Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.52 KB, 20 trang )

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC














TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA
Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI


GVHD: TS. Bùi Văn Mƣa
HỌC VIÊN: Nguyễn Thị Vân Tiên


STT: 69
NHÓM 7
LỚP: NGÀY 4 K22


TP. HCM, tháng 12 năm 2012






Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 2

LỜI NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………









Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 3

LỜI MỞ ĐẦU

Triết học Trung Quốc cổ đại là một chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại
mà khi nghiên cứu về Triết học ta không thể bỏ qua. Đất nƣớc Trung Quốc tự hào có
một bề dày lịch sử khá trừu tƣợng và đậm bản sắc dân tộc. Trong bề dày lịch sử của hệ
thống triết học Trung Quốc cổ đại ấy, đã có nhiều trƣờng phái triết học nổi lên mà một
số ít những tƣ tƣởng vẫn còn tồn tại đến bây giờ, trong đó nổi bật lên hai trƣờng phái
mà đƣợc cho là có ảnh hƣởng sâu sắc nhất đến xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, đó
chính là Nho gia và Pháp gia. Nếu nhƣ Nho gia là hệ tƣ tƣởng chính thống của giai

cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến thì Pháp gia là
tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dƣ của
chế độ công xã gia trƣởng truyền thống và tƣ tƣởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đƣơng
thời.Cả hai trƣờng phái triết học tuy có mâu thuẫn nhau về những quan điểm luận
nhƣng vì đều đƣợc sinh ra trong thời đại phong kiến, nhất là thời buổi loạn lạc, nên
nếu đƣợc đem ra xem xét một cách kỹ lƣỡng thì cả hai trƣờng phái đều cùng chung
một mục đích là muốn dẹp yên xã hội đang trong tình trạng rối ren, mong muốn thiên
hạ thái bình.
Nhằm đào sâu hơn nữa những tiếng nói chung và những mâu thuẫn của hai
trƣờng phái Triết học này, tôi thực hiện đề tài “Những điểm tƣơng đồng và khác biệt
của Nho gia và Pháp gia”, đây không phải là một bài toán so sánh tranh cãi trƣờng
phái của ai hay của ai dở, mà qua đó nó giúp ta có thể hiểu rõ hơn những giá trị mà hai
trƣờng phái triết học này mang lại, từ đó có thể rút ra đƣợc những ƣu điểm của mỗi
trƣờng phái để có thể đóng góp vào việc xây dựng những ý tƣởng để xây dựng đất
nƣớc Việt Nam sau này.





Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 4

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1 Triết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển.
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dƣới thời Xuân Thu do Khổng
Tử sáng lập. Khổng Tử sinh (551 TCN - 471 TCN) sống trong thời kỳ loạn lạc có biến
động lớn. Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ,

vừa muốn đổi mới. Rồi dần dần ông hình thành tƣ tƣởng lấy nhân nghĩa làm nòng cốt
để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tƣ tƣởng lớn nhất thời Tiên Tần là
học phái Nho giáo tạo ảnh hƣởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Tuy Khổng Tử là ngƣời sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhƣng
không đƣợc các quân vƣơng thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học nhƣ Tử
Cống, Tử Tƣ, Mạnh Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai
cấp thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng tử và tƣ tƣởng Nho gia của ông mới
trở thành tƣ tƣởng chính thống. Đổng Trọng Thƣ đời Hán hấp thụ nhân cách hoàn
thiện và học thuyết nhân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dƣơng Xuân Thu
áp dụng âm dƣơng bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp nhất
cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Nho gia chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lƣu
truyền. Đƣờng Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia hiệu đính
lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thƣ, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính
nghĩa gần nhƣ tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa
trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đƣờng. Khổng học càng đƣợc giai cấp
thống trị tín nhiệm. Khi lịch sử của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà
Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi
lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dƣơng lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa
thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hƣng ở thời
Tống, chúng ta thƣờng gọi đó là Lý học.
Nho giáo ngày càng đƣợc lƣu truyền rộng rãi và tạo ảnh hƣởng sâu sắc trong xã
hội văn hoá Trung Quốc. Nhƣng cũng do tính phục cổ bảo thủ của nó mà Nho giáo
đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không
bắt kịp trào lƣu văn minh của thế giới.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 5

1.1.2 Những luận điểm cơ bản.

Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền
tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ
(gọi là Tam cƣơng). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dƣới thì vua ở vị trí cao nhất, còn
nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều
này phản ánh tƣ tƣởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một
xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tƣởng của Nho gia là xây
dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dƣới, có vua sáng - tôi
hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi
thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tƣởng của tầng lớp
quý tộc cũ cũng nhƣ của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phƣơng thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tƣởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền
giáo dục của Nho gia chủ yếu hƣớng vào việc rèn luyện đạo đức con ngƣời. Trong
bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực
khác nhƣ Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của
Nhân.
Thứ tƣ, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con ngƣời. Việc giải quyết
những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng nhƣ nhiều học thuyết khác của
Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con ngƣời. Trong học
thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này, nhƣng nổi bật là
quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con ngƣời vốn là thiện" (Nhân chi sơ,
tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con ngƣời từ khi mới
sinh ra nhƣ: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
1.2 Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển.
Cùng với Nho gia, Pháp gia là trƣờng phái triết học có ảnh hƣởng lớn đến sự
nghiệp thống nhất về tƣ tƣởng chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Mặc dù tƣ
tƣởng này chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhƣng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và
có ý nghĩa đến tận ngày nay.

