Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tư tưởng hồ chí minh về tự học và vận dụng tư tưởng đó trong việc học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.69 KB, 24 trang )

PHỤ LỤC
Nội dung Trang
PHỤ LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
Chương 1:Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học 4
1.1 \Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề tự học 4
1.1.1\ Tự học là gì?? 4
1.1.2\ Hồ Chí Minh với vấn đề tự học. 4
1.2 \ Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tự học 7
1.2.1\Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định
rõ mục đích học tập và xây dưng động cơ học tập đúng đắn 7
1.2.2\ Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học
suốt đời 8
1.2.3\ Muốn tự học thành công phải có kế hoạch sắp xếp thời gian
học tập, phải bền bĩ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi
bước trước mọi trở ngại. 9
1.2.4\Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện,
mọi hình thức để tự học 9
1.2.5\ Học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó.
10 1.3\ Học tập ý trí và phương pháp học tập
của Bác Hồ 11
Chương 2: Vận dụng “tư tưởng Hồ Chí Minh về tự
học” trong việc học tập của sinh viên. 14
2.1/ Vai trò của việc tự học. 15
1
2.2/ Bản chất của việc tự học. 16
2.3/ Nguyên tắc đảm bảo việc tự học. 17
2.3.1/ Bảo đảm tính tự giáo dục. 17
2.3.2/ Bảo đảm tính khoa học trong quá trình tự học. 17
2.3.3/ Đảm bảo "học đi đôi với hành" . 18
2.3.4/ Nâng cao dần đến mức tự giác,tích cực trong quá trình


tự học. 18
2.3.5/ Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo. 18
2.4 / Biểu hiện của ý thức tự học tốt. 18
2.5/ Đặc điểm tự học của sinh viên ở các trường đại học. 19
2.6 / Kinh nghiệm từ bản thân 21
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
2
MỞ ĐẦU
Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trọng quá trình học ở Đại học của
sinh viên. Tự học nhằm phát huy tính tự giác tích cực năng lực đọc sách và
nghiên cứu của sinh viên để thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở các trường Đại
học- Cao đẳng là “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của sinh
viên”. Do đó, tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của các trường Đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay là việc
là cấp thiết.
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong
quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc
biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của
Người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng về vấn đề
tự học. Là sinh viên ta cần biết cách vận dụng tư tưởng đó vào học tập
nghiên cứu,nhằm đặt hiệu quả cao.
Vậy “tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học và vận dụng tư tưởng đó trong việc
học tập của sinh viên” sẽ dúp ta hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về tự
học và biết cách vận dụng nó vào trong tác phong học tập và nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học và vận
dụng tư tưởng đó trong việc học tập của sinh viên” được chia làm 2
Chương :
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học.
Chương 2: Vận dụng “tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học” trong việc học tập

của sinh viên.
Mỗi Chương lại được chia thành từng phần và được trình bày rõ ràng,chi
tiết.
3
Chương 1:Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự
học.
1.1\Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề tự học.
1.1.1 Tự học là gì??
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong
quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc
biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của
Người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng về vấn đề
tự học
1.1.2 Hồ Chí Minh với vấn đề tự học.
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong
quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc
4
biệt quan trọng,là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ con
người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng về vấn đề
tự học.
Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng như tại một số đại
hội, hội nghị Quốc tế Cộng sản, Bác thường khiêm tốn ghi ở phần trình độ
học vấn là: Tự học. Hay trong bài nói chuyện tại Hội nghị chuyên đề Sinh
viên quốc tế họp tại Việt Nam ngày 1 tháng 9 năm 1961, Hồ Chủ tịch đã tâm
sự: “Về văn hoá tôi chỉ học hết tiểu học. Về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi
mới nhìn thấy ngọn đèn điện lần đầu tiên, 20 tuổi mới nghe rađio lần đầu”.
Nhưng chúng ta ai cũng biết, Người có một trình độ học vấn rộng lớn, uyên
bác mà cả thế giới phải thừa nhận và khâm phục. Nhà nghiên cứu Va-si-li-ép
đã viết trong tác phẩm “Về cách mạng Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”
(Uỷ ban KHXH, 1990): “Hiếm có chính khách nào của thế kỷ XX có thể

sánh được với Hồ Chí Minh về trình độ học vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và
sự thông minh trong cuộc đời”. Đây hoàn toàn không phải sự tôn suy thái
quá mà qua các tài liệu lịch sử cho thấy, Người đã miệt mài học tập cả cuộc
đời, nói đúng hơn là không ngừng tự học. Khi nói chuyện với các đảng viên
hoạt động lâu năm (ngày 9 tháng 12 năm 1961), Hồ Chủ tịch đã tâm sự:
“Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học…Không học thì không theo
kịp, công việc nó sẽ gạt mình ra phía sau”.Và với Bác, nguyên lý và phương
thức học được Bác tóm gọn trong mấy câu sau: “Học ở trường, học ở trong
sách vở, học lẫn nhau và học dân”.
Hồ Chủ tịch rất coi trọng việc đọc sách báo. Nhưng với Người, đọc sách
không chỉ đơn thuần là để giải trí hay để giải quyết các công việc sự vụ,
nâng cao các hiểu biết thông thường. Người đọc chủ yếu là để phục vụ cách
mạng với niềm khao khát tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Niềm ham muốn khao khát ấy đã đi theo Bác suốt cuộc đời, chi
phối mọi hoạt động của Người.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác cũng chính là cuộc đời tự học
bền bỉ. Làm cách mạng bằng tự học và tự học để làm cách mạng, hai việc
này luôn tương hỗ cho nhau. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú
mà Người để lại cho chúng ta, ngoài giá trị lớn lao nhiều mặt của nó, còn là
một bằng chứng sống về tấm gương tự học suốt đời của một nhà yêu nước vĩ
5
đại, nhà văn hoá tài ba. Chúng ta ngạc nhiên và khâm phục trước sự am hiểu
vừa phong phú vừa uyên thâm của Bác, không chỉ trên lĩnh vực chính trị,
quân sự, kinh tế mà còn trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội… Nếu không có
vốn kiến thức phong phú và sâu sắc được tích luỹ bằng con đường tự học thì
làm sao Người có thể để lại cho dân tộc và nhân loại những tác phẩm bất hủ
ấy.
Khi tìm hiểu về phương pháp đọc của Bác Hồ, bài học đầu tiên mà
chúng ta cần phải chú ý đến là: muốn trở thành người hiểu biết phải đọc cho

