Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM DƯƠNG GIA ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.25 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM DƯƠNG GIA ĐẾN XÃ
HỘI PHƯƠNG ĐÔNG

TPHCM, ngày 15 tháng 12 năm 2012
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Học thuyết Âm dương ngũ hành và những ví dụ thực tiễn trong tự nhiên
và trong Đông y
1.1. Quy luật Âm dương
1
Người thực hiện: Đặng Như Ý
STT: 89
Nhóm: 9
Lớp: Ngày 4 Khóa 22
Giảng viên phụ trách: TS Bùi Văn Mưa
1.1.1. Các quy luật của học thuyết âm dương
1.1.2. Các cặp phạm trù trong học thuyết Âm dương
1.2. Học thuyết Ngũ hành
2. Ứng dụng của quy luật Âm dương Ngũ hành trong Đông y
2.1. Ứng dụng vào phân chia các tổ chức cơ thể trong Đông y
2.2. Ứng dụng vào phân tích nguyên nhân và chuẩn đoán bệnh tật trong
Đông y
2.3. Ứng dụng vào điều trị bệnh tật trong Đông y
2.4. Ứng dụng vào dược học Đông y
3. Ứng dụng học thuyết Âm dương ngũ hành và Đông y vào đời sống bản
thân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ đại là một trong những nền văn minh sớm nhất của nhân loại.
Lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác
nhau, phản ánh cuộc đầu tranh bền bỉ của nhân dân Trung Hoa cổ đại trong việc
chinh phục tự nhiên, xây dựng và phát triển hoàn thiện dần các chế độ kinh tế
chính trị, xã hội qua các thời đại. Chính trong quá trình lịch sử đó, học thuyết
Âm dương Ngũ hành đã xuất hiện. Sau đó học thuyết này không những được
2
nhiều trường phái triết học tìm hiểu, lý giải, khai thác mà còn được nhiều ngành
khoa học khác quan tâm vận dụng.
Học thuyết âm dương ngũ hành được nhiều người quan tâm, tìm hiểu, vận dụng
vào nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống khác nhau như toán học, phong thủy
học, y lý học, dược học. Tuy nhiên nổi bật nhất trong các lĩnh vực kể trên là
Đông y phương Đông (sau đây gọi là “Đông y”). Học thuyết Âm dương Ngũ
hành được ứng dụng vào Đông y từ rất sớm. Các thầy thuốc nổi tiếng ở Trung
Quốc cũng như Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác đều đã vận dụng triệt
để học thuyết Âm dương ngũ hành để giải thích nguyên nhân, cơ chế phát sinh
bệnh tật, điều trị và phòng bệnh của Đông y trong thực tiễn lâm sàng, trước hết
là trong việc chuẩn đoán và điều trị bệnh cho nhân dân.
Mục đích của bài viết này là tìm hiểu sâu hơn về học thuyết Âm dương Ngũ
hành và những ứng dụng cơ bản của học thuyết này trong y lý và phương pháp
chữa bệnh của Đông y. Về phương pháp nghiên cứu bài viết này dùng phương
pháp mô tả, phân tích dựa trên các tài liệu sẵn có. Bài viết chỉ giới hạn trong
những điểm cơ bản nhất về học thuyết Âm dương Ngũ hành và ứng dụng cơ bản
trong y lý, dược học và chữa bệnh của Đông y. Tuy nhiên, với những giới hạn
kiến thức nhất định và khả năng nghiên cứu có hạn nên bài tiểu luận không
tránh khỏi một số thiếu sót, rất mong được góp ý của Thầy để bài viết được hoàn
thiện hơn.
3
4. Học thuyết Âm dương ngũ hành và những ví dụ thực tiễn trong tự