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 6

Những tƣ tƣởng Pháp gia đầu tiên đƣợc xem là xuất hiện vào thời Xuân Thu,
do Quản Trọng là ngƣời nƣớc Tề, sống ở thế kỷ VI trƣớc Công Nguyên (TCN) đề cập
đến. Ông tuy xuất thân từ giới bình dân nhƣng rất có tài chính trị. Tƣ tƣởng của ông
gồm 4 điểm chủ yếu sau: Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cƣờng;
Hai là, phát triển nông, công, thƣơng nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ
chuộc tội; Ba là, chủ trƣơng đề cao “Luật hình lệnh chính”; Bốn là, chú trọng đến đạo
đức, lễ, nghĩa, liêm… trong phép trị nƣớc.Tƣ tƣởng của Quản Trọng bàn về vai trò
của pháp luật trong việc điều hành đất nƣớc, có thể thấy rằng ông chính là ngƣời khởi
xƣớng của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sau Quản Trọng mà một loạt những nhà chính trị phát triển nối tiếp những tƣ
tƣởng của ông nhƣ Thân Bất Hại (401 – 337 TCN), Thận Đáo (370 – 290 TCN),
Thƣơng Ƣởng, và đặc biệt phải kể đến Hàn Phi, sống cuối thời Chiến Quốc, là ngƣời
có công tổng kết và hoàn thiện tƣ tƣởng trị nƣớc của Pháp gia. Đứng trƣớc hoàn cảnh
xã hội rối ren lúc ấy, Hàn Phi chủ trƣơng dùng pháp luật để cai trị đất nƣớc vì bản chất
con ngƣời là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xƣớng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp
luật để uốn nắn tính xấu của con ngƣời; theo ông quản lý xã hội là vị Pháp chứ không
vị Đức. Ông cho rằng không có một phƣơng pháp cai trị vĩnh viễn, cũng nhƣ không có
một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ
đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tƣ tƣởng Pháp gia thành một đƣờng lối trị nƣớc
khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ. Tần Thủy Hoàng đã sử dụng học
thuyết của Hàn Phi và đã thống nhất đƣợc Trung Hoa năm 221 TCN, chấm dứt hơn
năm trăm năm loạn lạc.
1.2.2 Những luận điểm cơ bản.
Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách
quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại

và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau
của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa và phát triển. Từ đó, ông
yêu cầu mọi hành động của con ngƣời không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà
còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 7

Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có
chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi
xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn
đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ nhất định của sản xuất
và văn minh. Đó là:
+ Thời Thƣợng cổ: Con ngƣời biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu
chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con ngƣời đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn
nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội đƣợc ông quy về sự thay đổi của dân số và
của cải xã hội.
Về thuyết "Tính người":
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính ngƣời là ác, đƣa ra học thuyết luân lý
cá nhân vị lợi, luôn có xu hƣớng lợi mình hại ngƣời, tránh hại cầu lợi Kẻ thống trị
phải nƣơng theo tâm lý vị lợi của con ngƣời để đặt ra pháp luật, trọng thƣởng, nghiêm
phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học
thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng
phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị

quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp
là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phƣơng tiện để thực hiện chính sách
đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là
quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi ngƣời trong xã hội phải tuân thủ;
theo nghĩa rộng, pháp đƣợc coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp
đƣợc coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp cho mọi ngƣời
thấy rõ đƣợc bổn phận, trách nhiệm của mình.
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 8

+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của ngƣời cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phƣơng sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua
nhằm lấy danh mà tránh thực.

CHƢƠNG II:SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮATRIẾT HỌC
NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

2.1 Quan niệm biện chứng về thế giới và xã hội quan
2.1.1 Tƣơng đồng
Điểm tƣơng đồng ít ỏi của hai trƣờng phái triết học Nho gia và Pháp gia trong
quan niệm về thế giới và xã hội quan là quan điểm sự vật không ngừng biến hóa. Xuất
phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến hóa
theo một trật tự không gì cƣỡng lại đƣợc, mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên
mệnh. Còn theo Hàn Phi, ông thừa nhận sự tồn tại của lý, điều này chi phối mọi sự
vận động biến hóa của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con ngƣời phải phải nắm lấy
cái lý của vạn vật mà biến hóa hành động cho phù hợp.
2.1.2 Khác biệt
- Nội dung của Nho gia hầu nhƣ đặt trọng tâm ở những vấn đề của thế sự, xã

hội. Đó là các vấn đề chính trị, pháp luật, việc trị - loạn, việc bình định xã hội, quan
điểm về giá trị đạo đức, thẩm mỹ, v.v
Tất cả những cố gắng của Nho gia là tổ chức ổn định trật tự xã hội. Một trong
những nội dung quan trọng của học thuyết là nói về chính trị. Khổng Tử khẳng định
“Đạo ngƣời thì chính trị là việc lớn”. Ông đề ra cái gốc của chính trị, nguyên nhân của
trị loạn, và rất nhiều các biện pháp làm chính trị (noi theo thánh hiền, bồi dƣỡng ngƣời
quân tử, thuận lòng dân, v.v.). Những vấn đề khác mà Khổng Tử đề cập đến cũng
nhằm ổn định xã hội là việc giáo dục, kỷ cƣơng luân thƣờng đạo lý, lễ nhạc, v.v. đều
là những vấn đề của nhân sinh.
Mục tiêu của Nho gia là đào tạo con ngƣời thành “thánh nhân”. Khái niệm
“thánh nhân” ở đây không siêu hình, không phải chỉ bậc tiên thánh có phép thuật, có
năng lực siêu nhiên, mà chỉ ngƣời có tài đức, có khả năng cai trị thiên hạ. Chữ “Nho”
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 9