rộng và khi đọc phải có ghi chép và phân loại ngay các thông tin từ sách
báo.
Bác có phương pháp tự học rất đáng chú ý và là kinh nghiệm quí cho
chúng ta hiện nay. Chỉ nói riêng việc học ngoại ngữ và học viết báo của Bác
là đã thấy rõ điều đó. Ra đi tìm đường cứu nước, vừa bước chân xuống tàu,
anh Ba đã tranh thủ học tiếng Pháp ở mọi lúc, mọi nơi có thể, mỗi ngày học
mấy từ thật chắc, ngày nào cũng như ngày nào, để đến khi sang Pháp, và sau
đó, viết báo và viết truyện ngắn bằng tiếng Pháp. Còn về việc học viết báo:
nhờ sự giúp đỡ của một đồng chí làm trong tờ báo “Sinh hoạt công dân”,
Bác đã tự học cách viết báo. Ban đầu Bác chỉ viết 3 dòng, 5 dòng, sau đấy
viết 10 dòng rồi một cột rưỡi. Đến đây, đồng chí lại bảo Bác viết rút ngắn
lại, Bác lại tập rút ngắn lại cho đến khi chỉ còn 10 dòng. Tập đi tập lại nhiều
lần như vậy, Bác viết được báo. Lúc viết được báo rồi, Bác lại có ý định thử
viết truyện ngắn và Bác viết được truyện ngắn bằng tiếng Pháp. Bác đã tự
rút kinh nghiệm trong việc học viết của mình: “Viết cũng như mọi việc khác,
phải có chí, chớ dấu dốt, nhờ tự phê bình và phê bình mà tiến bộ, quyết tâm
thì việc gì, khó mấy cũng làm được”.
Trong cuộc đời của mình, Người biết và sử dụng thông thạo trên 10
ngoại ngữ nhờ tự học chứ không qua một trường đào tạo chính quy nào.
Người học ở sách báo, đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người tự học từ thực
tiễn sinh động ở các nước đế quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng
trên thế giới. Phát biểu với sinh viên trường Đại học Băng- đung trong
chuyến thăm In-đô-nê-xia năm 1959, Người nói: “Khi còn trẻ tôi không có
6
dịp đến trường học. Cuộc sống, du lịch và làm việc là trường Đại học của
tôi. Trường Đại học ấy đã dạy cho tôi khoa học xã hội, khoa học quân sự,
lịch sử và chính trị. Nó dạy cho tôi yêu nước, yêu loài người, yêu dân chủ và
hoà bình; căm ghét áp bức, ích kỷ…” Đó chính là bài học sâu sắc về tấm
gương tự học của Bác, vừa tự học ngoại ngữ, vừa tự học viết văn, viết báo
để đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân loại.

1.2 Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tự học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho việc xây dựng nền
giáo dục mới khoa học dân tộc và đại chúng. Theo Người, nền giáo dục giữ
vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người
mới phát triển toàn diện vì vậy phải giáo dục trên tất cả các lĩnh vực cuộc
sống; nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội; học đi đôi với hành và gắn
với lao động sản xuất. Để trở thành những công dân có tài, có đức, có ích
cho xã hội thì ngoài sự giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội, đòi hỏi
mỗi người học phải tự giáo dục, tự học, tự rèn luyện để hoàn thiện mình.

Hồ Chí Minh nhắc nhở ngành giáo dục cũng như mỗi người học phải
nâng cao và hướng dẫn việc tự học, “phải biết tự động học tập”. Người nói
nền giáo dục mới của chúng ta nhằm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo, để vươn lên nắm vững tri thức khoa học và hiểu biết cũng như khả
năng thực hành về mọi mặt của đời sống. Từ đó, Hồ Chí Minh đã có những
chỉ dẫn rất đúng đắn, thiết thực và hiệu quả đối với ngưòi học để tiến hành tự
học, xuất phát từ tư duy, lý tưởng và những kinh nghiệm phong phú, có ý
nghĩa sâu sắc của Người trong quá trình tự học bền bĩ và sáng tạo. Tư tưởng
của Người về tự học thể hiện ở những luận điểm sau:
1.2.1. Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục
đích học tập và xây dưng động cơ học tập đúng đắn.
Chúng ta biết tư duy, nhận thức của Hồ Chí Minh trong việc chỉ đạo mọi
hoạt động cách mạng từ học tập, nghiên cứu, sáng tạo và hoạt động thực tiễn
là trước hết phải trả lời câu hỏi: “để làm gì?” và câu trả lời của Người là để
phụng sự Tổ quốc, nhân dân; là để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người một cách triệt
để. Hồ Chí Minh cũng nhận thức đúng đắn rằng trong bất kỳ một hoạt động
nào, trong đó có hoạt động học tập, tự học, việc trước tiên cần xác định mục
đích, động cơ hoạt động, hành động có vai trò rất quan trọng, góp phần định
hướng đúng đắn và quyết định hiệu quả hoạt động.

Từ nhận thức đó, đối với hoạt động học tập, tự học, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
“Học để làm gì - học để sửa chữa tư tưởng…học để tu dưỡng đạo đức cách
7
mạng…- học để tin tưởng…- học để hành”
1
. Trong lưu bút ghi ở trang đầu
cuốn sổ vàng ở trường Nguyễn Ái Quốc tháng 9 năm 1949, Người đã xác
định rõ hơn mục đích học tập: “Học để làm việc - Làm người - Làm cán bộ.
Học để phụng sự đoàn thể - Phụng sự giai cấp công nhân và nhân dân - Phụng
sự giai cấp và nhân loại”
Hồ Chí Minh luôn thấy rõ vai trò của việc học tập đối với mọi người cách
mạng: “chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì
phải học, còn phải hoạt động cách mạng”. Người cho đây là một bắt buộc
đối với người cách mạng, là cách tốt nhất đề nâng cao trình độ hiểu biết, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, của sản xuất. Theo Người, muốn
học suốt đời thì phải tự học. Khi chỉ thị về cách học trong việc huấn luyện
cán bộ, Người đã nói: “Lấy tự học làm cốt, có thảo luận và chỉ đạo giúp
vào”
2
.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Suốt
quá trình tự học, dù là học tiếng nước ngoài, học tri thức cách mạng, học văn
hoá, học làm báo…, Người luôn luôn tự xác định cho mình mục đích học tập
đúng đắn, Người tự học với ý nguyện cao cả là tìm con đường đấu tranh cứu
nước, cứu dân, làm cho Tổ quốc được độc lập, nhân dân được tự do, đồng
bào ai cũng được hạnh phúc. Mục đích, động cơ này trở thành nguồn động
lực thường xuyên thôi thúc Người một cách mạnh mẽ trong việc tự học.
Theo quan niệm của Người, việc xác định động cơ học tập không chỉ là vấn
đề của học tập, mà đó là vấn đề đạo đức, là nhân cách của người học. Đây
chính là vấn đề quyết định hiệu quả của việc tự học.

