Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

ĐỀ TÀI SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA & TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 19 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC



ĐỀ TÀI:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC NHO GIA & TRIẾT HỌC PHÁP
GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI


Học viên thực hiện : Huỳnh Thiên Thảo
Mã số học viên :7701221063
STT :63
Nhóm :7
Lớp : Ngày 4
Khóa : 22
Giảng viên hướng dẫn : TS. BÙI VĂN MƯA


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012




i


Nhận xét của giảng viên























Tiểu luận Triết học


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

1
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
LỜI MỞ ĐẦU
o0o
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử lâu đời kéo dài khoảng
2000 năm lịch sử (bắt đầu từ cuối thiên niên kỷ thứ III và kết thúc bằng sự kiện Tần
Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực vào cuối thế kỷ thứ III
TCN). Thời kỳ này, xã hội Trung Hoa hết sức đảo lộn vì chiến tranh, loạn lạc liên
miên. Mặc dù xã hội đầy biến động nhưng trong sự biến động đó, nhân dân Trung
Hoa đã tạo nên một nền văn hóa rực rỡ. Và cũng chính bối cảnh đó đã sản sinh các
nhà tư tưởng lớn. Nhiều trường phái triết học lần lượt ra đời và phát triển, tạo thành
một hệ thống đồ sộ, bao quát nhiều vấn đề triết học. Do vậy, có thể khẳng định
Trung Hoa cổ đại không chỉ là một trung tâm văn hóa lớn của vùng Đông Bắc Á mà
còn là một trung tâm văn hóa lớn và phong phú nhất của nền văn minh của phương
Đông - chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại.
Thời kỳ này Trung Hoa có chín trường phái triết học chính – gọi là “Cửu gia”
trong đó Nho gia và Pháp gia là hai trường phái triết học có ảnh hưởng sâu rộng
đến vấn đề chính trị - xã hội, luân lý, đạo đức không chỉ trong xã hội Trung Hoa cổ
đại mà còn có giá trị lâu dài cho đến tận ngày nay.
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có tầm ảnh
hưởng đáng kể đến đời sống tinh thần của nhân dân Trung Hoa cổ đại. Là một học
thuyết chính trị – đạo đức, Nho gia đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức cá nhân,
giáo dục và đào tạo con người.
Pháp gia là trường phái triết học có vai trò quyết định trong sự nghiệp thống
nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Học thuyết pháp trị của
Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến
thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước
Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

2
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Dựa trên những nghiên cứu về hai dòng tư tưởng này, bài tiểu luận là phần trình
bày về “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia & triết học Pháp gia ở
Trung Quốc thời cổ đại”. Kết cấu đề tài này gồm có 5 chương:
 Chƣơng I-Hoàn cảnh ra đời của triết học Nho gia và Pháp gia
 Chƣơng II-Khái quát nội dung triết học Nho gia và Pháp gia
 Chƣơng III-Sự khác biệt giữa hai trƣờng phái triết học
 Chƣơng IV-Sự tƣơng đồng giữa hai trƣờng phái triết học
 Chƣơng V-Hạn chế của triết học Nho gia và Pháp gia
Giáo trình chính được dùng để tham khảo khi thực hiện bài tiểu luận này là:
Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM - Khoa Lý luận chính trị - Tiểu ban Triết học, Triết
học (phần I) dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học, LHNB Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM, 2011; Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác-Lênin (dùng trong các trường đại học và cao
đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
Do thời gian nghiên cứu hạn chế nên đề tài có thể không tránh khỏi những khiếm
khuyết, mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành, sâu sắc của Thầy để
nội dung bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn Thầy.