đƣợc nhiều sách diễn giải ý nghĩa là chỉ ngƣời cần dùng cho xã hội. Khái niệm “Đạo”
của Nho gia nguyên thủy cũng không mang tính siêu hình. “Đạo” đây là đạo của thánh
nhân truyền lại, cụ thể là đạo truyền từ Nghiêu Thuấn, là đƣờng đi, là cái lý, cái giá trị,
cái chuẩn mực, v.v. phải theo.
Nội dung của những vần đề về bản thể luận, vũ trụ, thiên địa, quỷ thần, v.v.
trong Nho gia không đủ sâu rộng, Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc
của vũ trụ nên quan điểm của ông về trời - đất quỷ - thần không rõ ràng. Về trời, một
mặt ông coi đó là giới tự nhiên với 4 mùa thay đổi, trăm vật sinh sôi; nhƣng mặt khác,
ông coi trời là lực lƣợng siêu nhiên quy định số phận và cuộc đời của mỗi con ngƣời,
quốc gia, dân tộc. Về quỷ thân, một mặt ông có thái độ hoài nghi; nhƣng mặt khác,
ông lại coi trọng ma tang cúng tế. Tuy nhiên, để tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận
đạo đức của mình, Khổng Tử và cả Mạnh Tử đều xây dựng thuyết thiên mệnh. Từ đó,
hai ông tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất, ngƣời và vạn vật, đặc biệt là trên bình
diện đạo đức – chính trị - xã hội, chứ không để ý đến khía cạnh sinh học – tự nhiên

của con ngƣời.
- Theo Pháp gia “đạo” đƣợc hiểu là nguyên lý căn bản, là quy luật phổ biến để
hình thành các sự vật hiện tƣợng, đạo tồn tại vĩnh viễn không thay đổi, “lý” là phạm
trù triết học thể hiện mặt chất lƣợng của sự vật riêng của sự vật hiện tƣơng, bất thƣờng
và luôn biến đổi. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Hàn Phi yêu cầu
trong hành động nhất thiết phải tuân theo đạo và lý nghĩa là một mặt phải tuân theo
quy luật khách quan của sự vật, vừa phải nắm cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà
hành động cho phù hợp, mục đích chống lại tƣ tƣởng thủ cựu, bảo thủ.
Về quan điểm xã hội, theo Pháp gia thì trong tự nhiên không có ý chí tối cao, ý
muốn chủ quan không thể tự quyết định thay đổi quy luật khách quan. Hàn Phi phản
đối các học thuyết tôn giáo thần bí lúc bấy giờ, ông cho rằng không có cơ sở gì để có
thể chứng minh đƣợc là quỷ thần có thật. Nếu nhƣ ngƣời đứng đầu mê tín – tin vào
quỷ thần sẽ xã hội sẽ loạn. Còn trong cuộc sống, do khi con ngƣời gặp tai nạn không
giải quyết đƣợc mới tin vào quỷ thần, nếu con ngƣời không sinh bệnh tật thì quỷ thần
sẽ không tồn tại, lịch sử xã hội loài ngƣời luân biến đổi. Từ xƣa đến nay chƣa có xã
hội loài ngƣời nào tồn tại vĩnh viễn cả. Ông chia xã hội loài ngƣời 3 thời kỳ, cổ đại –
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 10

trung đại – hiện đại. Mỗi thời kỳ có đặc điểm khác nhau nên sự phát triển lịch sử
không giống nhau, mỗi thời kỳ phát sinh những vấn đề mới vì vậy ngƣời cai trị phải
căn cứ vào xu thế chung của thời đại để lập ra chế độ mới. Ông cho rằng không có bất
kỳ luật pháp nào luôn luôn đúng, Hàn Phi đã chỉ trích tƣ tƣởng cục bộ , vì vậy nếu lấy
những vấn đề ở thời xƣa mà làm thƣớc đo cho thời hiện tại thì đó là vấn đề ảo tƣởng,
lạc hậu.
Hàn Phi cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi lịch sử loài ngƣời đó là do
lợi ích vật chất, do các quan hệ hành vi con ngƣời. Theo ông, nguyên nhân của mọi
sự biến đổi lịch sử là do dân số tăng lên, đây là nguyên nhân vận động căn bản. Ông
cho rằng, ở thời kỳ nguyên thủy, dân số ít chỉ cần săn bắn lƣợm hái là mọi ngƣời có