1.2.2. Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
Quá trình tự học của Hồ Chí Minh luôn gắn với quá trình lao động của
Người. Chính lao động đã tạo điều kiện nhiều học để học tốt. Những tháng
ngày Người sống và hoạt động ở Pháp, ở Anh và nhiều nước khác trên thế
giới không chỉ là những ngày tháng học tập và đấu tranh bền bỉ, kiên trì, đầy
nguy hiểm mà còn là những ngày tháng lao động gian nan để kiếm sống,
kiếm sống để tự học, tự học để làm cách mạng lao động. Bác không nề hà
bất cứ việc gì, từ bồi bếp trên tàu đến giúp việc cho một nhà hàng ăn, phục
vụ trong một khách sạn, rồi quét tuyết; từ làm ảnh đến làm báo. Lao động
đối với Người vừa tạo điều kiện về vật chất cho việc tiến hành học tập, đồng
thời quá trình lao động đưa lại cho Người những tri thức, hiểu biết, kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn và vốn sống phong phú.
Nhờ sự tự lao động để kiếm sống và tự học với sự kiên trì và nghị lực phi
thường, cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình của bè bạn, Hồ Chí Minh đã trang bị
cho mình vốn trí tuệ uyên bác, sâu sắc, vốn văn hoá phong phú. Cũng nhờ
quá trình tự học gắn với lao động, hoạt động cùng với giai cấp công nhân thế
giới và quá trình hoạt động cách mạng, Người đã tìm đến được chủ nghĩa
8
Mác - Lênin, tiếp thu học thuyết khoa học, cách mạng, chân chính của giai
cấp vô sản, trở thành người chiến sĩ cách mạng kiên cường đấu tranh cho
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc và lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành sự nghiệp cách
mạng giành những thắng lợi vẻ vang.
1.2.3. Muốn tự học thành công phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập,
phải bền bĩ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi
trở ngại.
Tấm gương tự học của Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương về tinh thần
bền bĩ, khổ công và nhẫn nại với kết quả thu nhận được rất vượt bậc, nhiều
người khó có thể sánh kịp. Những người cùng hoạt động với Người ở Thái
Lan kể lại rằng: “Trước khi đọc hay dịch một cuốn sách, Ông đếm số chương

và số trang và đặt chương trình, mỗi ngày đọc hay dịch mấy tờ. Ông không
bao giờ chịu sai chương trình. Nếu gặp việc đột xuất như có kiều bào đến nói
chuyện chẳng hạn, thì trong ngày ấy, Thầu Chín cũng kiếm giờ khác bù vào,
không chịu để vỡ kế hoạch”
Từ kinh nghiệm của chính bản thân mình, Người đã khuyên những cán bộ
cách mạng: “Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một
nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà
tích cực, chủ động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó,
cố gắng không lùi bước trước bất cứ khó khăn nào trong việc học tập”.
1.2.4. Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình
thức để tự học.
Hồ Chí Minh đạt được những thành công to lớn trong việc tự học nhờ
tích luỹ cho mình vốn sống, những kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn,
đồng thời nhờ những ngày đêm miệt mài làm việc với sách báo, mà phương
tiện tốt nhất là nhờ dựa vào thư viện. Người triệt để sử dụng thư viện để làm
giàu vốn kiến thức của mình, để trang bị cho mình một trình độ lý luận sắc
bén nhằm giải đáp những vấn đề mà thực tiễn đấu tranh cách mạng đặt ra.
Trong quá trình tự học, Hồ Chí Minh không những triệt để tận dụng những
tổ chức, những hoạt động, những phương tiện sẵn có như thư viện, viện bảo
tàng, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, các hội thảo, hội họp v.v…
mà còn tự mình tạo ra những hình thức học tập mới, sinh động và bổ ích
như: tranh thủ sự giúp đỡ, chỉ dẫn, chỉ bảo của người khác, học trong khi đi
du lịch, tham quan, học trong khi đi giao thiệp, trong khi thực hiện công tác
vận động quần chúng. Người gọi đây là “học trong nhân dân” và coi đây là
trường học thực tế sinh động, là nơi để “hành” những điều để học. Người chỉ
rõ: “Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân
dân, không học ở nhân dân là một thiếu sót rất lớn”
3
. Trong những năm
tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã học ở nhân dân

9
lao động rất nhiều. Sau này, trước khi đến một nước mới, Người cũng dành
lập kế hoạch, dành thời gian học ngôn ngữ và cả lịch sử, văn hoá của nước
đó. Vì vậy, Người thông thạo hàng chục thứ tiếng, am hiểu tinh tường về
lịch sử và văn hoá của nhiều nước thuộc nhiều châu lục khác nhau.
1.2.5. Học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó.
Đây là một nguyên tắc Hồ Chí Minh đặt ra không chỉ cho việc tự học mà
cho quá trình học nói chung. Luyện tập, thực hành theo Người cũng phải gắn
với mục đích, động cơ học tập đã xác định từ trước đó là phục vụ cho hoạt
động thực tiễn của mình. Đồng thời trong quá trình luyện tập, thực hành
những điều mình đã học được cần phải có sự sáng tạo, linh hoạt, hợp lý.
Trong việc học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải nắm cái bản chất cốt lõi, nắm tinh thần và phương
pháp làm việc khoa học của nó để vận dụng vào thực tiễn một cách phù hợp
và có sáng tạo, bổ sung, phát triển.
Trong việc học ngoài ngữ, học được chữ nào, Người tìm cách ghép câu
ngay. Học như thế, trong một thời gian ngắn, Bác viết được báo và sách
bằng tiếng nước ngoài. Người còn chịu khó đi dự mít tinh, tọa đàm, du lịch
để qua đó, vừa làm phong phú vốn từ mới của mình, vừa có điều kiện để vận
dụng những từ đã học. Sau này, khi học tiếng Ý, tiếng Anh cũng vậy, học
đến đâu, Người giao thiệp luôn với công nhân nước đó. Người thường xuyên
đọc sách báo bằng tiếng nước đó để trau dồi thêm vốn hiểu biết của mình.
Người không chỉ học tiếng nước ngoài để dùng trong giao tiếp, trong sinh
hoạt hàng ngày mà quan trọng hơn, Người dùng nó làm phương tiện để viết
sách báo tuyên truyền cách mạng. Động cơ đó luôn thúc đẩy Người ra sức
học tập có hiệu quả tốt hơn.
Những lời chỉ dẫn quý báu và những bài học sâu sắc rút ra từ tư tưởng và
tấm gương tự học của Hồ Chí Minh được đề cập trên đây đến nay vẫn mang
tính thời sự, có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn. Trong xu thế toàn cầu hoá
gắn với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và

nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin; trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hội nhập quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay thì vấn đề tự
học, tự đào tạo đang trở thành một yêu cầu cấp bách và tất yếu đối với mỗi
người Việt Nam. Đối với học sinh, sinh viên, việc tự học, tự đào tạo càng
đặc biệt quan trọng. Đây là một trong những vấn đề cơ bản quyết định chất
lượng học tập của sinh viên trong môi trường đại học, nhất là khi các trường
chuyển sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Điều đó đòi hỏi mỗi sinh
viên phải xác định đúng mục đích, động cơ, hình thành ý thức, thói quen học
tập và tìm ra cho mình nhiều phương pháp, cách thức tự học hợp lý, hiệu
quả.
10

1.3/Học tập ý trí và phương pháp học tập của Bác Hồ.
- Hiện nay, trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thường nhấn
mạnh đến việc tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng
chói về tự học. Qua tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch" của tác giả Trần Dân Tiên, Nhà xuất bản Sự thật in năm
1975, ta có thể thấy rõ điều đó.
Đầu tiên là ý chí tự học. Ngay từ khi Bác Hồ đang trong lứa tuổi thanh
niên, còn mang tên là anh Ba, trên con tàu rời bến cảng Nhà Rồng sang Pháp
năm 1911, anh Ba đã phải làm việc rất cực khổ, nhưng vẫn có ý chí vượt khó
và say sưa tự học. Một thuỷ thủ cùng đi trong chuyến tàu đó kể lại: "Mỗi
ngày, chín giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi
chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến mười một giờ hoặc
nửa đêm"(*). Thời gian ở nước Anh, lúc đầu anh Ba nhận việc cào tuyết
trong một trường học, mình mẩy đẫm mồ hôi mà tay chân thì rét cóng nên
lại thay bằng việc đốt lò. Từ năm giờ sáng cùng một người nữa, chui xuống
hầm để nhóm lửa, suốt ngày đổ than, thay than trong lò. Trong hầm rất nóng,
ngoài trời rất rét, và không có đủ quần áo, anh Ba bị cảm, phải nghỉ việc.
Tuy vậy, anh Ba vẫn không ngừng việc học. Với số tiền để dành, anh Ba trả

tiền phòng, tiền bơ và bánh mỳ, và sáu bài học chữ Anh.
Ta biết Bác chỉ sang Anh một thời gian rất ngắn, không có điều kiện ở
lâu nhưng từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng Bác đã bắt đầu học mỗi ngày
một bài và học thuộc mười từ. Sau này trong quá trình ở Pháp hay ở những
nơi khác để hoạt động cách mạng, Bác vẫn tự học và sử dụng được tiếng
Anh để đọc sách, giao thiệp (như giao thiệp với luật sư Loseby và toà án của
chính quyền Hồng Kông, khi Bác bị chúng bắt giam ở Hồng Kông; giao
thiệp với chính quyền Singapore khi Bác bí mật vượt Hồng Kông nhưng bị
chính quyền Singapore bắt lại; giao thiệp với ông bạn thân của luật sư
Loseby khi luật sư tạo điều kiện cho Bác trốn khỏi Hồng Kông; giao thiệp
với trung uý phi công Shaw của Mỹ khi anh này buộc phải nhảy dù xuống
một hòn núi gần tỉnh lị Cao Bằng; hay làm việc với tướng Chennault, tổng
tư lệnh không quân Mỹ ở Trung Quốc năm 1944 v.v.) và dịch thuật. Thời
gian hoạt động ở Trung Quốc, Bác đã dịch những tờ báo TQ sang tiếng Anh.
Không chỉ đối với tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng quốc tế, ở nước
nào Bác cũng chú ý học ngôn ngữ nước đó để có điều kiện hoạt động được
11
tốt. Đối với tiếng Nga, Bác cũng tự học như vậy. Khi Bác bí mật đến nước
Nga, là bắt đầu học tiếng Nga ngay. Chỉ sau hai ngày đã có thể nói được một
số từ Nga với người bạn Pháp là Pôn do đồng chí Ca-sanh, lãnh tụ Đảng
Cộng sản Pháp đang ở Liên Xô, cử đến gặp. Sau này ta biết Bác cũng chỉ ở
Nga thời gian không nhiều nhưng đã làm được việc phiên dịch. Thời gian ở
Trung Quốc, Trần Dân Tiên kể: "Nhân đọc được quảng cáo trên tờ "Quảng
Châu nhật báo", ông đã tìm đến làm phiên dịch cho ông Bô-rô-đin, cố vấn
chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và của chính phủ Quảng Châu". Bác đã
học tiếng Trung Quốc khi hoạt động ở Quảng Châu và sau khi bọn Quốc dân
đảng phản động ở TQ định thủ tiêu Bác, Bác phải lánh sang hoạt động ở
Thái Lan, và ở đây Bác lại tự học tiếng Thái rất thành thạo.
Không chỉ học về ngôn ngữ mà Bác có ý chí học nhiều kiến thức khác.
Trần Dân Tiên kể lại: Bác tham gia Hội "Nghệ thuật và khoa học" và Hội