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


3
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Chƣơng I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA
Nho gia và Pháp gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu.
Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Xã
hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế
lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên
miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu,
hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây
dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã
hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện
những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và
đề ra những hình mẫu của một xã hội trong tương lai. Họ đấu tranh để tranh giành
ảnh hưởng với nhau, tiếp thu, thâm nhập lẫn nhau. Chính trong quá trình ấy đã sản
sinh các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn
chỉnh. Thời kỳ này Trung Hoa có chín trường phái triết học chính – gọi là “Cửu gia”
gồm: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia,
Tung hoành gia và Tạp gia, trong đó Nho gia và Pháp gia là hai trường phái triết học
có ảnh hưởng sâu rộng đến vấn đề chính trị - xã hội, luân lý, đạo đức trong xã hội
Trung Hoa cổ đại và có giá trị lịch sử lâu dài cho đến tận ngày nay.
[2, tr33]
1.1 Nho gia
Người sáng lập Nho gia là Khổng tử (551 - 479 TCN). Sau khi ông mất, tư tưởng
của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia được
chia thành tám phái, trong đó mạnh nhất là phái Mạnh Tử (372 - 298 TCN) và Tuân
Tử (313 – 238 TCN). Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu
hướng khác nhau: duy tâm và duy vật.
[2, tr39]


Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị- đạo đức đến mức coi chúng là tiên
thiên (có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con người và con
người bẩm thụ lấy), “thiên mệnh” quyết định nhân sự. Do đó, xét trên phương diện
thế giới quan, Mạnh Tử đã thể hiện rõ nét chủ nghĩa duy tâm và cách nhận thức của

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

4
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Mạnh Tử rất tiêu biểu cho tư tưởng triết học phương Đông. Do quan niệm bản tính
con người là thiện nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện
với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác. Khi mới sinh
ra con người đã có lòng hiếu lợi, đố kỵ và ham muốn dục vọng
[5]
. Mặc dù bản thân
con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Ở luận điểm này, Tuân Tử đã nhận
thấy vai trò tác động của nhân tố xã hội, của sự học tập đối với tính người. Từ đó,
Tuân Tử chủ trương học theo lễ nghĩa để hoàn thiện con người, đề cao việc giáo hóa
con người nhằm điều tiết cái bản năng, hướng con người tới cái thiện. Tuân Tử coi
thế giới khách quan có quy luật riêng, người có thể thắng trời. Do đó, tư tưởng triết
học của Tuân Tử thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ
[2, tr40]
.
1.2
Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân
nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật
như là phương cách trị nước.

[3]

Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh
chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Ông đề cao “thuật” trong
phép trị nước. Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290
TCN), ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo
của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật.
Thận Đáo đề cao vai trò của “thế”. Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu
cao tư tưởng Pháp trị, đó là Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách
pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép
trị nước Thương Ưởng đề cao “pháp”.
[3]

Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng
trị nước của Pháp gia khi kết hợp cả ba yếu tố “pháp”, “thuật” và “thế”. Từ đó, ông
đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn
chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

5
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Chƣơng II: KHÁI QUÁT NỘI DUNG TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA
2.1 Nho gia
ục con người.
a) Tư tưởng của triết học Nho gia về đạo đức

[2,
tr41]

[2, tr42]

[2, tr42]
, ):
nhân
b) Tư tưởng của triết học Nho gia về giáo dục
+ Nho gia coi việc giáo dục đạo đức là vị trí hàng đầu: Khổng Tử rất đề cao vai
trò của giáo dục vì chỉ có giáo dục mới làm cho con người từ “vô đạo” thành “hữu
đạo”.
+ Mục tiêu của giáo dục: làm cho mọi người hiểu và thực hiện đạo làm người.
+ Đối tượng: đối tượng cần được giáo dục, đào tạo theo Nho gia là tầng lớp
thống trị. Còn đối với dân chúng thì “giáo hóa” để dễ dàng cai trị.
+ Phương pháp giáo dục: Nho gia coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh vai
trò của việc suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của chủ quan, kết hợp học và hành, thấy được
mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học.
+ Phương châm giáo dục: “tiên học lễ, hậu học văn”