đủ lƣơng thực để sống, nhƣng khi dân số tăng lên tài nguyên của cải dần thu hẹp lại,
buộc con ngƣời phải lao động sản xuất. Mà tốc độ tăng dân số lại tăng hơn tốc độ tăng
lên của của cải vật chất nên xảy ra sự tranh giành, cƣớp giật chiến tranh, làm xã hội
trở nên loạn. Vì vậy, cần thiết phải có luật pháp để ngăn chặn những hành vi đó.
2.2 Quan niệm về nhân sinh
2.2.1 Tƣơng đồng:
Có thể nói rằng ở quan niệm về nhân sinh, hai trƣờng phái triết học Nho Gia và
Pháp Gia giống nhau ở tƣ tƣởng “hữu vi” và “tại thế”, đây là điểm khác biệt của hai
trƣờng phái này so với quan điểm “vô vi” và “ngoại thế” của Đạo gia – trƣờng phái
triết học nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con ngƣời. Hai từ hữu vi và vô vi, về nghĩa
đen của từ, chỉ hai trạng thái trái ngƣợc nhau “có làm” và “không làm”. Hai khái niệm
này trong phạm trù tƣ tƣởng triết học thì chƣa hẳn là hoàn toàn trái nghĩa nhau, bởi
khái niệm “vô vi” của Đạo gia khá phức tạp. Đạo gia không cho rằng “hành động”
mang lại tác dụng trong mối quan hệ nhân luân và bồi dƣỡng nhân cách, mà chính “vô
vi” mới mang lại hiệu quả cao nhất. “Vô vi” có thể hiểu là đừng can thiệp, đừng “miễn
cƣỡng”, cứ để mọi việc diễn ra theo cách tự nhiên của chúng. Lão Tử cho rằng “Đạo
không lo liệu, giải quyết bất cứ việc gì, nhƣng không có việc gì mà làm không thành”
(“Đạo thƣờng vô vi nhi vô bất vi” -chƣơng 37, Lão Tử). Lão Tử chủ trƣơng vô vi trên
nhiều phƣơng diện. Ngƣợc lại, quan điểm của Nho gia và Pháp gia thì dùng hành động
để dạy dỗ dân, tề dân, khiến dân, ngăn cấm dân, dù bằng cách này hay cách khác,
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 11

cũng phải tác động ràng buộc con ngƣời bằng những tƣ tƣởng của hai trƣờng phái ấy
(Nho gia ràng buộc con ngƣời bằng “giáo lý, đạo đức” còn Pháp gia ràng buộc con
ngƣời bằng “pháp luật). Con ngƣời theo tƣ tƣởng của Nho gia và Pháp gia phải chịu
gò bó trong những quy tắc đạo lý Ngũ luân Tam cƣơng Ngũ thƣờng Tam tòng Tứ đức
hoặc những quy định pháp luật để khắc phục “tính ác” của mình, nhƣ vậy tức là sự
miễn cƣỡng.

2.2.2 Khác biệt:
Đây là một trong những điểm khác biệt tiêu biểu, phân biệt rõ ràng giữa hai tƣ
tƣởng Nho gia và Pháp gia:
- Nho gia cho rằng “Nhân chi sơ tính bổn thiện. Tính tƣơng cận, tập tƣơng
viễn”. Điều này có nghĩa là: Con ngƣời ban đầu khi đƣợc sinh ra vốn dĩ lƣơng thiện,
tính tình về cơ bản là đồng nhất, nhƣng do môi trƣờng và sự tiếp cận học hỏi khác
nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Vậy nguyên nhân khiến cho con ngƣời trở
nên “vô đạo” chính là do điều kiện hoàn cảnh sống khác nhau. Ông cho rằng muốn
giữ đƣợc tính cho con ngƣời cần phải giáo dục cho con ngƣời, giáo dục cho cả thiên
hạ. Nếu lập đạo của trời nói về âm dƣơng; lập đạo của đất nói về cƣơng và nhu; thì lập
đạo của ngƣời phải nói về nhân nghĩa. Nho gia chủ trƣơng dùng đạo đức để giáo dục
con ngƣời, hƣớng con ngƣời đến cái thiện. Là ngƣời ai cũng có cái tâm. Tâm là cội
nguồn của tính thiện trong con ngƣời. Vì vậy, con ngƣời cần phải trường kỳ tâm
dưỡng kỳ tính – tức là gìn giữ cái tâm thiện ấy. Dù bản tính con ngƣời là thiện, nhƣng
trong cuộc sống của con ngƣời vẫn có cái ác. Ấy là khi kỷ cƣơng xã hội rối loạn, luân
thƣờng đạo lý bị đảo điên. Để lấy lại tính thiện ở con ngƣời thì phải lập lại trật tự kỷ
cƣơng cho xã hội trên cơ sở thực hành đƣờng lối nhân nghĩa.
- Nếu nhƣ Nho gia cho rằng con ngƣời khi sinh ra về cơ bản là thiện thì Pháp
gia thừa nhận bản tính con ngƣời là ác, cho rằng con ngƣời sinh ra vốn có mầm ác
dục, tự lợi, đó là bản chất của con ngƣời, tất cả các quan hệ xã hội từ quan hệ tình cảm
đạo đức, cha con – anh em bạn bè đều trên cơ sở tính toán cá nhân. Về mặt này thì
Hàn phi chịu ảnh hƣởng của Tuân Tử. Tuân Tử định nghĩa chữ tính là cái tự nhiên trời
sinh ra, cái sinh ra đã có sẵn không đợi làm (học tập) rồi mới có (Sinh chi sở dĩ nhiên
giả, vị chi tính - Bất sự nhi tự nhiên giả, vị chi tính). Và ông bảo rằng: “Cái tính của
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 12

con ngƣời là đói thì muốn ăn, mệt thì muốn nghỉ. (Kim nhân chi tính, cơ nhi dục bão,
lao nhi dục hƣu, thử nhân chi tình tính dã). Ba đặc điểm nữa của con ngƣời là hiếu lợi,