"Những người bạn của nghệ thuật". Các hội này mỗi tuần tổ chức những
cuộc đi thăm viện bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật,
nhà hát Có những nhà chuyên môn giải thích các vấn đề ấy. Bác vào cả hội
"Du lịch", hội đưa người ta đi thăm nước Pháp, và những nước lân cận với
giá tiền rất rẻ. Nhờ vậy Bác đi thăm nhiều nơi ở Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, Đức và cả
Toà thánh Vatican. Bác từng nói với bạn: "Trong những ngày nghỉ, không
nên tiêu phí tiền bạc, mất thì giờ ở bãi bể để nhìn những người đàn bà đi
tắm, mà nên đi du lịch, học hỏi được nhiều". Không chỉ thích đi du lịch mà
Bác muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào. Bác bắt đầu tổ
chức, hoặc đúng hơn là bắt đầu học tổ chức. Trong những buổi mít tinh,
những buổi đi thăm hoặc du lịch, Bác đã gặp những người cách mạng
Algérie, Tunidi, Ma-rốc, Man-Gát Cùng với họ, Bác tổ chức "Hội Liên
hiệp thuộc địa ở Paris".
Thứ hai là học phương pháp tự học của Bác. Đó là tranh thủ mọi thời
gian để học, tranh thủ học được nhiều người. Vẫn lời kể của anh bạn thuỷ
thủ: "Vài ngày sau tàu rời bến, có hai hành khách - hai người lính trẻ tuổi
giải ngũ trở về Pháp. Tôi không hiểu tại sao hai anh này đã trở nên bạn thân
của anh Ba. Họ giúp anh nhặt rau và buổi tối họ cho anh mượn những quyển
sách nhỏ, dạy cho anh đọc và viết. Và anh Ba lại dạy họ học quốc ngữ". Và
một người quen anh Ba khi anh đang nghỉ chờ việc ở nhà viên chủ tàu, cho
biết: "anh học tiếng Pháp với cô sen" (cô sen là từ chỉ người phụ nữ giúp
việc gia đình).
Đó là cách học kiên trì, bền bỉ, năng động và học thường xuyên. Có lần
nói chuyện với thanh niên, Bác cho biết: Để học được ngoại ngữ Bác phải
12
kiên trì mỗi ngày học thuộc mười từ, học ở mọi nơi mọi lúc cho kỳ thuộc, có
khi viết các từ đó lên cánh tay để vừa làm vừa nhìn vào đó cho nhớ. Hôm
sau lại học mười từ khác, cứ thế mà tích luỹ dần như ta bỏ tiền tiết kiệm
hàng ngày vào ống. Bằng cách đó dần dần Bác đã học được rất nhiều ngoại
ngữ.

Bác tự học một cách kiên trì, chẳng hạn như cách Bác học viết báo. Tuy
Bác có biết tiếng Pháp vì đã được học trong thời gian theo học ở trường
Quốc học Huế nhưng chưa có đủ vốn để viết sách báo. Trần Dân Tiên kể lại:
Chủ nhiệm báo Dân chúng-cơ quan của đảng Xã hội Pháp-ông Jean
Longuet,cháu ngoại Các-Mác và là nghị viên của Quốc hội Pháp, đã khuyến
khích Bác viết bài và ông sẽ đăng lên báo Dân chúng để làm cho nhân dân
Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Bác không đủ tiếng
Pháp để viết, phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông
Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Nhất là ông Trường không viết
tất cả những điều Bác muốn nói. Vì vậy Bác bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo Dân chúng, Bác đã làm quen với chủ bút tờ báo Đời
sống thợ thuyền. Cũng như ông Longuet, người chủ bút này rất đáng mến.
Ông ta bảo Bác viết tin tức cho tờ báo của ông. Bác nói thật là mình còn
kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: "Điều đó không ngại, có thế nào anh
viết thế ấy.Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài,
năm sáu dòng cũng được". Bắt đầu viết rất khó khăn, tin tức về Việt Nam
Bác không thiếu, thiếu nhất là văn Pháp. Bác viết làm hai bản, gửi cho toà
báo một bản, giữ lại một bản. (Thời đó chưa có photocopy như bây giờ) để
đem so với bài báo đã in, và sửa những chỗ viết sai, kiên nhẫn làm theo cách
ấy. Khi thấy viết đã bớt sai, ông chủ bút bảo Bác: "Bây giờ anh viết dài hơn
một tí, viết độ bảy, tám dòng". Bác viết bảy, tám dòng, dần dần có thể viết
cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn thân của
Bác khẽ bảo: "Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng
không dài hơn". Bác thấy rằng phải rút ngắn cũng khổ như trước kia phải
kéo dài. Nhưng cũng hết sức cố gắng. Và Bác thành công, bắt đầu vào làng
báo từ đó.
Một điều cần học Bác là tự học một cách toàn diện. Ngoài học viết báo, Bác
còn tích luỹ vốn ngôn ngữ và văn học nữa, nên đã tranh thủ đọc các sách của
những nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng: Shakespeare, Dickens bằng
tiếng Anh; Lỗ Tấn bằng tiếng Trung; Hugo, Zola, Anatole France, Léon

Tolstoi bằng tiếng Pháp. Bác đã viết cuốn sách "Bản án chế độ thực dân
Pháp" gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong sách của người
Pháp viết có ở thư viện quốc gia và hăng hái viết vở kịch "Rồng tre" bằng
13
tiếng Pháp nhân dịp Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa. Vở kịch bị
chính phủ Pháp cấm, nhưng Câu lạc bộ ngoại ô Paris đã đem diễn, được các
nhà phê bình văn nghệ khen hay.
Ta còn phải học Bác ở tinh thần vượt gian khổ để học tập. Thời gian
Bác sống ở Paris, rất cực khổ. Bác thuê phòng trọ nhỏ trong một khách sạn
rẻ tiền, mỗi buổi mai nấu cơm trong một cái sanh nhỏ đặt trên ngọn đèn dầu.
Cơm ăn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, ăn một nửa còn một nửa giành
đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả
ngày. Mùa đông lạnh, buổi sáng trước khi đi làm, Bác để một viên gạch vào
lò bếp của khách sạn, chiều về lấy ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để
xuống nệm cho đỡ rét. Bác làm nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh, do cụ Phan
Chu Trinh dạy nghề cho. Thường thường Bác chỉ làm việc nửa ngày vào
buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện hoặc dự những buổi
nói chuyện. Tối đến Bác đi dự những cuộc mít-tinh. Hầu hết những buổi
mít-tinh Bác đều phát biểu ý kiến và khéo lái những vấn đề thảo luận sang
vấn đề thuộc địa. Bác làm quen với những nhà chính trị, nhà văn để nâng
cao trình độ chính trị và văn học của mình.
Ngày nay thanh niên ta có rất nhiều điều kiện để tự học tốt hơn, nhưng
do thiếu ý chí và thiếu phương pháp tự học nên kết quả tự học chưa cao. Học
tập tấm gương đạo đức của Bác, một trong những điều cần thiết đối với
thanh niên, học sinh, sinh viên là cần tự học tốt, nâng cao trình độ cho mình
để có điều kiện phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được tốt hơn và bản
thân ngày càng thành đạt.
Chương 2: Vận dụng “tư tưởng Hồ Chí
Minh về tự học” trong việc học tập của
sinh viên.

Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học ở Đại học
của sinh viên. Tự học nhằm phát huy tính tự giác tích cực năng lực đọc
sách và nghiên cứu của sinh viên để thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở các
trường Cao đẳng - Đại học là "biến quá trình đạo tạo thành quá trình tự đào
tạo của sinh viên". Do đó, tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo của các trường Đại học theo hình thức tín chỉ hiện
nay là việc làm cấp thiết.
14
2.1/Vai trò của việc tự học.
Việc khuyến khích sinh viên trong các trường đại học tự học, tự
nghiên cứu hiện nay đang là vấn đề nhiều nhà giáo dục, nhiều trường đại
học quan tâm, nhất là theo hình thức dạy học theo tín chỉ. Tuy nhiên
muốn làm tốt việc này cần giúp sinh viên hiểu rõ vai trò của việc tự học
quan trọng như thế nào? Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc
nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học. Khi một học sinh trở
thành một sinh viên đại học, họ bắt đầu phải làm quen với phương thức
học tập hoàn toàn mới mẻ. Ở trung học, học sinh chỉ cần nắm vững
những kiến thức được cô giáo truyền giảng ở trên lớp và giáo viên
liên tục kiểm tra, đánh giá học sinh và có giao bài tập cụ thể. Song ở đại
học thì khác hẳn, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi
sinh viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của trường đại
học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự hoàn thiện và
làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự nghiên cứu.
Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ đây, thầy cô giáo
đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và các giờ lên lớp chỉ
cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản, còn
việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm
tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở rộng. Thêm vào đó, không còn
sự kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập dồn hết vào kỳ thi hết

học phần, hết môn. Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh viên là chủ
yếu. Công tác tự học của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày càng đòi
hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có việc tự học mới trang bị cho mình kiến
thức mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn
hoạt động và đạt kết quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao thành
tích, hoạt động trí tuệ của học sinh trong việc hiểu và tiếp thu tri thức mới,
nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã nêu lên sự cấp thiết phải khéo léo tổ chức
việc tự học cho sinh viên. Tự học với sự nỗ lực nào, tư duy sáng tạo
đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ
bản chất của chân lý. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp nhiều
vấn đề mới và việc đi tìm giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tốt
nhất để kích thích hoạt động trí tụê cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực
tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù có
15
điều kiện ngoại cảnh thuận lợi đến máy (thầy giỏi, tài liệu hay). Theo
Aditxterrec: "Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi thì dù có
nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được việc lĩnh hội tri
thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái
đó học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí tụê của bản thân". Điều đó lại
khẳng định thêm vai trò của việc tự học.
Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên những kiến
thức mới, bổ ích mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này khi
họ trở thaàh những người chủ thực sự góp phần xây dựng đất nước. Họ
có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công tác như
thế nào? phụ thuộc phần lớn vào công tác tự học. Mỗi sinh viên ra
trường đều muốn có một công việc ổn định và hoàn thành tốt công việc của
mình nhưng chuẩn bị tốt cho việc đó là làm tốt phần việc của ngày hôm nay
khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Xã hội ngày càng phát triển và ngày càng
có nhiều phát kiến vĩ đại hơn, thời đại dó cần có những con người toàn diện,

qui luật khắc nghiệt của cuộc sống sẽ đào thải những ai không theo kịp, tụt
hậu so với nó. Bí quyết để chiến thắng là trang bị cho mình những tri thức
toàn diện, đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho công tác tự học. Không chỉ có
vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân
cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc
lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong
cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình.
Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao
vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ.
Do vậy, mỗi sinh viên hãy xây dựng cho mình một thói quen, một phương
thức tự học thích hợp nhất.
2.2/ Bản chất của việc tự học.
Mỗi chúng ta đều nhận thấy rằng muốn làmtốt một việc gì dù nhỏ, đơn
giản cũng cần có sựnỗ lực phấn đấu của bản thân. Việc học tập củasinh viên
cũng vậy họ sẽ trở thành cái máy ghiâm lời thầy cô và cũng chóng quên
những điềuđã học nếu không làm cho nó có ích và biếnnhững tri thức
ấy thực sự là của mình. Côngviệc tự học sẽ đáp ứng được yêu cầu này.
Thực chất tự học là một quá trình học tập, một quá trìn nhận thức
không trực tiếp có thầy giáo. Đó là "lao động khoa học", vất vả hơn
nhiều so với quá trình học có thầy bởi vì người học phải tự xây dựng cho
mình cách học và sử dụng hợp lý các điều kiện, hình thức, phương tiện
16
học tập để đạt được kết quả mong muốn. Có thể nói: "Bản chất của công
việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận thức một cách tự
giác, tích cực, tự lực không có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ dạy học" [3]. Tự học vừa mang ý
nghĩa củng cố trau dồi tri thức và có ý nghĩa mở rộng hiểu biết. Tự học có
nghĩa là sinh viên phải độc lập, tự xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập
cho mình, tự năng động tìm tòi, phân tích những sách vở, tài liệu tiến tới
làm chủ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