nhiên và trong Đông y
4.1. Quy luật Âm dương
4.1.1. Các quy luật của học thuyết âm dương
Hình 1: Thái cực
 Quy luật âm dương đối lập: Âm và Dương không những phản ánh hai lực
lượng đối lập, hai khuynh hướng đối lập nhau mà hai khuynh hướng này còn
liên kết chặt chẽ, gắn bó với nhau. Đơn cử như một sự vật hiện tượng luôn có
hai mặt đối lập nhau, tuy nhiên hai mặt này luôn gắn bó chặt chẽ tạo thành bản
chất của một sự vật, trong mặt này có mặt kia và ngược lại.Đó là sự đối lập
không gian trước-sau; trong- ngoài; trên -dưới; cao -thấp. Đối lập thời gian
Đêm- ngày; lâu-mau; nhanh-chậm; cấp tính-mạn tính Đối lập tính chất như
nóng -lạnh; sáng -tối; ẩm- khô; hưng phấn-ức chế; buồn-vui; sinh trưởng-tiêu
vong; sự sống-cái chết; hoạt động- yên tĩnh; thông suốt-bế tắc sự đối lập là
tuyệt đối và vĩnh hằng. trong vạn vật trên hành tinh này, thì âm dương luôn đấu
tranh, luôn đối lập nhau nhưng luôn gắn bó, thống nhất với nhau, trong âm có
dương, trong dương có âm, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động…Ví dụ như
trong một cơn bão, thời tiết luôn yên ả bình thường trước khi xảy ra cơn bão, đó
là âm, nhưng sự yên ắng này lại ẩn chứa sự tàn phá khủng khiếp và nhanh chóng
của cơn bão, đó là động. Nhưng khi cơn bão đến, sức gió mạnh nhanh chóng tạo
ra sự tàn phá những nơi nào mà nó đi qua, tuy nhiên, trong tâm cơn bão thì gió
rất lặng. Như vậy, ta thấy được trong âm có dương, trong tĩnh có động và ngược
4
lại trong dương có âm, trong động có tĩnh. Hai mặt đối lập đó luôn luôn vận
động trong sự thống nhất với nhau nhưng cũng mâu thuẫn và đối lập nhau. Phân
tích cụ thể trong hình 1, nếu xem như thái cực là một hình tròn là một biểu trưng
cho vạn vật thì trong hình tròn có hai thành phần, hai lực lượng, hai tính chất.
Hình tròn có đường cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là
âm, một phần là dương. Dương thể hiện qua phần màu trắng trong hình tròn và
âm thể hiện qua phần màu đen. Trong phần âm có nhân dương và trong phần
dương có nhân âm. Hai phần này là thiết yếu, là bản chất của hình tròn, tuy đối

lập nhưng luôn gắn bó mật thiết trong sự thống nhất với nhau tạo ra hình tròn.
 Âm dương hỗ căn: Hỗ là hỗ trợ, căn là gốc rễ cuội nguồn, hỗ căn có nghĩa là
hai mặt âm dương luôn luôn là đối tác của nhau, mặt nọ lấy mặt kia làm mục
tiêu cho sự phát triển của mình. Nói cách khác thì hỗ căn là sự lương tựa lẫn
nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa lẫn nhau
mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật, không
thể đơn độc phát sinh, phát triển được. Phân tích cụ thể trong hình, từ phần nhân
âm theo chiều kim đồng hồ thì phần âm mở rộng theo đường cong chia cắt
đường tròn và có xu hướng lấn dần qua phần dương, lấy phần dương là mục tiêu
phát triển của nó và ngược lại đối với phần dương. Đông y dùng quy luật này để
giải thích các trạng thái và hoạt động trong con người như hưng phấn và ức chế
đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não nhưng hưng phấn phải đạt cân
bằng với ức chế thì não mới cân bằng số lượng đồng hoá phải căn cứ và mức độ
dị hoá, số lương vật chất sinh thành dựa trên cơ sở số lượng mất đi. Có đồng hoá
mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá không
tiếp tục được. Có số âm mới có số dương.
 Âm dương tiêu trưởng: Tiêu là mất đi, trưởng là sinh trưởng, quá trình tiêu
trưởng chính là phủ định của phủ định theo quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Nói cách khác, tiêu trưởng là sự vận động không ngừng sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa hai mặt âm dương. Sự vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai
đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là “Dương cực sinh âm,
5
âm cực sinh dương, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”. Quá trình vận động
không ngừng của âm dương mọi sự vật sinh ra, lớn lên, già cỗi, mất đi rồi lại
sinh ra. Từ hình 1, ta có thể thấy được trong hình tròn thì khi dương phát triển
đến một mức nào đó thì sẽ tiêu biến và thay vào đó là sự sinh sôi phát triển của
phần âm. Khi dương cực thì sinh âm đó là phần nhân âm trong phần dương và
tiếp đó là phần âm phát triển. Ngược lại, khi âm cực thì sinh dương, vào lúc âm
cực thịnh phát triển mạnh nhất thì xuất hiện nhân dương và từ đó dương phát
triển, âm tiêu biến. Hình này thể hiện rõ được quy luật âm dương tiêu trưởng

