ tƣởng trên đang làm cản trở và
gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nƣớc ta hiện nay
Nhƣ vậy ta thấy rằng tƣ tƣởng đạo đức Nho giáo đã có những tác động rất sâu sắc đến
nền văn hóa nƣớc ta. Sự tác động này vừa mang tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất
định. Để xây dựng đạo đức mới cho cơn ngƣời Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt
tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hƣởng tiêu cực của tƣ tƣởng đạo đức
Nho giáo và việc này phải tiến hành thƣờng xuyên, kiên trì và lâu dài.
2. Ảnh hƣởng của triết học Pháp gia đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử tƣ tƣởng cổ đại, đã có nhiều học thuyết tiến bộ mang giá trị phổ biến
đến ngày nay. Theo dòng chảy tƣ duy chính trị và các ý nghĩa thời đại, chúng ta đã áp dụng
khá nhiều điểm tiến bộ trong học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử. Vậy trong quá trình hoàn
thiện nhà nƣớc pháp quyền XHCN, chúng ta đã vận dụng tƣ tƣởng pháp trị của Hàn Phi Tử
nhƣ thế nào? Ý nghĩa ra sao ?
Thời kỳ phong kiến Việt Nam, đã có nhiều đạo luật tiến bộ chăm lo cho lợi ích của
dân. Trong đó, ý nghĩa nhất là Luật Hồng Đức thời Lê. Thời kỳ này đất nƣớc đƣợc hƣng
thịnh, khắp nơi không có trộm cắp, không nhặt của rơi, không có tiếng khóc than oán
hận…tuy nhiên việc tuân thủ theo luật còn rất nhiều hạn chế. Về sau có luật Gia Long thời
nhà Nguyễn, luật này lại trở nên khắt khe hơn nhiều, xiết chặt lợi ích của dân đến mức thấp
nhất nên không phản ánh đƣợc lòng dân, bị khƣớc từ và dân không thực hiện. Xét về điểm
chung thì luật của các nhà phong kiến đều khắt khe vì trƣớc hết họ phải củng cố địa vị độc
tôn của dòng họ rồi mới phục vụ sự công bằng trong dân chúng và còn khá nặng về quy định
chống ngoại xâm và chống thiên tai.
Sau tuyên ngôn độc lập năm 1945, nƣớc ta đã xác định rõ con đƣờng đi lên chủ nghĩa
xã hội. Nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức, hoạt động trên cơ sở quy định tại Hiến pháp, pháp luật và

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 14

không ngừng đƣợc củng cố về mọi mặt nhằm đảm bảo lợi ích của dân theo tinh thần “độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một chế độ “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ yêu cầu xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền XHCN và
qua tƣ tƣởng pháp trị của Hàn Phi Tử, chúng ta thấy có khá nhiều tiến bộ có thể áp dụng
đƣợc, đặc biệt là vấn đề dùng pháp luật một cách nghiêm minh đúng đắn. Rồi các yêu cầu
nhƣ pháp luật phải khách quan, phải đặt nơi công đƣờng để trăm họ đƣợc biết, pháp luật
không bênh ngƣời sang, không phân biệt kẻ nghèo khó…, đều là những điểm chúng ta có thể
vận dụng đƣợc. Đồng thời cũng lƣu ý rằng, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN, chúng ta
đã xác định pháp luật là tối thƣợng nhƣng pháp luật nhà nƣớc ta là do nhân dân đề xuất soạn
ra chứ không phải ông vua chuyên chế tạo ra. Nhà nƣớc pháp quyền XHCN là quyền lực
thuộc về nhân dân, còn thời phong kiến quyền lực thuộc về ông vua. Khi nói đến đạo đức,
vai trò của ngƣời lãnh đạo, Hàn Phi Tử đã đặt ra tiêu chuẩn, “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực
tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nƣớc thì nêu rõ pháp
luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa
trong thiên hạ”. Từ cái chuẩn mực đó, và xét trong thời gian gần đây, một bộ phận không
nhỏ cán bộ trở nên thoái hóa, biến chất và đó đang là vấn đề bức xúc của xã hội. Vì vậy,
chúng ta cần phải có những chế tài thật mạnh đối với cán bộ vi phạm; phải phân định các
mối quan hệ trong nội bộ các cơ quan, các quan hệ giữa Đảng – Nhà nƣớc – Nhân dân;
không ngừng trao dồi đạo đức ngƣời cán bộ theo tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh… Hàn Phi
Tử đã quan điểm rất đúng: “những ngƣời thi hành pháp luật mà mạnh thì nƣớc mạnh, còn
những ngƣời thi hành pháp luật yếu thì nƣớc yếu”. Vì vậy để đất nƣớc vững mạnh, chúng ta
cần chú ý nhiều đến vấn đề xây dựng một đội ngũ lãnh đạo đủ sức, đủ tài có thể đảm đƣơng
gánh vác trách nhiệm mà nhân dân giao phó.
Tƣ tƣởng pháp trị của Hàn Phi Tử quả là có nhiều tiến bộ mà chúng ta có thể áp dụng
đƣợc, song tƣ tƣởng đó cũng có mặt hạn chế của nó. Từ truyền thống đến ngày nay, vẫn có
nhiều ngƣời có lý tƣởng cao đẹp, phục vụ ngƣời khác mà không vụ lợi. Thế mà, theo quan