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

6
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
c) Tư tưởng của triết học Nho gia về chính trị
+ Về cách trị nước an dân: Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương “lễ trị”
[2,

tr43]
+ Vai trò của người cầm quyền: Nho gia ủ trương “chính danh”: Vua phải
làm tròn phận sự của mình. Ngoài ra, Khổng Tử cho rằng thành bại của việc cai trị
đất nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì
[6]
.
+ Vai trò của dân: Mạnh Tử đề cao vai trò người dân bởi vì nếu không có dân sẽ
không có nước, không có nước thì không có vua, kẻ thống trị nếu không được nhân
dân ủng hộ thì chính quyền sớm hay muộn gì cũng phải sụp đổ. Nó có tác dụng cảnh
báo đối với nhà cầm quyền đương thời: Phải thi hành chính sự như thế nào đó để
được lòng dân, cũng có nghĩa là bảo về lâu dài quyền lợi của nhà cầm quyền.
2.2 Pháp gia
Trái với Nho gia, nội dung cơ bản của triết học Pháp gia là vấn đề pháp trị.
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng. Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây
dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp
chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt - ông gọi đó là
hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Thưởng phạt là nhằm mục đích
thực hiện "pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ. Với nội dung và
mục đích như trên "pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận,
phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối,
đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
[3]

Cùng với "pháp", "thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi
hành thì nhà vua phải có “thế”. "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có
thể thay thế được hiền nhân. “Thế” không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

7
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Để nâng cao thế
của nhà vua, Pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo
pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng.
[3]

Sau “pháp” và “thế”, pháp gia rất chú ý đến “thuật” trong đường lối pháp trị.
“Thuật” trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược… trong việc tuyển người,
dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện
và nhà vua có thể “trị quốc bình thiên hạ”. “Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm,
khảo sát và thưởng phạt. Nhiệm vụ chủ yếu của "thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng
những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực
của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ
máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế.
[3]

 
Chƣơng III: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC
3.1 Nội dung cơ bản:
+ Nho gia: nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học Nho gia là luận bàn về đạo
đức và giáo dục con người. Sinh ra và lớn lên trong thời loạn lạc, Khổng Tử nhận
thấy rằng xã hội bất ổn, có chiến tranh là do con người “vô đạo” (không có đạo
đức), do vậy, theo ông, cần phải đưa con người trở về “hữu đạo” (có đạo đức) bằng
cách “giáo hóa” (giáo dục)

[5]
.
Nội dung đạo đức của Nho gia là luân thường, xoay quanh năm mối quan hệ nền
tảng của xã hội (luân): vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè và năm chuẩn
mực đạo đức cá nhân (thường): nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đó là những tiền đề để thực
hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ổn định, trật tự.
+ Pháp gia: nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học Pháp gia là pháp trị. Pháp
gia coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, do
đó Pháp gia đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước.
Sở dĩ tư tưởng của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một quan
niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng-Mạnh lấy cái quá khứ được tuyệt

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

8
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng: mọi suy nghĩ, hành động, lý luận phải đều
được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Then chốt của việc xây dựng đất
nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Pháp luật được thi hành một cách phổ
quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để
xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc.
[6]
3.2 Ý thức về sự vận động của xã hội:
+ Nho gia: Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến đổi theo một trật tự
không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng của nó là thiên mệnh.
Xuất phát từ thiên mệnh, nho gia tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất, người và
vạn vật, đặc biệt là trên bình diện đạo đức-chính trị-xã hội, chứ không để ý đến khía
cạnh sinh học-tự nhiên trong con người.

[1, tr56]
+ Pháp gia: Pháp gia cho rằng không có một pháp luật siêu hình hay một mô
hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu
chuẩn của thực tiễn
[6]
. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng
lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hóa và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã
hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh
viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị
tồn tại hàng ngàn năm. Người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch
sử, dựa vào đặc điểm thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị
nước sao cho thích hợp.
[3]
3.3 Quan điểm giáo dục:
+ Nho gia: Về quan điểm giáo dục, theo Khổng Tử, mọi người đều cần được
giáo dục; nội dung của giáo dục là đạo đức và nhân cách.
Đối tượng chủ yếu trong giáo dục, đào tạo của Nho gia là những người thuộc giai
cấp thống trị; những người thuộc giai cấp khác nhưng có thể bố sung cho giai cấp
thống trị. Ngoài ra, Nho gia còn coi trọng nhiệm vụ dạy dân, giáo hóa dân. Nho gia
đòi hỏi nhà cầm quyền chăm lo tới việc dạy dân ngang với việc nuôi dân.
Nội dung đào tạo của: làm cho mọi người hiểu và thực hiện đạo làm người.