Bản chất của quá trình tự học là không có sự hướng dẫn của giáo
viên nên tất yếu đòi hỏi nỗ lực, tích cực hoá hoạt động nhận thức của
sinh viên. Sự tự kiềm chế đối với những ảnh hưởng ngoại cảnh hay
những ước muốn không hợp lẽ trong tư tưởng là điều kiện cần thiết đối với
quá trình tự học. Nếu thiếu tự kìm chế, kiên trì, những yêu cầu cao, sự
nghiêm túc đối với bản thân thì sinh viên không bao giờ thực hiện được
kế hoạch học tập do chính mình đặt ra. Đây cũng là điều kiện giúp sinh
viên từng bước nâng cao chất lượng học tập của bản thân và các trường
đại học cũng sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo, hoàn thành mục tiêu
giáo dục nếu tổ chức có hiệu quả công việc tự học cho sinh viên.
2.3/ Nguyên tắc đảm bảo việc tự học.
Một vấn đề có tính khoa học bao giờ cũng được xây dựng trên những
cơ sở, nguyên tắc nhất định việc tự học muốn bảo đảm tốt cần tuân
thủ các nguyên tắc sau:
2.3.1/ Bảo đảm tính tự giáo dục.
Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa đựng quá trình giáo
dưỡng, do vậy mà trong công tác tự học của sinh viên, ngoài việc tự
củng cố những tri thức cũ, lĩnh hội tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người
sinh viên từng bước tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho ngày
càng gần với phẩm chất cao quý của những thầy cô giáo
2.3.2/ Bảo đảm tính khoa học trong quá trình tự học.
Bản thân quá trình tự học của sinh viên cũng là một quá tình "lao
động khoa học" hết sức khó khăn, do vậy, phải đòi hỏi có tính khoa học.
Việc bảo đảm tính khoa học trong công tác tự học sẽ đảm bảo được tính tự
giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như mong
muốn.
17
2.3.3/ Đảm bảo "học đi đôi với hành".
Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện chứng với nhau. Tự học
không chỉ củng cố, mở rộng kiến thức thong thường mà quan trọng hơn là

đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, "cọ sát" với thực tế để thu lượm
được những kinh nghiệm thực tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho sinh
viên trong những điều kiện quen thuộc cũng như mới mẻ đều có thể vận
dụng đúng linh họat, sáng tạo những điều họ đã tự tiếp thu lĩnh hội được.
2.3.4/ Nâng cao dần đến mức tự giác, tích cực trong quá trình tự
học.
Nguyên tắc này sẽ trực tiếp quyết định đến kết quả học tập của sinh
viên. Kế hoạch tự học có được thực hiện thường xuyên hay không là do
yếu tố tự giác tích cực quyết định.
2.3.5/ Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo.
Quá trình tự học không chỉ đơn thuần là quá trình tự hình thành tri
thức mà nó còn là quá trình hoạt động thực tiễn, nâng cao, củng cố kỹ
năng, kỹ xảo. Trên đây là 5 nguyên tắc cơ bản đảm bảo hiệu quả cho
quá trình tự học của học sinh sinh viên, năm nguyên tắc này có quan hệ
gắn bó với nhau, nguyên tắc này hỗ trợ cho nguyên tắc kia và đều nhằm
mục đích bảo đảm tính tự giáo dục, tự đào tạo theo mục tiêu giáo dục
của trường đại học. Trong thực tiễn tự học của bản thân, mỗi sinh viên cần
thiết kế hợp lí khéo léo, khoa học những nguyên tắc trên, hạn chế đến
mức thấp nhất yếu tố ngoại cảnh không có lợi cho việc tự học.
2.4/ Biểu hiện của ý thức tự học tốt.
Một người có ý thức tự học tốt thể hiện ở chỗ họ có thái độ đối
với việc học tập ở lớp cũng như ở nhà và họ thực hiện học tập như thế
nào. Việc này tưởng chừng như đơn giản, song không phải sinh viên nào
cũng đã thực hiện được. Một sinh viên có ý thức tự học tốt, phải là người
biết cách sắp xếp thời gian học tập, biết phân phối sức lực để học tập,
khát khao hiểu biết, nghiên cứu, làm chủ những thành tự khoa học của
nhân loại. Đó là những sinh viên bếit học hết mình và cũng "biết chơi hết
mình", họ kết hợp giữa học tập và giải trí một cách khoa học, thậm chí, họ
học được nhiều điều trong khi chơi, ý thức tự học tốt thể hiện rất rõ qua
18

việc học tập trên lớp và việc tự tổ chức học tập ở nhà. Ở trên lớp,
người có ý thức tự học tốt chính là người tập trung nghe giảng, đào
sâu suy nghĩ, hăng hái phát biểu bởi vì người ta thường nhớ rất
nhanh và rất bền điều mà họ hiểu. Ở trường đại học, cách giảng bài
cũng khác phổ thông, giáo viên cứ thuyết trình còn sinh viên tự ghi
những ý cơ bản, có chọn lọc và một bài ghi có giá trị khi sinh viên biết chọn
lấy những tư tưởng cơ bản trong bài giảng rồi dùng lời lẽ của mình ghi lại
một cách ngắn gọn. Một bài ghi như thế sẽ giúp sinh viên rất nhiều trong
việc học tại nhà. Tự học ở nhà chính là bước giúp sinh viên đào sâu
suy nghĩ, hệ thống lại những tri thức đã lĩnh hội, liên hệ nó với kế
hoạch thực tế và xây dựng kế hoạch nghiên cứu tài liệu sao cho những
điều mình biết luôn có ích và không xa rời hiện thực. Tuy nhiên, một ý
thức tự học tốt không chỉ vượt ra khỏi khuôn khổ của việc học tập trên
lớp hay việc tự học ở nhà mà nó thể hiện ngay trong ý thức tiếp thu, tự
học những điều nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống. "Trường đời" sẽ cung
cấp cho sinh viên nhiều điều bổ ích, song những điều đó có trở thành
"vốn sống" hay không thì lại đòi hỏi một người tự giác, tích cực học hỏi,
sáng tạo. Có thể thấy rằng trong tầng lớp sinh viên ở các trường đại học hiện
nay đã và đang xuất hiện nhiều tấm gương sinh viên giỏi, sinh viên vượt
khó song phải làm gì đây để nhân rộng ra những tấm gương học tập
tiêu biểu đó?
2.5/ Đặc điểm tự học của sinh viên ở các trường đại học.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu đào tạo của các trường đại học là:
"Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ, có
trình độ, có lý tưởng cách mạng, có quyết tâm vươn tới những đỉnh
cao của văn hoá, khoa học hoặc chỉ đạo việc thực hiện những nhiệm
vụ chuyên môn do mình phụ trách, có tiềm lực để từng bước tiến
hành giải quyết các vấn đề thực tiễn do cuộc sống đặt ra trong phạm vi
"nghề nghiệp" của mình và với phương châm "biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo" [4]. Trên ý nghĩa đó, việc tự học của sinh viên