đố kỵ, thích thanh sắc: “Tính con ngƣời sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành
ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhƣợng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó
thì thành dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lí không có. Nhƣ thế thì theo cái tính của ngƣời
ta, thuận cái tình của ngƣời ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức quyền lợi
của nhau), làm loạn cái lí mà mắc cái lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để cải
hoá cái tính ấy, có lễ nghĩa để dắt dẫn nó, rồi sau mới có từ nhƣợng hợp văn lí mà
thành ra trị. Vậy theo Tuân tử, tính của con ngƣời là tính thỏa mãn ba nhu cầu chính:
ăn, ngủ, truyền chủng; ngoài ra lại còn hiếu lợi, đố kị.
Hàn Phi không phải là một triết gia, chỉ là một lí thuyết gia về chính trị, có óc
thực tế, không bàn về tính nhƣ Mạnh tử, Tuân tử. Chúng ta chỉ biết theo ông thì con
ngƣời thời thƣợng cổ chất phác, thân với nhau, trọng đức hơn thời trung cổ, và ngƣời
thời trung cổ lại hơn ngƣời thời ông. Mặt khác, ông lại bảo trừ một số ít thánh nhân,
còn thì hạng thƣờng nhân: tranh nhau vì lợi, làm biếng, khi có dƣ ăn rồi thì không
muốn làm gì nữa và chỉ phục tùng quyền lực.
2.3 Quan niệm về thuyết trị quốc và công cụ trị quốc:
2.3.1 Tƣơng đồng
Theo lịch sử, Nho gia và Pháp gia là hai tƣ tƣởng có “mối thù truyền kiếp”,
không những về mặt lý luận, mà trong hành động thực tế, tƣơng truyền Pháp gia là kẻ
chủ mƣu "đốt sách chôn Nho" và ngay từ khi tƣ tƣởng Pháp gia mới hình thành, chƣa
đƣợc tổng hợp thành một hệ thống, chỉ mới là những tƣ tƣởng đơn lẻ, Nho gia đã lên
án kịch liệt. Tuy nhiên, chính vì đều đƣợc hình thành trên cơ sở kinh tế – xã hội của
chế độ chuyên chế phong kiến của Trung Quốc, nên quan điểm trị quốc của hai tƣ
tƣởng này cùng chung một mục đích là bảo vệ sự chuyên chế của hoàng đế - thiên tử.
Chế độ chuyên chế của nhà nƣớc phong kiến muốn thiết lập một trật tự xã hội chặt chẽ
và bền vững. Nó quy định cho mỗi ngƣời một phận, một vị, theo nhu cầu lợi ích của
hoàng đế rồi vừa dùng pháp độ vừa dùng lễ vừa dùng giáo hoá để duy trì.
Ngoài ra, hai trƣờng phái triết học Nho gia và Pháp gia đều muốn răn dạy con
ngƣời vì cùng chung một mục đích là muốn “thiên hạ thái bình” trƣớc cảnh xã hội
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại


Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 13

loạn lạc thời bấy giờ, đây có lẽ cũng là mục đích chung của đa số những tƣ tƣởng
trƣờng phái triết học ra đời vào thời điểm ấy.
2.3.2 Khác biệt:
- Theo Nho gia, muốn cho xã hội thái bình thịnh trị cần phải có kỷ cƣơng đƣờng
lối. Kỷ cƣơng đó là: Quân quân, Thần thần, Phụ phụ Tử tử. Theo Khổng Tử mỗi
ngƣời mỗi vật đều có một giá trị sử dụng nhất định .Nếu biết dùng đúng chỗ sẽ trở
thành hữu ích. Cho nên, làm chính trị là việc rất khó,nhƣng cũng rất dễ nếu đấng minh
quân biết sử dụng ba hạng ngƣời: quả quyết can đảm; minh đạt (có tài lƣờng trƣớc
đoán sau); nghệ tinh(có tài nghệ, am hiểu chuyên môn).
Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đề ra đƣờng lối trị quốc là "nhân trị",chứ
không phải "pháp trị", điều này phản ánh quan niệm của ông về nhân sinh là tin tƣởng
vào bản chất tín thiện nơi con ngƣời . Do đó hệ thống các phạm trù và bảng giá trị về
chính trị - đạo đức đƣợc đặc biệt coi trọng là: nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng. Trong đó chữ
"nhân" đƣợc đặc biệt đề cao và có thể coi là cốt tuỷ của hệ thống đó. Chữ "nhân"trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có những nội dung chủ
yếu: Nhân là yêu ngƣời (nhân giả, ái nhân); nhân là coi ngƣời nhƣ mình, cái gì mình
không muốn thì đừng làm cho ngƣời (kỷ sở bất dục vật thi ƣ nhân), nhân là coi trọng
nguyên tắc xã hội đó nguyên tắc "lễ", ông nói "khắc phục lễ vi nhân" (hạn chế lòng
mình trở lại điều lễ là nhân ).
Đối với ngƣời làm chính trị muốn có đức nhân phải làm năm điều: Một là kính
trọng dân; Hai là khoan dung độ lƣợng; Ba là giữ lòng tin; Bốn là mẫn cán; Năm là
đem lòng nhân ái mà lo cho dân và đối xử với dân.
Về đƣờng lối xây dựng đất nƣớc, Khổng Tử cho rằng, để xây dựng quốc gia
thái bình thịnh trị, ngƣời trị vì đất nƣớc phải chăm lo ba việc lớn là: Túc thực(sản xuất
nhiều của cải), Túc binh (quốc phòng hùng hậu), Thành tín (giữ lòng tin của dân sao
cho dân tin và dân phục). Trong đó theo Khổng Tử, quan trọng nhất là thành tín, thứ
đến là túc thực và sau cùng là túc binh.
Khổng Tử cho rằng tính của con ngƣời do trời phú mà cứ buông lơi, thả lỏng