điểm của Hàn Phi Tử thì hành động của họ chẳng qua vì cái lợi. Thực sự ông đã bỏ qua cái
giá trị nhân văn của con ngƣời và độc tôn pháp luật. Chúng ta xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền XHCN là dựa vào dân, chủ quyền tối thƣợng thuộc về nhân dân. Phải hiểu đƣợc rằng
pháp luật không sinh ra quyền con ngƣời mà pháp luật chỉ là công cụ để đảm bảo quyền của
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 15

con ngƣời. Nếu làm khắt khe độc tôn pháp luật thì chúng ta sẽ làm thui chột các giá trị sáng
tạo trong thời đại và tất yếu sẽ gây nên nền chính trị bất ổn trong đời sống nhân dân. Không
riêng gì học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử, mà chúng ta cũng cần lƣu ý đến học thuyết vô vi
thời bấy giờ và các học thuyết khác, song xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN chúng ta
vẫn luôn chú ý đến những quyền con ngƣời trong thời đại mới để nhà nƣớc đó thực sự là nhà
nƣớc của dân, do dân và vì dân.




Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 16

KẾT LUẬN
Cũng nhƣ triết học Ấn độ, triết học Trung Quốc cổ đại là một nền triết học phong phú
với các tính chất và khuynh hƣớng nhiều vẻ, nhiều màu sắc, nhất là trong lĩnh vực luân lý,
đạo đức, tâm tính con ngƣời và vấn đề chính trị, xã hội. Nói cách khác, nền triết học đó đã đề
cập đến sức đa dạng của triết học. Trong đó có không ít những tƣ tƣởng có giá trị và ảnh
hƣởng sâu sắc đến đời sống hiện thực. Trong tất cả những lĩnh vực mà triết học Trung Quốc
đề cập tới thì vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức và luân lý luôn là vấn đề đƣợc các nhà triết
học chú ý, quan tâm nhiều nhất và họ đã lý giải bằng nhiều cách khác nhau. Do vậy có thể

nói triết học Trung Quốc cổ đại là triết học đời sống, là triết lý nhân sinh sâu sắc, là đạo sống
của con ngƣời. Nhƣng không phải chỉ là đạo sống của con ngƣời cá nhân mà trƣớc hết nó là
đạo để áp dụng cải biến xã hội, cứu đời, giải đáp câu hỏi lớn của thời đại là : thiên hạ nhƣ
nƣớc đổ cuồn cuộn, làm thế nào để thiên hạ trị? Cũng vì thế triết lý nhân sinh của triết học
Trung Quốc cổ đại có tính hiện thực xã hội sâu sắc và cực kỳ sinh động. Với sự phát triển hết
sức phong phú, đa dạng và rực rỡ, triết học Trung Quốc cổ đại thực sự là cơ sở tƣ tƣởng sâu
sắc cho sự phát triển của những tƣ tƣởng triết học Trung Quốc sau này. Nó cũng thực sự trở
thành dấu son chói lọi trong lịch sử tƣ tƣởng phƣơng Đông nói riêng và của loài ngƣời nói
chung.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Trang 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Lịch sử triết học Trung Quốc, Doãn Chính (chủ biên), NXB TPHCM, 1991.
 Triết học – Đại cƣơng về lịch sử triết học, TS. Bùi Văn Mƣa (chủ biên), NXB
TPHCM, 2011.

 Tạp chí Nghiên cứu văn hóa – Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội


×