của học thuyết âm dương khi thái âm có thiếu dương thì thiếu dương phát triển
đến cùng sẽ sinh ra thái dương và thiếu âm. Ví dụ cụ thể, khí hậu bốn mùa trong
năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh, từ lạnh sang nóng là
quá trình “âm tiêu dương trưởng” từ nóng sang lạnh là quá trình “dương tiêu âm
trưởng” do đó có khí hậu mát, lanh, ấm và nóng. Người ta còn xem mùa xuân là
thiếu dương, hết mùa xuân sẽ đến mùa hè là thái dương, sau đó chuyển sang
mùa thu là thiếu âm, cuối cùng sang mùa đông là thái âm. Dựa vào quy luật trên,
đông y giải thích rằng trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần
dương (như sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc
bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến
phần dương (như choáng, truỵ mạch gọi là thoát dương). Cụ thể như, nhiễm
lạnh sẽ dẫn tới sốt, sốt cao kéo dài sẽ bị chuyển hoá thành lạnh; Hưng phấn quá
rồi sẽ bị ức chế, ngược lại ức chế quá sẽ xuất hiện hưng phấn.
 Âm dương bình hành: là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập. Mặc dù đối lập,
tiêu trưởng nhưng hai mặt âm dương luôn hỗ trợ nhau vận động không ngừng,
luôn lặp lại được thế thăng bằng, thế quân bình giữa hai mặt để chúng cân bằng
với nhau, sự cân bằng này mang tính phiếm định, có nghĩa là sự cân bằng trong
trạng thái luôn vận động biến đổi liên tục. Phân tích trong hình thì ta thấy hai
mặt âm dương tuy đối lập nhưng gắn bó mật thiết với nhau. Âm dương tiêu
trưởng theo quy luật dương cực sinh âm và âm cực sinh dương. Hai lực lượng
6
này chuyển hóa lẫn nhau, biến hóa theo quy luật động, biến, hóa, thông. Tuy
nhiên luôn giữ được sự cân bằng giữa âm và dương, thể hiện qua diện tích hai
phần luôn bằng nhau, trong âm có nhân dương và trong dương có nhân âm. Dựa
vào quy luật trên, đông y giải thích rằng thức dậy là phải hưng phấn, khi ngủ là
ức chế, tuy luân đổi nhau nhưng phải cân bằng nhau; Thân nhiệt luôn duy trì
37
o
C là quá trình cân bằng giữa sinh nhiệt và mất nhiệt; Ăn uống để tích luỹ
năng lượng là đồng hoá thuộc âm, hoạt động tiêu hao năng lượng là dị hoá thuộc