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

9
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Với mục đích trên, Nho gia thiên về giáo dục chính trị-đạo đức.
+ Pháp gia: Về vấn đề giáo dục, Pháp gia chỉ dạy cho dân biết pháp luật để

tránh phạm pháp; lấy pháp luật làm chuẩn tắc cho hành vi của dân.
3.4 Quan điểm chính trị:
+ Nho gia: Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương “lễ trị” (cai trị bằng luân
lý, chuẩn mực, quy phạm đạo đức) hay “nhân trị” (cai trị bằng tình người, bằng sự
yêu người).
“Lễ” là một trong những phạm trù lớn và cơ bản của Nho gia, được hiểu theo
hai nghĩa:
-Hiểu theo nghĩa rộng là những phong tục tập quán, lễ nghi, nghi thức, quy chế,
kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử
hàng ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho sự phân
định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi
và tình cảm cá nhân thái quá.
-Hiểu theo nghĩa một đức trong “ngũ thường” thì là ý thức, thái độ, hành vi ứng
xử, nếp sống của mỗi con người trong sự thực hành những lễ nghi, nghi thức, giáo
huấn, kỷ cương do Nho gia đề ra.
“Lễ” với những cách hiểu trên là cơ sở, là công cụ chính trị, là vũ khí của một
phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho gia. “Lễ trị” có thể đưa tất cả hoạt
động vào nề nếp, có thể ngăn chặn mọi lỗi lầm sắp xảy ra.
[2,

tr43]

“Nhân trị” phát sinh từ học phái Nho gia được hiểu là sự cai trị đất nước đặt trên
cơ sở bản thân nhà cầm quyền; sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị bản thân
của những người cầm quyền mà ra và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho
người cai trị có đủ tài đức, nghĩa là bên cạnh khả năng, nhà cầm quyền cần phải có
đủ đức hạnh. Thuyết nhân trị còn được hiểu là cách cai trị, theo đó, nhà cầm quyền
phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng dến cưỡng
chế, trừng phạt.
[1,


tr62]


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

10
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
+ Pháp gia: Pháp gia chủ trương “pháp trị”, lấy pháp luật làm căn bản trong
việc cai trị đất nước.
“Pháp” là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa:
-Theo nghĩa rộng “pháp” là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước.
-Theo nghĩa hẹp “pháp” là những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc và
khuôn mẫu.
[3]
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng. Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây
dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp
chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là
thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền.
3.5 Quan niệm về đức hạnh của ngƣời cầm quyền:
+ Nho gia: Nho gia đề cao đức hạnh, nhân cách của người cầm quyền.
Nho gia chú ý giáo dục nhân cách con người theo các quy phạm đạo đức trong
đạo tam cương – ngũ thường, khuyên con người giữ và thực hiện đạo lý, giữ cái
danh trong sáng của mình. Thực hiện giáo dục nhân cách bằng sự gương mẫu, bằng
sự tu thân, cảm hóa người của người cầm quyền – người có nghĩa vụ giáo hóa dân.
Khổng Tử làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước.

Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân.
Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn
định cho đất nước. Theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước
chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt
được qua “lễ”.
[6]
+ Pháp gia: Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao
người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra
sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Pháp gia không chú trọng nhiều
đến việc tu nhân của người cầm quyền.

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

11
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua,
bởi vì theo ông, bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị
tình thế buộc không thể không thờ. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước
giàu mạnh. Do vậy, nhà vua phải có “thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi,
“thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng
phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật không thể thiếu được của
bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với
nhau, đó đều là những “công cụ của bậc đế vương”.
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế” chỉ một sức
mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của vua. “Thế” có vị
trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi
nào nắm quyền thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có
thể cai trị dân chúng. Theo ông: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông”. Để yên ổn trị

nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng
những điểm trọng yếu về thế: 1/Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế. 2/ Vua
không được dùng chung quyền thế với bề tôi. 3/ Cần sử dụng thuật thưởng phạt để
củng cố quyền thế. 4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi
quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua,
thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ.
[6]