trong cuộc sống thì tính không thể tránh khỏi tình trạng biến chất theo muôn vàn tập
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 14

tục, tập quán. Trong hoàn cảnh ấy con ngƣời có thể trở thành vô đạo, dẫn đến cả nƣớc
vô đạo và thiên hạ vô đạo. Vì vậy, Khổng Tử khuyên nên coi trọng "giáo" hơn
"chính", đặt giáo hoá lên chính trị. Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, tức là
chỗ "thiện bản thân" thì phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác thành
thiện. "Tu sửa đạo làm ngƣời" là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân
tính của Khổng Tử. Ông không coi giáo dục chỉ là để mở mang tri thức, giải thích vũ
trụ mà ông chú trọng đến việc hình thành nhân cách đầy đủ, lấy giáo dục để mở mang
cả trí, nhân, dũng, cốt dạy ngƣời ta hoàn thành con ngƣời đạo lý .
Muốn đạt đƣợc minh đức, sáng tỏ mọi nguồn lý lẽ của tạo hoá thì phải "cách
vật trí chi" tức là phải tới nơi có sự vật, có sự kiện mà tìm ra ngọn nguồn của nó. Cuối
cùng mục đích của sự học cũng nhƣ mục đích của giáo dục, theo Khổng Tử, là để
"thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, thiên hạ bình", Tức là, học để ứng dụng
cho có ích với đời, với xã hội, chứ không phải để làm quan sang ,bổng lộc. Học còn để
hoàn thiện nhân cách và học để tìm tòi những điều hay lẽ phải, và khi tìm ra đƣợc
những điều này thì sẽ nhận thức đƣợc sự khác nhau của các sự vật.
- Nếu nhƣ Nho gia chủ trƣơng dùng “Đức trị” thì ngƣợc lại, Pháp gia đề cao
“Pháp trị” lên hàng đầu. Do Pháp gia quan niệm bản tính con ngƣời là ác và do trong
xã hội ngƣời tốt nhƣ cũng có nhƣng rất ít và kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên
bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực hành nhân nghĩa
trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác. Vì vậy ngƣời
cai trị phải căn cứ vào tâm lý cầu lợi, cá nhân, vị kỷ của con ngƣời để thƣởng phạt
(đề ra pháp luật) nhằm duy trì trật tự ổn định xã hội.
Theo Pháp gia, con ngƣời sống với nhau nếu biết sống phải trái, biết nhƣờng
nhịn nhau thì thiên hạ sẽ thái bình, nhƣng con ngƣời lại vốn có nhiều ham muốn, để
dân thuận theo bản tính tìm lợi tránh hại thì trên dƣới tranh giành không biết bao giờ

mới dừng. Đứng trên góc nhìn của kẻ cai trị, Hàn Phi cũng xem xét tác hại của lòng tƣ
lợi đối với quốc gia “các nƣớc suy nhƣợc vì quần thần, quan lại của họ đều theo con
đƣờng loạn vong chứ không theo cái thuật trị cƣờng. Cho nên ở vào thời này, nhà cầm
quyền nào biết bỏ tƣ lợi tà tâm mà theo phép công thì dân sẽ yên, nƣớc trị; biết bỏ
hành động riêng tƣ mà làm theo phép công thì binh sẽ mạnh, mà địch sẽ yếu" (Hữu
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 15

độ). Nhƣng Hàn Phi thấy cách giáo hóa bằng đạo nghĩa của chính sách nhân trị không
hiệu quả vì “dân chúng đa số phục tùng quyền lực, đạo nghĩa chỉ cảm hoá đƣợc một
số ít thôi”. Trọng Ni là bậc thánh trong thiên hạ, ông sửa đức, làm sáng đạo, chu du
khắp thiên hạ, nhƣng ngƣời quý lòng nhân nghĩa mà phục dịch ông thì đâu chỉ vào
khoảng bảy mƣơi. Vì số ngƣời quí đức nhân ái vốn ít mà thi hành đạo nghĩa là việc
khó. (Trọng Ni).
Đạo nghĩa không có quyền thế không thể giáo hóa đƣợc đại chúng, vậy nếu đạo
nghĩa có thêm quyền thế hỗ trợ đã đủ để giáo hóa chƣa? Hàn Phi chỉ ra rằng con ngƣời
tuy có cúi mình trƣớc quyền thế nhƣng đằng sau đó thì bản chất vẫn không thay đổi.
Kẻ nắm quyền trong tay thích nhân nghĩa thật sự cũng chỉ làm ra vẻ trƣớc kẻ dƣới mà
thôi. Vì vua là “cái đích lợi hại ai nhắm trúng, đoán đúng ý của vua, thì có lợi, ngƣợc
lại thì có hại”. Đoán đúng ý vua có lợi vì bề tôi có thể lợi dụng điều vua yêu ghét để
mê hoặc vua (Ngoại trừ thuyết hữu thƣợng). “Vua để lộ lòng ghét của mình thì bề tôi
che giấu cái xấu của họ; vua để lộ lòng yêu thích thì bề tôi làm ra bộ tài năng để hợp
với sở thích của vua; vua để lộ lòng muốn thì bề tôi sửa đổi tính tình thái độ để thích
ứng với lòng vua mà cầu lợi” (Nhị bính). Cai trị dân bằng quyền lực theo chính sách
nhân trị chỉ làm cho xã hội thêm loạn, loạn theo kiểu con ngƣời sống nhau ngày càng
giả dối, thủ đoạn tranh giành quyền lợi ngày càng tinh vi, rồi sẽ có lúc chẳng phân biệt
đâu là thật đâu là giả nữa.
Con ngƣời khó đƣợc đạo nghĩa cảm hóa. Nên thay vì làm việc khó là sửa đổi
bản tính bẩm sinh “ác” của con ngƣời, Hàn Phi chủ trƣơng chấp nhận và thi hành