dương, đồng hoá - dị hoá phải cân bằng nhau
Bốn quy luật trên thể hiện bốn mặt của sự vật, các tính chất của một sự vật,
hiện tượng tuy mâu thuẫn nhưng thống nhất, thăng bằng nhưng vận động
không ngừng, nương tựa nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh,
phát triển và tiêu vong của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Các cặp phạm trù trong học thuyết Âm dương
 Âm dương có trong nhau: Trong một sự vật, hiện tượng luôn có hai mặt đối
lập, luôn tồn tại song song, không tách rời nhau. Trong mặt tốt thì có cái xấu,
trong mặt xấu cũng có cái tốt. Ví dụ như ban ngày là dương, ban đêm là âm, thế
nhưng từ 24h-6h là dương nằm trong âm; 6h-12h là dương nằm trong dương;
12h-18h là âm nằm trong dương; từ 18h-24h âm nằm trong âm. Quả Ớt, xét về
hình thể, quả ớt có màu đỏ, do đó thuộc dương, nhưng ớt có vị cay, khi vào ruột,
làm nở các mao trạng ruột, tiêu thức ăn nhanh, như vậy, ớt có đặc tính âm nếu
xét về công dụng. Tạng Tâm, xét về hình thể là quả tim, đặc nặng, nên mang đặc
tính dương tức là dương về hình thể, nhưng tâm lại có nhiệm vụ cung cấp máu
cho toàn cơ thể, máu thuộc âm, do đó tâm mang đặc tính âm xét về công dụng.
 Phạm trù tương đối -tuyệt đối: Như giải thích ở trên, hai mặt đối lập, hai
phạm trù âm dương không tách rời nhau mà gắn bó, nương tựa lẫn nhau. Tuy ức
chế nhau nhưng sự ức chế giữa hai mặt đối lập này không hoàn toàn. Dương
không thể thắng, ức chế âm hoàn toàn. Vì vậy trong hình ta thấy thái dương
7
nhưng có nhân âm, lúc dương cực thì vẫn có tồn tại âm, ngược lại lúc âm cực
nhưng vẫn có nhân dương. Hình cho thấy rằng hai phạm trù này không tuyệt
đối, hai mặt đồi lập này không phủ định hoàn toàn nhau, tất cả chỉ mang tính
tương đối. Y học đã ứng dụng phạm trù này để giải thích như sau: Nóng là
dương nhưng sốt nhẹ là nhiệt, sốt cao là hoả, sốt rất cao là nhiệt quyết; Lạnh là
âm, lạnh ít gọi là lương, lạnh nhiều là hàn, lạnh rất nhiều là hàn quyết. Như vậy
trong dương hoặc âm cũng có nhiều mức độ không giống nhau.
 Phạm trù bản chất hiện tượng: Bình thường hiện tượng phản ảnh bản chất,
trong điều kiện bất thường hiện tượng có thể phản ảnh sai bản chất sự vật. Đối

với tất cả sự vật hiện tượng, biểu hiện ra bên ngoài là kết quả của sự đấu tranh
của hai mặt đối lập, bên cạnh đó hai mặt này còn tương hổ, bổ trợ nhau. Vì vậy
khi nhìn biểu hiện ở bên ngoài ta khó có thể nhận biết được bản chất của sự vật
bên trong là thái dương, thái âm hay thiếu dương, thiếu âm. Phân tích trên hình
ta thấy được trong thái dương lại có thiếu âm, chính thiếu âm tạo nên thái
dương, như vậy khi biểu hiện ra ngoài của một sự vật, hiện tượng là thái dương.
Như vậy, phân tích sâu xa bên trong thì chính thiếu âm tạo nên biểu hiện thái
dương ở bên ngoài chứ không phải thái dương như ta vẫn nghĩ. Trong y học,
người ta áp dụng phạm trù này để giải thích bản chất sâu xa của nhiều hiện
tượng bệnh lý, giải thích những hiện tượng lâm sàn của bệnh nhân. Ví dụ, trong
bệnh thương hàn là nhiễm trùng đường tiêu hoá lẽ ra sốt cao thì mạch phải
nhanh, nhưng vì nhiễm độc nội độc tố nên mạch chậm, có xu hướng truỵ mạch
chân tay lạnh, người lạnh, biểu hiện hiện tượng giống triệu của hàn nhưng bản
chất là nhiệt. Người bệnh nhiễm lạnh sau đó phát sốt nóng, biểu hiện là nhiệt mà
bản chất là do hàn
1
.
4.2. Học thuyết Ngũ hành
1 Thu Nguyễn (1999)
8
Theo nhân sinh quan của người Trung Hoa cổ đại Học thuyết ngũ hành là học
thuyết âm dương được liên hệ một cách cụ thể hơn trong việc quan sát, quy
nạp sự liên quan của các sự vật. Vạn vật được tạo thành từ năm yếu tố năm loại
vật chất chính đó là: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ
(đất), gọi là ngũ hành. Vì vậy vạn vật đều thể hiện bản chất của ngũ hành cụ thể
trong bảng.
Bảng 1: Ngũ hành
NGŨ HÀNH
HIÊN TƯỢNG
MỘC HÕA THỔ KIM THUỶ