không còn giống tự học của học sinh phổ thông. Học đại học là đi sâu
vào một chuyên ngành để chuẩn bị cho một nghề trong tương lai. Do đó,
người sinh viên phải tự trang bị cho mình những hiểu biết cơ bản, vững vàng
về nghề đó, đồng thời phải có nhiều hiểu biết khác nữa theo yêu cầu của
cuộc sống. Giờ đây, công việc tự học của sinh viên trở nên rất quan
trọng, rất nặng nề, nó trở thành một bộ phận cấu thành của giáo dục
đại học. Do phương pháp học tập ở trường đại học khác cơ bản so với
phương pháp học ở phổ thông, ở đại học không có sự kiểm tra hang ngày
19
của giáo viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn là tự học. Sinh viên
tự đề ra kế hoạch và tự thực hiện kế hoạch. Các bài kiểm tra chính là kết
quả học tập và nghiên cứu của sinh viên. Có nhiều sinh viên cho biết rằng
50% kiến thức là do tự học. Việc tự học của sinh viên đại học còn có một
đặc điểm; đó là hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong một phạm vi
lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều tri thức. Nếu như học sinh phổ thông được cô
giáo ra những bài tập nhất định về nhà thì sinh viên đại học phải tự tìm
tòi tài liệu, chọn đọc tài liệu sao cho thích hợp với môn học và phải tỏ ra
thật sự khoa học trong công tác tự học mới có kết quả tốt. Thêm vào đó,
việc tự học của sinh viên đại học là sự nỗ lực cao, tính tự giác cao hơn
học sinh phổ thông; sinh viên thực sự làm chủ thời gian, phương pháp
phải quan tâm đến chất lượng tự học của bản thân để từ đó có phương hướng
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho mình, chuẩn bị cho ngày mai lập
nghiệp bằng sự tự tin tuyệt đối.
Tự học ở nhà - một nhân tố quan trọng đối với quá trình lĩnh hội tri
thức. Tự học ở nhà chính là lần thứ hai lĩnh hội tri thức, đó là lĩnh hội
bằng sự tái tạo lại của bản thân sinh viên. Bước tái tạo này giúp sinh
viên nắm chắc hơn điều đã được học, hoàn thành những chỗ khó, hệ
thống hoá lại bài học trên lớp, nhờ đó tránh được "học vẹt", học mà không
hiểu. Trong thực tế, việc học ở nhà còn giúp sinh viên mở mang tri thức, lĩnh
hội tri thức mới, rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức vào cuộc sống để

tự rút ra kinh nghiệm cho mình nhất là theo hình thức tín chỉ. Điều quan
trọng là việc tự học còn phát triển ở sinh viên khả năng độc lập,
sáng tạo trong lĩnh hội tri thức và trong hoạt động. Khi tự học, sinh viên
làm quen với nhiều thuật ngữ, nhiều cách đề cập đến một vấn đề, vì vậy họ
sẽ trở nên năng động hơn, tự chủ hơn trong việc tiếp thu tri thức. Qua
đó có thể nói rằng tự học của sinh viên không chỉ là một nhân tố quan trọng
trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành
nhân cách sinh viên.
20
2.6\ Kinh nghiệm từ bản thân.
Là một sinh viên tôi nhận thấy tự học,chủ động học tập là rất cần
thiết,nhất là trong giai đoạn chương trình đào tạo Đại học theo hình thức tín
chỉ hiện nay thì “Đại học là tự học”.Nhưng không phải ai cũng biết cách tự
học,biết cách chủ động tiếp cận tri thức.Với tôi, tôi nhận thấy tự học là mình
đón đầu kiến thức,tự tìm kiến thức.Với bất cứ một môn học nào cũng cần có
phường pháp riêng,nhưng đều có một cái chung là nguồn kiến thức có rất
nhiều trên thư viện,trên mạng internet…chung ta chỉ cần có ý thức chủ động
học tập nghiên cứu,biết sắp xếp thời gian hợp lý thì mình tin chúng ta sẽ học
tập hiệu quả.
Là sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội,một ngôi trường có bề dày về
truyền thống học tập.Mình nhận thấy hầu hết sinh viên Bách khoa đã và
đang chủ động đón đầu, tiếp cận tri thức.Điều đó được chứng mình bằng
thực tế là: thư viện Tạ Quang Bửu lúc nào cũng có rất đông sinh viên đến đó
nghiên cứu tài liệu,mượn,trả sách,học nhóm…nhiều khi quá tải,lúc đó thì
cac giảng đường trống giờ lại dần được lấp đầy sinh viên,và nhiều khi hành
lang,bậc cầu thang, ghế đá…cũng là bàn học.Mọi người đến trường để
nghiên cứu khoa học,cùng nhau thảo luận,cùng nhau tìm lấy khiến thức cho
mình.Tuy hình thức đào đạo theo tín chỉ mới được áp dụng vào nhà trường
có nhiều đổi mới nhưng các sinh viên Bác Khoa Hà Nội với tinh thần tự học
đã chủ động với “Tín chỉ|”.Các sinh viên khóa sau tiếp bước các anh chị

khóa trước tạo nên một thương hiệu “ Bách Khoa”.
21

KẾT LUẬN
Tóm lại tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết
trong quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai
trò đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ
của Người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng về vấn
đề tự học.Tự học nhằm phát huy tính tự giác tích cực năng lực đọc sách và
nghiên cứu của sinh viên để thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở các trường Đại
học- Cao đẳng là “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của sinh
viên”. Do đó, tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của các trường Đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay là việc
làm cấp thiết.Và sinh viên cần tự ý thức được tầm quan trọng của việc tự
học,cần có kế hoạch học tập rõ ràng,chủ động trong việc học,việc tìm kiếm
kiến thức.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh : Về vấn đề giáo dục, Nxb Hồ Nội,1971,tr.76
(2) Hồ Chí Minh : Về vấn đề giáo dục,Nhà xuất bản giáo dục, 1997,tr 42.
(3)Trần Anh Tuấn,Vấn đề tự học của sinh viên từ góc độ đánh giá chất lượng kỹ
năng nghề nghiệp,Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục,5 (1996) 18.
(4) Nguyễn Kỳ,biến quá trình dạy học thành quá trình tự học,Tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục 2 (1990) 24.
(5) Hà Thị Đức, Về hoạt đông tự học của sinh viên,Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, 4
(1992) 23.

23

24

×