Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và biện pháp kỹ thuật sản xuất hoa lan hồ điệp tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 98 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC


ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN VÀ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
SẢN XUẤT HOA LAN HỒ ĐIỆP TẠI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thuý Hà





Thái Nguyên, 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Bích Ngọc


















Số hóa bởi trung tâm học liệu


ii
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thúy Hà đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như trong
quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Trung tâm dạy nghề huyện
Đồng Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí cán bộ
nơi tôi tiến hành thực hiện đề tài đã luôn động viên, giúp đỡ rất nhiều cả về tinh
thần và vật chất cho tôi hoàn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Bích Ngọc








Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích của đề tài 3
3. Yêu cầu của đề tài 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 4
1.2. Sơ lược về cây hoa lan 4
1.2.1. Nguồn gốc, vị trí, phân loại và đặc điểm thực vật học của cây hoa lan
lan 4
1.2.2. Yêu cầu về điều kiện môi trường sinh thái của cây hoa lan 12
1.3. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và Việt Nam 15
1.3.1. Tình hình sản xuất lan trên thế giới 15
1.3.2. Tình hình sản xuất lan ở Việt Nam 16
1.3.3. Tình hình sản xuất hoa tại Thái Nguyên. 19
1.4. Các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài 20
1.4.1. Các nghiên cứu về giống hoa lan Hồ Điệp trên Thế giới và ở Việt
Nam 20
1.4.2. Các nghiên cứu về phân bón lá cho lan Hồ Điệp trên Thế giới và ở
Việt Nam 21
1.4.3. Các nghiên cứu về giá thể trồng lan Hồ Điệp trên Thế giới và ở Việt
Nam 23
Chƣơng 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25

2.1. Vật liệu nghiên cứu 25
2.1.1. Các giống hoa 25

Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
2.1.2. Các loại giá thể 25
2.1.3. Các loại phân bón 25
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 26
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 26
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.3. Đặc điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.3.1. Địa điểm 28
2.3.2.Thời gian 28
2.3.3.Các chỉ tiêu theo dõi 28
2.4. Phương pháp và xử lý số liệu 30
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Đặc điểm sinh trưởng phát triển, năng suất, chất lượng của một số
giống hoa lan Hồ Điệp trồng tại Thái Nguyên 31
3.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến hoa lan Hồ Điệp 42
3.3. Ảnh hưởng của giá thể đến lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 50
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60
1. Kết luận 60
2. Đề nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CAQ : Cây ăn quả
CT : Công thức
DL : Dài lá
ĐK : Đường kính
ĐKNHTB : Đường kính ngồng hoa trung bình
ĐVT : Đơn vị tính
KHKT : Khoa học kỹ thuật
RL : Rộng lá
S

: Diện tích lá
TB : Trung bình
TBKH : Tiến bộ khoa học
TTDN : Trung tâm dạy nghề
D : Chiều dài
R : Chiều rộng
TGXH : Thời gian xuất hiện
TGST : Thời gian sinh trưởng
CD : Chiều dài













Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Động thái ra lá của một số giống lan Hồ Điệp 31
Bảng 3.2: Diện tích lá của một số giống lan Hồ Điệp 33
Bảng 3.3: Đặc điểm hình thái và mầu sắc lá, thân, hoa của một số giống lan
Hồ Điệp 34
Bảng 3.4: Động thái tăng trưởng đường kính thân của một số giống lan Hồ Điệp 34
Bảng 3.5a: Sự ra hoa và sinh trưởng phát triển hoa của một số giống lan Hồ Điệp 36
Bảng 3.5b: Sự ra hoa và chất lượng hoa của một số giống lan Hồ Điệp 37
Bảng 3.6a: Thành phần bệnh hại chủ yếu trên một số giống lan Hồ Điệp 39
Bảng 3.6b: Thành phần sâu bệnh hại chủ yếu trên một số giống lan Hồ Điệp 39
Bảng 3.7: Hiệu quả kinh tế của một số giống hoa lan Hồ Điệp 41
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái ra lá của cây lan Hồ
Điệp giống Chấm trắng 42
Bảng 3.9 a: Ảnh hưởng của phân bón lá đến diện tích lá của cây lan Hồ Điệp
giống Chấm trắng 43
Bảng 3.9b: Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng dường
kính thân của cây lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 44
Bảng 3.10a: Ảnh hưởng của phân bón lá đến sự ra hoa và sinh trưởng phát
triển hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 45
Bảng 3.10b: Ảnh hưởng của phân bón lá đến sự ra hoa và chất lượng hoa lan
Hồ Điệp giống Chấm trắng 47
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của phân bón lá đến diễn biến thành phần sâu bệnh hại
chủ yếu trên cây hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 48