Vật chất Gỗ Lửa Ðất Kim loại Nước
Màu sắc Xanh Ðỏ Vàng Trắng Ðen
Ngũ vị Chua Ðắng Ngọt Cay Mặn
Thời tiết Xuân Hạ Tứ quý Thu Ðộng
Phương Ðông Nam Trung tâm Tây Bắc
Ngũ tạng Can Tâm Tỵ Phế Thận
Ngũ thể Can Mạch Nhục Bi phu Cốt
Ngũ quan Mắt Lưỡi Miệng Mũi Tai
Tình chí Giận Mừng Lo nghĩ Buồn Sợ
Vạn vật trên thế giới nếu xem xét theo quy luật ngũ hành đều có mối quan hệ
trong ngũ hành sinh hóa và ức chế lẫn nhau theo quy luật tương sinh và tương
khắc giữa ngũ hành, được diễn giải cụ thể bằng hình dưới đây
Hình 2: Quy luật Ngũ hành
9
Theo chiều mũi tên in đậm tạo nên các cạnh của hình ngũ giác ở hình 2 ta thấy
được quy luật tương sinh trong học thuyết Ngũ hành: thổ sinh kim, kim sinh
thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thủy. Theo chiều mũi tên làm nên
các cạnh ngôi sao ta thấy được quy luật tương khắc: mộc khắc thổ, thổ khắc
thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.
Bảng 2: Quy luật Ngũ hành
Quy luật tương sinh Quy luật tương khắc
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế

Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
5. Ứng dụng của quy luật Âm dương Ngũ hành trong Đông y
5.1. Ứng dụng vào phân chia các tổ chức cơ thể trong Đông y
2
Kết cấu tổ chức của cơ thể tồn tại ở các mặt đối lập liên hệ phức tạp lẫn nhau,
những mặt đối lập ấy đều có thể dùng âm dương để khái quát và nói rõ mối
2 Dương Phạm (2007)
10
liên hệ lẫn nhau của nó. Thân thể con người được chia ra như sau: bên ngoài
(lưng) là dương, bên trong (bụng, ngực) là âm; lục phủ gồm tâm, can, tỳ, phế,
thận thuộc âm, còn ngũ tạng gồm tiểu trường, đởm, vị, đại trường, bàng quang,
tam tiêu thuộc dương … Còn dựa vào thuyết ngũ hành, các nhà y học đã đề ra
thuyết ngũ tạng để tạo thành một mô hình tự điều chỉnh gồm năm trung tâm
chức năng của cơ thể là: tâm, can, tỳ, phế, thận và mỗi tạng của cơ thể đều
được ứng với một hành. Ví dụ, như can ứng với hành mộc bởi vì tính của cây
gỗ thì cứng cỏi, giống chức năng của can là một vị tướng. Ngoài ra cách phân
chia dựa theo công năng cơ thể để tìm sự tương ứng với hành nào đó trong ngũ
hành cũng được chấp nhận. Theo những ý niệm cơ bản nhất về ngũ tạng,
chúng ta có thể hiểu cơ bản Tạng phủ của Đông y không phải là môn học giải
phẫu, hình thái học mà có thể tạm coi là môn Cơ thể Sinh Lý học. Mọi hoạt
động sinh lý của con người đều từ tạng phủ, mọi thứ biến hóa bện lý cũng đều
có liên quan đến tạng phủ. Dựa vào những hoạt động được thể hiện ra bên
ngoài, người xưa sắp xếp những nhóm chức năng vào thành Tạng Phủ. Chẳng
hạn như: Tạng Thận của Đông y không phải là 2 quả thận đơn thuần mà là
những chức năng một phần của thần kinh trung ương của sinh dục, tiết niệu, có
liên quan đến cả hô hấp (Thận nạp khí). Cụ thể như sau:
 Tạng Tâm thuộc hành Hoả, là tạng đứng đầu các tạng phủ, Tâm làm chủ những
hoạt động tâm thần như nhận thức, tư duy, trí nhớ, thông minh, tương ứng
những chức năng của vỏ đại não. Ngoài ra, tạng Tâm phụ trách về tuần hoàn và
máu, huyết liên quan nhiều tạng khác như Can, Tỳ, Thận.