đƣờng lối chính trị phù hợp tính tự nhiên của con ngƣời: “trị thiên hạ thì phải theo tình
ngƣời, mà tình ngƣời là có ƣa có ghét, vì vậy mà sự thƣởng phạt (Thế) có thể dùng
đƣợc; thƣởng phạt có thể dùng đƣợc thì có thể ban cấm lệnh (Pháp); đạo trị thiên hạ
thế là đủ” (Bát Kinh). Việc điều chỉnh hành vi của con ngƣời sẽ đƣợc thực hiện bằng
hình thức thƣởng phạt, việc thƣởng phạt không tùy hứng mà phải phù hợp theo pháp
luật đã quy định theo một chuẩn chung đƣợc ban hành rộng rãi khắp cả nƣớc, và nhờ
uy quyền mà cả nƣớc thống nhất đƣợc theo hƣớng chung đó. Thƣởng phạt theo đúng
pháp luật, đánh vào tƣ lợi làm cho hành vi của dân phù hợp công lợi, đó là đạo trị
thiên hạ của Hàn Phi. Có công lao mới đƣợc tƣớc lộc, có tội thì bị hình phạt, tận lực
tới chết cho quốc gia chỉ vì lợi ích bản thân mình. Ngƣời có quyền thích nhất sự trung
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 16

thành của kẻ dƣới và ghét nhất sự bất trung. Yêu cầu triệt bỏ lòng trung là hình thức
cao nhất của đòi hỏi đối với ngƣời cầm quyền trong học thuyết Hàn Phi: không đƣợc
để cho quyền thế phục vụ cho lợi ích riêng mình mà ảnh hƣởng đến lợi ích chung.
Hình pháp có thể trị thiên hạ vì nó có thể giúp vua chúa thi hành những chính
sách tạm mất lòng dân. Không nhƣ nho giáo dùng đạo đức trị hợp lòng ngƣời, đạo của
pháp gia lại trái lòng ngƣời. Ông khinh thƣờng những ngƣời chỉ biết lợi trƣớc mắt mà
không biết hi sinh cái lớn lao hơn. Ông càng phản đối tƣ tƣởng trị nƣớc “đƣợc lòng
dân”, vì trí tuệ của dân giống nhƣ trí tuệ của trẻ con, luôn có cái nhìn thiển cận. Ông
so sánh hình ảnh nhân dân với đứa trẻ bị đau ở đầu, nhất định không chịu đau một
chút mới hết bệnh, tƣơng tự với dân, ghét hình phạt nghiêm và nặng, nhƣng không
biết rằng chỉ nhƣ thế dân mới “đƣợc trị”. Cho nên đạo của Pháp gia lúc đầu phải mất
lòng dân nhƣng thật ra lại vì đƣợc lòng dân sau này, ban đầu trái lòng ngƣời để mƣu
cầu cái lợi lâu bền cho ngƣời. “Dùng pháp luật thì trƣớc chịu khổ sau đƣợc lợi lâu
bền; còn theo đạo nhân từ thì mới đầu đƣợc vui mà sau sẽ khốn cùng.” (Lục phản)
Hình phạt là công cụ tác động mạnh mẽ nhất vào lòng ngƣời: “dân vốn đƣợc
yêu thì nhờn, phải dùng uy lực mới chịu nghe”. “Mẹ tích lũy lòng yêu con mà lệnh

không đƣợc theo; quan lại dùng oai nghiêm mà dân tuân lệnh” (Lục Phản). Nhận thấy
đƣợc hiệu quả của uy thế trong việc trị nƣớc nên theo Hàn Phí đức tính của kẻ cầm
quyền là mạnh mẽ, còn pháp luật Hàn Phi thiên về hình pháp. “Khống chế quan lại, ra
oai với nhân dân, trừ sự bậy bạ, biếng nhác, ngăn sự gian trá, thì không gì bằng hình
phạt. Hình phạt nặng thì ngƣời sang không dám khinh kẻ hèn; pháp luật phân mình thì
ngƣời trên đƣợc tôn trọng, không bị lấn. Ngƣời trên đƣợc tôn trọng, không bị lấn, thì
vua mạnh, nắm đƣợc các mối quan trọng” (Hữu độ). Và theo Hàn Phi, cách cai trị
bằng hình thức bạo lực không chỉ cho việc nội trị và còn cần dùng đối với các nƣớc
khác. “Ta mạnh thì ngƣời triều phục ta, ta yếu thì phải triều phục ngƣời, cho nên bậc
minh quân chỉ cần sao cho đƣợc mạnh. Nhà nghiêm thì không có đầy tớ ngỗ nghịch,
còn mẹ hiền thì con hƣ. Do đó tôi biết rằng uy thế có thể cấm đƣợc sự hung bạo, mà
đức dày không đủ để ngăn loạn.” (Hữu độ).


Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 17



















KẾT LUẬN
Nho gia và Pháp gia, hai trƣờng phái tuy có những quan điểm trái ngƣợc nhau,
nhƣng nhìn chung đều chú trọng về vấn đề con ngƣời, cùng chung mong muốn giải
quyết thế sự. Sự khác biệt về quan điểm ấy là do những nhà tƣ tƣởng ở trong hai hoàn
cảnh lịch sử khác nhau, môi trƣờng tự nhiên khác nhau nên và thân phận xã hội khác
nhau, nên suy tƣ, lý luận, cách nhìn và giải quyết vấn đề theo những hƣớng khác nhau.
Nguyên tắc Pháp trị của Pháp gia Hàn Phi Tử tuy đối lập với chủ trƣơng nhân trị của
Nho gia Khổng Mạnh nhƣng xét cho cùng, chủ trƣơng Pháp trị cũng chỉ là một hình
thức cụ thể của Nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi hành đƣợc các chủ trƣơng của phái
Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân sáng suốt, am hiểu nguyên
tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó. Từ quan điểm của hai trƣờng phái
đã nêu ra một số vấn đề cho hậu thế suy nghĩ: làm chính trị có nên dùng “thuật”
không, giáo dục có cải hóa đƣợc con ngƣời không hay phải dùng hình phạt nghiêm
khắc; nhà cầm quyền là một hiền triết nhƣ Khổng Tử chẳnghạn có lợi cho quốc gia
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 18

bằng một chính trị gia có óc thực tế nhƣ Hàn Phi không? Khó đáp một cách dứt khoát
là “không” hay “có” đƣợc. Chúng ta có thể nói rằng cho tới nay không có một nhà nào
cầm quyền đƣợc lâu mà khôngphải có con ngƣời tốt để thực hiện mà chính những nhà
nhƣ Khổng Tử mới có công đào tạo những con ngƣời ấy. Nhƣng dù nói gì đi nữa, thì
hai trƣờng phái đã đóng góp những giá trị tƣ tƣởng khác nhau vào công cuộc biến đối
xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc của đất nƣớc Trung Hoa thời bấy giờ, đồng thời
góp phần sáng tạo nên một nền văn hóa Trung Hoa vô cùng phong phú và rực rỡ.

Những giá trị mà chúng mang lại, không chỉ nằm trong biên giới đất nƣớc Trung Hoa
mà còn lan rộng ra nhiều quốc gia lân cận trong đó có Việt Nam. Các nhà triết gia
Việt Nam đã dày công nghiên cứu, tìm tòi, vƣợt qua những hạn chế và kế thừa có
chọn các giá trị trong lịch sử triết học thế giới nói chung và triết học Trung Hoa cổ đại
nói riêng, trong đó có Nho gia và Pháp gia, nhằm mục tiêu làm phong phú lịch sử triết
học Việt Nam, đồng thời theo đuổi mục tiêu giải quyết các mục tiêu của công cuộc
xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

TS. Bùi Văn Mƣa, Triết học Phần I: Đại cương về lịch sử Triết học, ĐH Kinh Tế Hồ
Chí Minh, TP.HCM, 2011.
Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi, Hàn Phi Tử, NXB Văn Hóa, 1994.
Nho Giáo – Wikipedia Tiếng Việt,
Pháp Gia – Wikipedia Tiếng Việt,
Nguyễn Thị Kim Bình, Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong lịch
sử,
Nguyễn Thị Kim Bình, Đường lối “Đức trị” của Nho giáo – từ Khổng Tử đến Mạnh
Tử,
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 19

Cao Huy Đình, Nho giáo trong lịch sử văn hóa Việt Nam, Đại học văn hóa Hà Nội,
/>Nam.html












MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN. 4
1.1 Triết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại. 4
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển. 4
1.1.2 Những luận điểm cơ bản. 5
1.2 Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại. 5
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển. 5
1.2.2 Những luận điểm cơ bản. 6
Về tự nhiên: 6
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Nguyễn Thị Vân Tiên – Nhóm 7 – STT 69 – Ngay4k22 Page 20

Về lịch sử: 7
Về thuyết "Tính ngƣời": 7
Tƣ tƣởng về pháp trị. 7
CHƢƠNG II: SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC
NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 8
2.1 Quan niệm biện chứng về thế giới và xã hội quan 8
2.1.1 Tƣơng đồng 8
2.1.2 Khác biệt 8

2.2 Quan niệm về nhân sinh 10
2.2.1 Tƣơng đồng: 10
2.2.2 Khác biệt: 11
2.3 Quan niệm về thuyết trị quốc và công cụ trị quốc: 12
2.3.1 Tƣơng đồng 12
2.3.2 Khác biệt: 13
KẾT LUẬN 17

×