Bảng 3.12: Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá cho hoa lan Hồ
Điệp giống Chấm trắng 49
Bảng 3.13: Ảnh hưởng của giá thể đến động thái ra lá của cây hoa lan Hồ
Điệp giống Chấm trắng 50
Bảng 3.14: Ảnh hưởng của giá thể đến diện tích lá của cây hoa lan Hồ Điệp
giống Chấm trắng 52
Bảng 3.15: Ảnh hưởng của giá thể đến động thái tăng trưởng đường kính
thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 53
Bảng 3.16a: Ảnh hưởng của giá thể đến sự ra hoa và sinh trưởng phát triển
hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 54
Bảng 3.16b: Ảnh hưởng của giá thể đến sự ra hoa và chất lượng hoa hoa lan
Hồ Điệp giống Chấm trắng 56
Bảng 3.17: Ảnh hưởng của giá thể đến diễn biến thành phần sâu bệnh hại trên
cây hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 57
Bảng 3.18: Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các loại giá thể trồng hoa lan
Hồ Điệp giống Chấm trắng 58


Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ


Hình 3.1: Biểu đồ động thái ra lá của một số giốnglan Hồ Điệp 32
Hình 3.2: Biểu đồ động thái tăng trưởng đường kính thân của một số giống
lan Hồ Điệp 35
Hình 3.3: Biểu đồ sự ra hoa và chất lượng hoa của một số giống lan Hồ Điệp 38
Hình 3.4: Biểu đồ ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng
đường kính thân của cây lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 44

Hình 3.5: Biểu đồ ảnh hưởng của phân bón lá đến sự ra hoa và sinh trưởng
phát triển hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 46
Hình 3.6: Biểu đồ ảnh hưởng của giá thể đến động thái ra lá của cây hoa lan
Hồ Điệp giống Chấm trắng 51
Hình 3.7: Biểu đồ ảnh hưởng của giá thể đến động thái tăng trưởng đường
kính thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 53
Hình 3.8: Biểu đồ ảnh hưởng của giá thể đến sự ra hoa và sinh trưởng phát
triển hoa lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 55
Hình 3.9: Biểu đồ ảnh hưởng của giá thể đến sự ra hoa và chất lượng hoa hoa
lan Hồ Điệp giống Chấm trắng 56

Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Trong muôn ngàn loài hoa đua hương khoe sắc mà thượng đế đã ban cho
loài người chúng ta, hoa lan được người Á Châu liệt vào hàng “vương giả”, có
vẻ đẹp quyến rũ đến mê hồn được thể hiện từ cấu trúc kiêu kỳ, phức tạp, những
trạm trổ hết sức tinh vi của cánh hoa đến những đường nét “phong độ” mà “quý
phái” của bộ rễ, thân và lá, đặc biệt là hương thơm tao nhã. Mặt khác, hoa lan
còn có đặc tính bền, tươi lâu, dễ bảo quản. Chính vì vậy, hoa lan không chỉ
chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của con người mà chúng còn trở thành
một mặt hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngành nông nghiệp.
Hoa lan thực sự đã trở thành sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao,
thúc đẩy ngành sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là các nước
thuộc châu Á nhiệt đới như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia…
Trong đó, Thái Lan có kim ngạch xuất khẩu hoa lan cắt cành năm 1987 là 21
triệu USD, năm 1990 là 26 triệu USD, năm 1991 là 30 triệu USD. Singapore