 Tạng Can thuộc hành Mộc, tính ưa vận động và vươn toả, phò tá cho Tâm (ở
đây ta thấy rõ được quy luật tương sinh trong ngũ tạng). Can chứa huyết và điều
tiết lượng huyết trong cơ thể, thúc đẩy khí huyết đến mọi bộ phận trong cơ thể,
can cũng điều hành các giây chằng quanh khớp và thần kinh ngoại biên.
11
 Tạng Tỳ thuộc hành Thổ, tính ôn hoà, nhu nhuận, đảm nhiệm công việc hậu cần
cho cơ thể, chức năng hậu thiên. Tạng Tỳ cùng phủ Vị đảm nhiệm việc tiêu hoá
thức ăn, chuyển thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể.
 Tạng Phế thuộc hành Kim, có liên quan đặc biệt với tạng Tâm vì quan hệ Tâm -
Phế là quan hệ khí - huyết. Sự thở và tiếng nói trực tiếp do tạng Phế đảm nhiệm.
Chứng ho, khó thở, khản tiếng đều liên quan tạng Phế. Tạng Phế cũng đảm
nhiệm phần biểu của cơ thể gồm da, lông, hiểu rộng ra là hệ thống bảo vệ cơ
thể, hệ thống miễn dịch.
 Thận thuộc hành Thuỷ, là gốc của tiêu thiên (di truyền, huyết thống), quan hệ
với Tâm là quan hệ Thuỷ - Hoả. Thận điều phối và phân bố các thuỷ dịch trong
cơ thể. Thận khí hoá nước, tham gia vào việc chuyển hoá nước trong cơ thể là
hệ thống gien di truyền trong các tế bào sinh dục. Quá trình sinh dục và phát dục
do tinh tiên thiên và hậu thiên quyết định, liên quan trực tiếp đến tạng Thận.
Những hiểu biết cơ bản trên cho thấy những nhà thuốc Đông y xưa đã vận
dụng quy luật Ngũ hành trong việc tìm hiểu và phân chia các chức năng chính
của các cơ quan trong cơ thể.
5.2. Ứng dụng vào phân tích nguyên nhân và chuẩn đoán bệnh tật
trong Đông y
Theo các thầy thuốc Đông y, nguyên nhân chủ yếu phát sinh bệnh tật là do sự
mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể và mất cân bằng âm dương giữa cơ
thể người với trời đất. Sự mất cân bằng ấy biểu hiện ở sự thiên thắng hay thiên
suy. Dương thắng hay thái dương gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát
nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng hay thái âm gây chứng hàn, người lạnh, chân
tay lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng, nước tiểu trong. Dương suy hay thiếu dương như
các trường hợp lão suy hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư hay thiếu

âm gây mất nước, ức chế thần kinh giảm.
12
Sau khi đã tìm ra được nguyên nhân gây bệnh, người thầy thuốc sẽ căn cứ vào
các biểu hiện của bệnh nhân thông qua bốn phương pháp tiếp xúc với bệnh
nhân (tứ chấn) là vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết chấn (xem mạch, sờ
nắn) rồi kết hợp triệt để với các tiêu chí ngũ sắc, ngũ chí, ngũ khiếu tìm ra
bệnh thuộc tạng nào rồi tìm cách chữa bệnh hiệu quả.
5.3. Ứng dụng vào điều trị bệnh tật trong Đông y
Bệnh phát sinh là do sự mất cân bằng âm dương cho nên nguyên tắc chữa bệnh
cơ bản là lặp lại sự mất cân bằng ấy thông qua các phương pháp: dùng thuốc,
châm cứu, xoa bóp, khí công…
Khi chữa bệnh phải tìm tới nguồn gôc, nguyên nhân gây bệnh, dựa vào thiên
thịnh hay thiên suy của âm dương. Đây chính là nguyên tắc “trị bệnh phải tìm
tới gốc”. Chẳng hạn, xét thấy chân tay tê, thịt giật, hư phiền, đêm ngủ không
yên, mặt nóng đỏ, miệng khô, luõi đỏ, mạch huyền mà tế, đó là “can âm bất túc,
can dương thượng cang”, cần dùng phép ‘tư âm tiềm dương, dưỡng huyết”.
Nguyên tắc này đã được danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác tiếp thu và
vận dụng triệt để trong thuyết Thủy-hỏa của mình.
Bệnh ở phần dương thì chữa vào âm, bệnh ở phần âm thì chữa vào dương.
Nguyên tắc dương bệnh trị âm, âm bệnh trị dương này được lập ra dựa trên sự
cân bằng âm dương trong cơ thể con người. Bởi vì thái dương thì thiếu âm mà
thái âm thì lại thiếu dương, vì vậy nguyên tắc là làm cho âm dương cân
bằng.Bệnh do thái dương thì phải làm suy giảm phần dương (tả dương), bệnh do
thái âm thì phải làm giảm phần âm (tả âm). Bệnh do dương hư hay thiếu dương
thì phải bổ dương, bệnh do âm hư hay thiếu âm thì phải bổ âm.
Ngoài ra cũng cần chú ý đến nguyên tắc “Hư thì bổ mẹ, thực thì tả con”. Nghĩa
là một tạng suy yếu, ngoài việc cân bằng âm dương cho chính tạng phủ đó,
13
người ta còn bổ dưỡng cho tạng phủ sinh ra tạng phủ bị bệnh (theo quy luật
tương sinh)