3.6 Lý tƣởng triết học:
+ Nho gia: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một
xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên Nho gia phản đối bạo lực,
chiến tranh, chủ trương xây dựng đất nước hòa bình, ổn định; lý tưởng của triết học
Nho gia là xây dựng xã hội đại đồng.
Xã hội đại đồng là xã hội thái bình ổn định, có trật tự kỷ cương, có vua sáng-tôi
hiền, cha từ-con thảo, trong ấm-ngoài êm; mọi người được chăm sóc bình đẳng và
mọi cái đều là của chung; là xã hội có đời sống vật chất đầy đủ, có quan hệ người
với người tốt đẹp; là xã hội có giáo dục, mọi người trong xã hội được giáo hóa. Xã

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

12
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
hội đại đồng là điều mong ước của nhiều thế hệ nhà Nho thời cận đại, biết bao nhiêu
người chịu ảnh hưởng sâu sắc của lý luận này.
[1, tr62]

+ Pháp gia: lý tưởng của triết học Pháp gia là xây dựng phú quốc binh cường.
Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao của quốc gia. Trước đây Khổng Tử

cũng đã từng chủ trương "Tiên phú hậu giáo", nhưng thật sự thì chữ "phú” đó chỉ
chiếm một tỉ số rất nhỏ trong nấc thang giá trị của Nho gia. Đến Mạnh Tử thì lại
càng coi trọng nhân nghĩa hơn phú cường.
Để đạt tới mục tiêu phú cường của mình, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính sách
"Canh chiến", đưa hết trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được như vậy thì
vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh
khuyến khích; một khi xảy ra chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn
trong thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống
giặc. Như vậy, ngoài việc Pháp gia rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ
lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ, đất nước giàu mạnh thì
Pháp gia còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh.
 
Chƣơng IV: SỰ TƢƠNG ĐỒNG GIỮA HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC
Ngoài những đặc điểm khác biệt trên, triết học Nho gia và Pháp gia cũng có
những nét tương đồng như sau:
+ Nho gia và Pháp gia đều thực hiện “thuyết chính danh”. Muốn xã hội có trật
tự thì mọi người phải thực hiện đúng danh phận của mình.
Khổng tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa
vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó,
chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí
và danh phận của mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và
làm rối loạn
[4]
. Để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Riêng đối
với người cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh
của mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


13
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai
trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử
cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được
hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Pháp gia cũng đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là chính danh.
"Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định,
danh lệch thì vật đổi. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận,
chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định.
+ Xây dựng nhà nước phong kiến, quyền lực tập trung vào Vua
Nho gia chủ yếu giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và
chỉ dựa duy nhất vào tầng lớp thống trị này. Tuy Nho gia có chú ý đến việc dạy dân,
giáo hóa dân nhưng không hoàn toàn vì quyền lợi của dân mà chủ yếu là vì bảo vệ
và duy trì quyền lợi của giai cấp thống trị. Việc dạy dân, giáo hóa dân của Nho gia
là để dễ bề sai khiến dân, cai trị dân trong vòng cương tỏa của trật tự xã hội phong
kiến. Như vậy, quan điểm giáo dục của Nho gia thể hiện lập trường giai cấp rất rõ
ràng. Hơn nữa, mục đích của “chính danh” mà Nho gia đề cao là sự ổn định xã hội,
suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử (khi thiên tử là người lập chính danh,
xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người trong xã hội), duy trì
sự phân biệt đẳng cấp.
Để nâng cao thế của nhà vua, Pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ
đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng. Pháp gia sử
dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân
chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung
ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch”
[6]
, từ đó, góp
phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập

quyền phong kiến thống nhất.