thu lợi nhuận từ lan cắt cành mỗi năm 10 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu
hoa lan trên thế giới hàng năm đạt 1,8 tỷ USD (Phan Thúc Huân, 1989) [13].
Hiện nay, nghiên cứu về khoa học ở nước ta chủ yếu tập trung nghiên
cứu nhân nhanh các giống hoa lan nhiệt đới. Kỹ thuật nuôi trồng trên quy mô
công nghiệp hầu như còn ít, chưa có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật trồng, chọn
lọc loài lan rừng thích hợp với điều kiện khí hậu Thái Nguyên nói riêng và
miền Bắc nói chung. Để phát triển lâu dài bền vững thì các chủng loại lan
rừng Việt Nam cần được nghiên cứu nhằm bảo tồn nguồn gen để phục vụ cho
việc lai tạo lan trong tương lai, tạo ra những loài lan đặc hữu chỉ có ở Việt
Nam. Mặt khác, cần hoàn thiện nhanh chóng qui trình nuôi trồng lan công
nghiệp nhằm đáp ứng thị trường trong nước cũng như dần hướng tới thị
trường xuất khẩu (Nguyễn Thiện Tịch, 1996) [23].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
Ở nước ta có nhiều vùng trồng hoa qui mô lớn, nổi tiếng và giàu kinh
nghiệm là Đà Lạt (Lâm Đồng), Vĩnh Tuy, Nhật Tân, Đông Anh, Ngọc Hà (Hà
Nội), Mê Linh (Vĩnh Phúc), Đằng Hải (Hải Phòng), Gò Vấp (Thành phố Hồ
Chí Minh), Sapa (Lào Cai), Nam Phong (Nam Định) Diện tích trồng hoa
trên cả nước tính đến nay khoảng 4000 ha sau Ấn Độ, Trung Quốc và Thái
Lan…Tuy nhiên, sản xuất hoa ở Việt Nam còn nhiều hạn chế do khí hậu ít
thuận lợi, công nghệ sản xuất lạc hậu và thị trường nhỏ đặc biệt là thị trường
xuất khẩu.
Thái Nguyên cũng như các vùng khác chủ yếu sản xuất hoa dựa vào kinh
nghiệm là chính. Công nghệ sản xuất còn thiếu tính đồng bộ, diện tích trong
nhà có mái che còn thấp nên chất lượng hoa cắt không cao, nhiều loại hoa
chưa thể trồng trái vụ nên chưa đáp ứng được nhu cầu hoa cắt thường xuyên.
Bên cạnh đó, đầu tư cho KHKT chưa nhiều, chưa có các giống chủ lực và cơ
sở nhân giống đủ điều kiện phục vụ sản xuất hàng hoá, phần lớn vẫn phải

nhập giống từ nước ngoài. Vì vậy, sản xuất bị động, giá thành sản xuất cao.
Hơn nữa sản phẩm chưa có nhãn mác, thương hiệu, vì thế hoa chưa có thị
trường xuất khẩu.
Lan Hồ Điệp là một loài lan quý có giá trị thương mại cao, có khả năng
thích ứng tốt với khí hậu miền Bắc - Việt Nam. Để có cơ sở chắc chắn trước
khi phát triển giống lan Hồ Điệp, tiến tới mở rộng vùng sản xuất và tạo thương
hiệu riêng cho hoa lan của Thái Nguyên. Vì vậy, việc nghiên cứu xác định
giống tốt đạt chất lượng và kỹ thuật canh tác phù hợp là việc làm cần thiết và
cấp bách.
Xuất phát từ thực tế trên cũng như góp phần phát triển ngành nuôi trồng
hoa lan ở Thái Nguyên, giúp cho người trồng lan có được quy trình, kỹ thuật
chăm sóc lan nhằm phát triển ngành trồng hoa lan theo hướng công nghiệp,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đáng giá khả năng sinh trưởng, phát
triển và biện pháp kỹ thuật sản xuất hoa lan Hồ Điệp tại Thái Nguyên”.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
2. Mục đích của đề tài
- Xác định giống lan Hồ Điệp sinh trưởng, phát triển phù hợp với điều
kiện sinh trưởng tại Thái Nguyên.
- Xác định loại giá thể và phân bón lá phù hợp đối với sinh trưởng, phát
triển lan Hồ Điệp tại Thái Nguyên.
3. Yêu cầu của đề tài
+ Đánh giá khả năng sinh trưởng.
+ Theo dõi tình hình sâu, bệnh hại.
+ Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng hoa.
















Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
+ Kết quả nghiên cứu đề tài là dẫn liệu khoa học về khả năng sinh
trưởng, ra hoa của các giống hoa lan Hồ Điệp trồng tại Thái nguyên.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo trong giảng dạy,
nghiên cứu về hoa lan Hồ Điệp trồng tại Thái Nguyên.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Kết quả đề tài góp phần giải quyết yêu cầu thực tế sản xuất của các hộ
nông dân, các doanh nghiệp trồng hoa lan để lựa chọn các biện pháp kỹ thuật
tốt nhất trong việc nuôi trồng lan Hồ Điệp.
Tạo tiền đề thúc đẩy nghề trồng hoa lan ở Thái Nguyên, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh .

1.2. Sơ lược về cây hoa lan
1.2.1. Nguồn gốc, vị trí, phân loại và đặc điểm thực vật học của cây hoa lan lan
1.2.1.1. Nguồn gốc lịch sử
Theo các tác giả Trần Hợp (1990) [11], Nguyễn Tiến Bân (1997) [2],
Võ Văn Chi - Dương Đức Tiến (1978) [3], Phạm Hoàng Hộ (2000) [9],
Nguyễn Văn Chương, Trịnh Văn Thịnh (1991) [4] cây lan Orchida thuộc họ
phong lan Orchidaceae, bộ lan Orchidales, lớp một lá mầm
Monoctyledoneae. Cây lan được biết đến đầu tiên ở Phương Đông. Hoa lan
được biết đến vào khoảng 2500 năm về trước (Thời đại của Đức Khổng Tử,
551- 479 trước công nguyên). Ở Phương Đông, lan được chú ý đến vì vẻ đẹp
duyên dáng của lá, hương thơm tuyệt vời của hoa. Khổng Tử đề cao lan là
Vua của những loài cỏ cây có hương thơm.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
Hoa lan thường mọc ở các vùng nhiệt đới, đã được các thuỷ thủ, các lái
buôn, nhà truyền giáo mang về nên người châu Âu biết đến rất muộn, lan
được chú ý trước hết để làm thuốc chữa bệnh. Ở đây người ta đã tiến hành
nghiên cứu rất công phu tỉ mỉ về lan. Có thể nói Theophara stus là cha đẻ
ngành học về lan và ông cũng là người đầu tiên dùng từ Orchid để chỉ một
loài lan có củ tròn. Sau đó Robut Bron (1773 - 1858) là người đầu tiên đã
phân biệt rõ ràng giữa họ lan và các họ khác [10]. Người đặt nền tảng hiện đại
cho môn học về lan là John Lindley (1799 - 1865). Năm 1836 ông công bố, sắp
xếp các tông họ lan (A tabuler view of the tribes of orchidaler). Tên của họ lan
do ông đưa ra được dùng cho đến ngày nay [10].
Ở Việt Nam, dấu vết nghiên cứu về lan thời kỳ đầu không rõ rệt, có lẽ
người đầu tiên có khảo sát về lan ở Việt Nam là Gioalas Noureiro - Nhà
truyền giáo người Bồ Đào Nha, ông đã mô tả cây lan ở Việt Nam lần đầu tiên
vào năm 1789 trong cuốn “Flora cochin chinensis”, gọi tên các cây lan trong