3
.
Các phương pháp điều trị cơ bản trong Đông y như châm cứu, dùng thuốc đều
áp dụng triệt để học thuyết Âm dương ngũ hành như đã nêu trên. Các thầy thuốc
phân chia các huyệt trên cơ thể con người theo âm dương ngũ hành để khi chữa
bệnh đạt hiệu quả tốt nhất.
5.4. Ứng dụng vào dược học Đông y
Từ những hiểu biết về Âm dương và Ngũ hành và sự phân chia thành Lục phủ,
Ngũ tạng trong cơ thể con người, các thầy thuốc Đông y phân biệt tác dụng,
trọng lượng, tính vị của dược liệu để điều trị các bệnh. Cụ thể tính chất của
thuốc được phân chia theo âm dương như sau:
 Các vị thuốc có tác dụng thăng (đi lên, ra ngoài) thuộc dương như Ma Hoàng,
Quế. Các vị thuốc có tác dụng giảm (đi xuống, vào trong) thuộc âm như Mang
tiêu, Mai mực.
 Các vị thuốc có tính hàn (lạnh), lương (mát) như sắn dây, cỏ mực, lá bạc hà
thuộc tính âm để chữa bệnh nhiệt thuộc tính Dương. Các vị thuốc có tính nóng
(nhiệt), ấm (ôn) như Gừng tươi, Phụ tử, Sa nhân thuộc dương để chữa các bệnh
thuộc âm.
 Các vị thuốc vị chua, màu xanh thuộc hành Mộc dùng chữa các bệnh về tạng
Can. Các vị thuốc có vị đắng, màu đỏ thuộc hành Hỏa dùng để chữa các bệnh về
tạng Tâm. Các vị thuốc có vị ngọt, màu vàng thuộc hành Thổ dùng để chữa các
bệnh về tạng Tỳ. Các vị thuốc có vị cay, màu trắng thuộc hành Kim dùng để
chữa các bệnh về tạng Phế. Các vị thuốc có vị mặn, màu đen thuộc hành Thủy
dùng để chữa các bệnh về tạng Thận như đã đề cập ở bảng 1.
Ngoài ra trong dược học của Đông y còn vận dụng quy luật Âm dương Ngũ
hành để bào chế các vị thuốc làm thay đổi tính năng và tác dụng để đi vào các
3 Dương Phạm (2007)
14
tạng phủ theo yêu cầu chữa bệnh. Ví dụ như sao vàng, hạ thổ để lấy lại âm
dương cho vị thuốc đã sao. Tẩm thuốc với rượu để giảm bớt tính hàn, tăng tính