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

14
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
Chƣơng V: HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA
Bên cạnh những mặt tích cực thì trong tư tưởng triết học Nho gia và Pháp gia
cũng còn có những hạn chế:
+ Nho gia:
Việc đào tạo con người theo “lễ” mang tính khắt khe đã gò bó, trói buộc con
người, thủ tiêu tính năng động sáng tạo của cá nhân, làm cho con người thụ động và
do đó xã hội trì trệ.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức được trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, tư tưởng này cũng kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất
kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ
biết phục tùng theo danh phận đã được định trước.
Bên cạnh đó những tư tưởng của Nho gia còn có một số hạn chế đó là ủng hộ lối
sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp.
+ Pháp gia:
Pháp gia chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước. Trên
thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã trở nên hùng mạnh và thu
phục được các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho
dân tộc Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia
cùng hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Sỡ dĩ Pháp gia thất

bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm
quá cực đoan như:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp
luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

15
HVTH: Huỳnh Thiên Thảo
KẾT LUẬN
Như vậy triết học Nho gia và Pháp gia có những điểm khác nhau tiêu biểu: nội
dung cốt lõi; ý thức về sự vận động xã hội; quan điểm về giáo dục, chính trị; quan
điểm về phẩm chất, tài năng của người cầm quyền và lý tưởng về một xã hội, đất
nước mà mọi người đều ao ước; nhưng xét một cách tổng quát, chúng ta không thể
phủ nhận những giá trị vô cùng to lớn mà hai hệ tư tưởng này để lại cho thế hệ sau
không chỉ riêng ở Trung Quốc mà còn ở Việt Nam.
Một trong những nội dung quan trọng của Nho gia là bàn về đạo đức con người
và đào tạo con người. Vì là sản phẩm của xã hội phong kiến nên Nho gia vẫn còn có
những hạn chế nhất định. Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn,
kế thừa những mặt tích cực trong quan điểm giáo dục, đào tạo con người của Nho
gia. Trên tinh thần tiếp thu có phê phán, Người đã để lại cho chúng ta những quan
điểm giáo dục có giá trị, là định hướng cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay.
Hồ Chí Minh yêu cầu học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn.
Những lời dạy của Người đã trở thành phương pháp luận trong chiến lược xây dựng

con người mới “xứng tầm thời đại”, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước của
Đảng ta hôm nay.
Những tư tưởng về pháp trị của Pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Hoa cổ đại và quan trọng nhất là cho sự nghiệp thống
nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Mặc dù Pháp gia chỉ tồn tại một thời gian
ngắn trong lịch sử Trung Hoa do có nhiều điểm hạn chế nhưng tư tưởng Pháp gia
vẫn còn nhiều yếu tố tích cực (như việc xây dựng pháp luật phải nghiêm minh, công
bằng, khách quan) có giá trị và có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM - Khoa Lý luận chính trị - Tiểu ban Triết học,
Triết học (phần I) dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học, LHNB Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM, 2011
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác-Lênin (dùng trong các trường
đại học và cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
[3] Nguyễn Thị Kim Bình, Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong
lịch sử, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng – Số 3 (26), 2008
[4] Nguyễn Thị Thanh Mai, Tư tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội – Số 2
[5] Nguyễn Thị Thanh Mai, Về vấn đề đào tạo con người của Nho giáo và sự vận
dụng của Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội – Số
4
[6] Nguyễn Tài Đông, Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi, Viện Triết Học
[7]
[8] />triet-hoc-nho-gia-ve-chinh-tri-dao-duc.html

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chƣơng I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA 3
1.1 Nho gia 3

1.2 Pháp gia 4
Chƣơng II: KHÁI QUÁT NỘI DUNG TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA 5
2.1 Nho gia 5
a) Tư tưởng của triết học Nho gia về đạo đức 5
b) Tư tưởng của triết học Nho gia về giáo dục 5
c) Tư tưởng của triết học Nho gia về chính trị 6
2.2 Pháp gia 6
Chƣơng III: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC 7
3.1 Nội dung cơ bản 7
3.2 Ý thức về sự vận động của xã hội 8
3.3 Quan điểm giáo dục 8
3.4 Quan điểm chính trị 9
3.5 Quan niệm về đức hạnh của ngƣời cầm quyền 10
3.6 Lý tƣởng triết học 11
Chƣơng IV: SỰ TƢƠNG ĐỒNG GIỮA HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC 12
Chƣơng V: HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA 14
KẾT LUẬN 15







×