cuộc hành trình đến nam phần Việt Nam là Aerides, Phaius và Sarcopodium
mà đã được Bentham và Hooker ghi lại trong cuốn “Genera planterum” (1862
- 1883) [9]. Chỉ sau khi người Pháp đến Việt Nam mới có những công trình
nghiên cứu được công bố đáng kể là F. Gagnepain và A. Gnillaumin mô tả 70
chi gồm 101 loài cho cả 3 nước Đông Dương trong bộ “Thực vật Đông
Dương chí” do H. Lecomte chủ biên, xuất bản năm 1932 - 1934 [15].
Theo tác giả Phạm Hoàng Hộ (1972), đã mô tả kèm hình vẽ 289 loài lan
gặp ở Nam Việt Nam trong bộ “Cây cỏ Việt Nam” (quyển II ).
Sau năm 1975 các nhà khảo cứu Việt Nam, Liên Xô, Tiệp Khắc bắt đầu
tìm kiếm và nghiên cứu về những giống lan tại Việt Nam.
Năm 1992, tác giả Gunnar Seidenfaden người Đan Mạch đã phát hành
cuốn “Hoa Lan tại Đông dương” gồm 200 giống và 2000 loài, trong đó có
khoảng 136 giống và 720 loài của Việt Nam.
Đến năm 1993, tác giả Phạm Hoàng Hộ [9] cho rằng, ở Việt Nam có tới
755 loài lan.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
Gần đây nhất tác giả Leonid Averyanov và các tác giả Nguyễn Tiến
Hiệp, Phan Kế Lộc, Dương Đức Huyến đã lần lượt công bố trên tờ nguyệt san
Orchids của Hội hoa lan Hoa Kỳ những khám phá mới lạ đã phát hiện thấy 4
loài lan ở Việt Nam chưa được biết đến đó là Paphio pledilum helenae,
Renamthera citrina, Paphiopedilum hiepii và Vanda bidupensis.
1.2.1.2. Vị trí phân bố
Cây hoa lan mọc ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ miền gió tuyết đến sa
mạc nóng bỏng khô cằn, từ miền núi cao rừng thẳm đến đồng cỏ của miền
bình nguyên và ngay cả các vùng sình lầy cũng có lan. Đa số lan mọc tập
trung ở các rừng cây nhiệt đới, ở các nước Châu Á như Thái Lan, Lào, Cam
Pu Chia, Việt Nam có Dendrobium, Vanda, Phalaenopsis, Archinis,

Renanthera, ở Châu Nam Mỹ như Costarica, Venezuela, Colombia có các
giống Cattleya, Odontoglosum, Miltonia.
Theo Briger (1971), vùng trung sinh Bắc bán cầu có 75 chi và 900 loài,
vùng trung sinh Nam bán cầu có 40 chi và 500 loài, Châu Âu có 120 loài, Bắc
Mỹ có 170 loài. Họ lan (Orchidaceac) thuộc vào một loài hoa đông đảo với
khoảng chừng 750 chi và 30.000 loài nguyên thủy và khoảng một triệu loài
lan; loài hoa có số lượng lớn đứng thứ 2 sau họ cúc (Asteraceac).
Theo Presley (1981) thì vùng Châu Á nhiệt đới có 250 chi và 6.800 loài
trong đó chi Dendrobium có 1.400 loài, chi Coelogyne có 200 loài, chi
Phalaenopsis có 35 loài, chi Vanda có 60 loài, vùng châu Mỹ nhiệt đới có 306
chi và 8.266 loài, chi Cattleya có 60 loài, chi Epidendrum có 500 loài, chi
Odontoglossum có 200 loài. Vùng Châu Mỹ nhiệt đới có 306 chi và 8.266
loài. Trên thế giới có một số nước tập trung nhiều loài hoa như Colombia có
1.300 loài và Tân Ghinê có 1.450 loài, (Phan Thúc Huân, 1989) [13].
Khảo sát sơ bộ ở Việt Nam, chi Dendrobium có khoảng 89 loài,
Paphiopedilum có 25 loài, Aerides có 5 loài, chi Cymbidium có 20 loài, chi
Phalaenopsis có 7- 8 loài.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
1.2.1.3. Phân loại hoa lan
Theo các tác giả Trần Hợp (1990) [11], Nguyễn Tiến Bân (1997) [2], Vô
Văn Chi - Dương Đức Tiến 1978 [3], Phạm Hoàng Hộ (1992) [9], Nguyễn
Văn Chương, Trịnh Văn Thịnh (1991) [4] và Koopowitz (1986) [34], cây hoa
lan thuộc họ lan (Orchidaceae), ở trong lớp đơn tử diệp, lớp 1 lá mầm
(Monocotyledoneae), thuộc ngành ngọc lan - thực vật hạt kín Magnolio phyta,
phân lớp hành Lilidae, bộ lan Orchidales.
Theo tác giả Takhtajan (1980), họ lan bao gồm cả họ Apostasicideae và
họ Cypripedicideae chia thành 3 họ phụ gồm:

1. Orchidadeae
2. Cypripedicideae
3. Apostasicideae
Trong đó họ phụ lan (Orchidadeae) là phức tạp nhất, có nhiều giống
nhiều loại nhất, hai họ phụ kia mỗi loại chỉ có một tông, (Phan Thúc Huân,
1989) [13].
Gần đây, do phân tích hoa đầy đủ hơn và đi sâu vào đặc tính di truyền,
các nhà khoa học đã chia họ lan thành 6 họ phụ:
1. Apostasicideae
2. Cypripedicideae
3. Neottioi deae
4. Orchidadeae
5. Epidendroi deae
6. Vandoideae
Cả 6 họ phụ này đều phổ biến rộng rãi trên trái đất. Họ lan của Việt
Nam cũng khá phong phú, theo thống kê sơ bộ gần đây có khoảng 140 chi và
730 loài. Như vậy, họ lan đã trở thành 1 đối tượng cực kỳ phong phú và đặc
sắc của hệ thực vật Việt Nam, không những là một trong những họ thực vật
lớn nhất mà còn đóng góp nhiều về mặt giá trị sử dụng cho nền kinh tế nước

Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
nhà. Tuy nhiên, việc phân loại cây trồng hết sức phức tạp, cho đến nay chưa
có khoá phân loại cho các đơn vị dưới loài, trong khi đó việc phân loại cho
các đơn vị dưới loài hết sức quan trọng, nhất là trong công tác chọn giống cây
trồng (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [19], đối với họ lan cũng gặp những khó
khăn này.
1.2.1.4. Đặc điểm thực vật của cây hoa lan
Thân cây họ lan: cây lan sống ở những nơi hoang dã, ở các địa điểm rất

khác nhau, điều kiện môi trường rất khác nhau như các sườn núi cao giá lạnh,
trên cây cao gió thốc hoặc ẩm ướt tối tăm ven suối trong rừng rậm , cấu trúc
loài lan cũng đa dạng để thích nghi. Thân các loài lan có 2 kiểu tiêu biểu nhất là:
Lan đa thân: Các chi lan Kiếm (Cymbidium), lan Hài
(Paphiopedilum), lan Vũ nữ (Oncidium), Cát lan (Cattleya), lan Hoàng
thảo (Dendrobium) thuộc vào kiểu lan đa thân.
Thông thường, phần của cây lan nhìn thấy được chỉ có lá, hoa và
cuống. Chúng được mọc nên từ một đoạn phình to, giống như củ hành nên
người ta gọi là giả hành.
Giả hành có thể nhỏ như lan Kiếm hoặc khá to như lan Bầu rượu
(Catlanthe), ngắn hình thoi như lan Hoàng thảo vẩy rồng, nhưng có loài khá
dài như lan Hoàng thảo phi điệp (dài tới 1m).
Việc tách bụi của lan đa thân là việc cắt thân rễ (căn hành), cắt ở vị trí
nào ta cần tính toán sao cho mỗi bụi đều có đủ sức để phát triển mạnh, thường
nên để mỗi có khoảng 3 giả hành.
Lan đơn thân: Các chi lan Vanda, Hồ điệp, Phượng vĩ, Ngọc điểm
(Rhychostylis) thuộc kiểu lan đơn thân. Thân các loài lan đơn thân luôn mọc
cao nên phía ngọn, phát triển theo chiều thẳng đứng. Sự phát triển chỉ ngừng
khi đỉnh ngọn bị thương tổn, chồi bên sẽ xé rách bọc lá để mọc thành thân
nhánh và cũng vươn cao nên phía đỉnh.
Khi thân các loài lan đơn thân vươn cao dễ bị đổ nghiêng ngả, có loài rễ

Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
gió (rễ khí) mọc theo thân bám chặt vào các cành cây hay bất cứ vật nào
chúng gặp phải để giữ cho cây luôn được thẳng đứng.
Rễ lan: đa số rễ của các loài lan có lớp mô xốp bao quanh rễ thật. Rễ của
phong lan có lớp mô xốp màu trắng ngà với nhiều công dụng khác nhau: bảo vệ
nguồn dẫn nước bên trong của rễ; hút nước và các muối khoáng bám trên mặt rễ

và hấp thụ cả hơi nước trong không khí ẩm. Chúng còn có khả năng bám chặt
vào các vật mà chúng tiếp xúc. Ruột rễ của các loài lan là một sợi rất chắc và khá
dai như sợi cước, chính vì thế rễ lan bảo đảm được cho cây lan có thể bám trên
ngọn cây cao, ở các sườn non chót vót không bị gió mạnh cuốn đi.
Miền chóp của rễ có chứa chất màu lục nên rễ cũng làm một phần chức
năng quang hợp cho cây.
Các sợi rễ không bấu víu vào các vật xung quanh nên chúng có thể hút
sương sớm chiều và làm chức năng quang hợp. Rễ có hình trụ nhưng khi bám
vào các vật cứng rễ bị bẹp đi trên vết bám.
Nói chung rễ của các loài lan dù phát triển thành nhánh cấp I, cấp II, có
khi cấp III nhưng không có rễ tóc nhỏ li ti như của các loài thực vật khác. Nếu
tính về diện tích bề mặt của cả bộ rễ một cây lan thì quá nhỏ so với bề mặt rễ
của các loài thực vật khác.
Lá lan: lá của họ lan có hình dáng và kích thước rất khác nhau. Có loài
lan lá rụng vào mùa khô hanh để giảm bớt sự thoát hơi nước. Đa số lá của các
loài lan đều bền vững nhiều năm liền. Người ta thường đếm số lá trên ngọn
lan Đai châu để xác định tuổi vì mỗi năm trung bình cây lan chỉ mọc thêm
được một đến hai lá.
Lá của nhiều loại lan rất dai, dày dặn, rất chắc có thể trữ được nước và
các chất dinh dưỡng. Lá của các loài lan mọc ở 2 phía của thân cây.
Lá của lan kiếm mọc trên cây thường dày và cứng hơn mọc dưới đất vì
chúng phải lưu trữ nước và dinh dưỡng.
Lá và rễ của loài lan đơn thân thường mọc vuông góc với nhau ở cùng
một đốt trên thân như lan Vanda, Bò cạp, Phượng vĩ Tuy vậy lá của lan Đai
châu lại mọc từ kẽ lá

Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
Hoa lan: hoa của tất cả các loài trong họ lan dù rất khác nhau về kích

thước màu sắc và hình dáng nhưng chúng được cấu tạo theo cùng một khuôn
mẫu: Hoa lan có 7 bộ phận gồm: 3 cánh đài bên ngoài, 3 cánh hoa và trụ của
bông hoa. Đoạn cuống tiếp giáp bông hoa, lá bầu hoa có 3 tâm bì chính là 3 ô
của quả lan chứa đầy các hạt nhỏ li ti gọi là tiểu noãn.