ấm, tăng tác dụng của thuốc và dẫn thuốc đi lên.
6. Ứng dụng học thuyết Âm dương ngũ hành và Đông y vào đời sống bản
thân
Nguyên lý Âm dương ngũ hành ứng dụng trong Đông y đã mang đến cho đời
sống thường thức của chúng ta một quan niệm toàn diện và thống nhất chỉnh
thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh tật. Mỗi chúng
ta phải ý thức rằng con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận,
giữa tinh thần và vật chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh. Cuối cùng,
mỗi người đi đấn ý thức về cân bằng cuộc sống của bản thân từ ăn uống, dinh
dưỡng đến làm việc, sinh hoạt, tập luyện nhằm giữ được sự cân bằng âm
dương trong bản thân và đảm bảo các tạng phủ làm việc tốt, giữ được sức khỏe
cho bản thân và mọi người.
Hơn thế nữa, sau khi có những hiểu biết chi tiết hơn về học thuyết Âm dương
ngũ hành và Đông y, bản thân em đúc kết được những kinh nghiệm thực tế
trong cuộc sống hàng ngày và kết nối chúng với cơ sở lý thuyết để có một hiểu
biết, kinh nghiệm có nền tảng khoa học hơn về các phương thuốc thường thức.
Cụ thể em có thể nêu ra một số kinh nghiệm thường thức mà em có trong mối
liên hệ với những kiến thức Đông y vừa có ở trên.
 Khi đau bụng do trúng thực, không tiêu hay thương hàn do ăn phải đồ có tính
hàn mạnh hay cơ thể hiện đang thái âm thiếu dương nên uống trà gừng nóng,
rượu gừng nóng mang tính thái dương (như có giải thích ở mục 3.4) để giúp
cường dương cân bằng âm dương, giúp cơ thể tiêu hóa thức ăn.
 Khi bị say nóng, say nắng, choáng váng khi làm việc trong môi trường nhiệt độ
cao hay đi về giữa trưa nắng, thì cần dùng thuốc mát để thanh nhiệt giải thử
như lá sen, đậu ván, quả dưa hấu.
15
 Khi bị nhiệt độc: do nhiễm trùng bởi vi trùng, vi rút thì dùng thuốc thanh nhiệt
giải độc như hoa cúc, hoa kim ngân, bồ công anh, sài đất, rẻ quạt, hay lá dấp
cá.
 Không nên nằm dưới đất hay sàn lạnh, đi chân trần trên nền đất, nhất là những

người có phổi yếu, hay ho. Vì phổi hay tạng Phế thuộc hành Thủy mà thủy
khắc thổ nên nằm dưới đất sẽ nhiễm hơi đất làm người bệnh thêm trầm trọng.
KẾT LUẬN
Những giá trị về mặt lý luận và thực tiễn của học thuyết Âm dương ngũ hành
vẫn đang thể hiện rõ trong mọi mặt đời sống vật chất cũng như tinh thần của
người dân phương Đông. Những giá trị của học thuyết này dường như không
thể chối bỏ vì nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến rất nhiều lĩnh vực khoa học và đời
sống mà tiêu biểu đó là Đông y và phong thủy. Qua những kiến thức còn hạn
chế được trình bày trên đây ta có thể thấy được sự vận dụng học thuyết Âm
16
dương Ngũ hành trong Đông y là một tất yếu khách quan. Với Y học phương
Đông thì sự phát triển của nó đã đến lúc cần một hệ thống triết học tự nhiên
làm cơ sở, mà hệ thống triết học tự nhiên phổ biến và quyền uy nhất Trung
Hoa cổ đại lúc bấy giờ là học thuyết Âm dương Ngũ hành. Đồng thời, học
thuyết Âm dương Ngũ hành cũng cần được vận dụng vào Y học thì mới có khả
năng phát triển theo khuynh hướng duy vật. Hiện tại, học thuyết Âm dương
Ngũ hành vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của Đông y, Nó luôn được thừa kế và sáng tạo về cả lý luận và thực tế. Với nỗ
lực đó của những nhà thuốc Đông y, chúng ta có thể hy vọng học thuyết Âm
dương Ngũ hành có thể giữ vững và phát triển giá trị lý luận và thực tiễn của
nó và được công nhận rộng rãi hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM, Tiểu ban Triết học(2011):”Triết học Phần 1-
Đại cương về lịch sử triết học”.
2. Trần Thị Thu Huyền (1999):”Âm dương Ngũ hành với Y học cổ truyền và đời
sống con người”, Nxb Văn hóa dân tộc.
3. GS. BS Nguyễn Tài Thu (1999):” Châm cứu chữa bệnh”, Nxb Y học
4. Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Y học cổ truyền dân tộc (1995):” Y học cổ
truyền (Đông y)”, Nxb Y học.
17

5. Phạm Thùy Dương (2007):“ Học thuyết Âm dương Ngũ hành với Y học cổ
truyền phương Đông”.
6. Trang web của Viện y học cổ truyền Quân đội :
/>THUYET-TANG-PHU-21
7. Trang web Y học dân tộc :
/>18

×