Cánh đài: bộ phận bên ngoài của hoa là 3 cánh đài, bảo vệ hoa khi còn là
nụ. Đây là nét độc đáo của hoa lan. Đại đa số hoa lan có 3 cánh đài hoàn toàn
giống nhau. Hoa lan Vanda có 3 cánh đài to và đẹp hơn cánh hoa, ngược lại ở
một số loài lan như lan Hài có 2 cánh kém phát triển và dính liền vào nhau.
Cánh hoa: cánh hoa là bộ phận quan trọng nhất để tạo ra vẻ đẹp quyến rũ
của hoa lan. Hai cánh hoa trên giống nhau hoàn toàn về màu sắc và kích thước.
Một số loài hoa lan có 3 cánh đài và 2 cánh hoa trên có màu sắc và kích
thước gần giống nhau nên đã làm cho nhiều người hiểu nhầm loài hoa này có
5 cánh hoa. Một số loài lan đặc biệt như lan hài có 2 cánh hoa dài ra thành
hình dải, có khi chúc xuống, có khi lướt sóng thành đường viền nhăn nheo kỳ lạ.
Cánh hoa phía dưới có màu sắc, hình dạng rất đặc sắc khác hẳn với 2
cánh hoa trên được gọi là cánh môi hay lưỡi. Cánh môi của hoa quyết định
phần lớn giá trị thẩm mỹ của hoa. Thiên nhiên đã cho lưỡi hoa vẻ đẹp về màu
sắc và kiểu dáng mà con người khó hình dung được. Cánh môi thường lớn
lộng lẫy với nhiều màu sắc rực rỡ, hình dáng có thể đơn giản nhưng kỳ lạ, có
thùy, rìa, tua, sóng
Trụ hoa: giữa bông hoa có một cái trụ. Trụ hoa có chứa cả nhụy hoa và
nhị hoa, có loài lan hài có 2 nhị. Đầu trụ là một nắp chứa phấn hoa. Khác với
các loài hoa khác, hạt phấn hoa được kết với nhau bằng một chất sáp tạo
thành những viên gọi là phấn khối. Do đặc tính phấn hoa lan nên ở một số
nước như Hàn Quốc người ta cho trồng hoa lan trong bệnh viện và cho mang
hoa lan vào thăm bệnh nhân. Số lượng phấn khối có thể là 2, 4, 6, 8 tùy loài
hoa. Cát lan và Laelia rất giống nhau về tất cả các mặt nhưng khác nhau về số

Số hóa bởi trung tâm học liệu


11
phấn khối. Cát lan có 4 phấn khối còn Laelia có 8. Phía dưới nắp là một điểm
trũng bóng, nếu lấy đầu que diêm chấm vào điểm đó ta sẽ thấy có một chất
nhầy và dính. Đây chính là đầu nhụy nơi tiếp nhận phấn.
Bầu hoa: khi phấn khối rơi vào đầu nhụy tạo ra sự thụ phấn. Hoa sẽ héo
đi nhanh chóng, bầu hoa phình rộng ra thành quả lan. Trong mỗi quả có rất
nhiều hạt (hàng vạn, hàng triệu tùy loại). Sau vài tháng hoặc lâu hơn, quả lan
sẽ chín và nứt dọc theo 3 khe của 3 ô. Các hạt lan có thể bị gió cuốn đi rất xa.
Hạt lan không chứa chất dinh dưỡng như những loài thực vật khác nên chúng
không thể mọc thành cây lan con được nhưng chúng vẫn sinh sôi nảy nở và
phát triển vì chúng có những hạt đã gặp được loài nấm cộng sinh hỗ trợ các
chất dinh dưỡng để cây lan con lớn dần tới khi bộ rễ phát triển để có thể tự
nuôi sống.
Họ lan được xếp vào đỉnh cao của mức độ tiến hóa trong các họ cây có
hoa. Kết luận này dựa vào sự hoàn chỉnh của cấu trúc hoa lan tạo cho sự thụ
phấn bằng côn trùng được thuận lợi nhất. Nếu thụ phấn chỉ do phấn của bông
hoa rơi trên đầu nhụy của chính bông hoa đó thì loài hoa này nhanh chóng bị
thoái hóa hơn. Phấn của hoa lan được kết dính nên không dễ dàng rơi xuống
đầu nhụy dù gió có lay mạnh bông hoa.
Khi hoa còn là nụ, nụ có thể là nghiêng hay dựng đứng ở các vị trí khác
nhau. Nhưng khi hoa nở cuống sẽ uốn cong có khi tới 180
0
làm cho môi hoa
lằm ngang, tạo thành nơi đậu cho côn trùng, có khi là cái bẫy giữ côn trùng.
Màu sắc rực rỡ, hương thơm quyến rũ hấp dẫn các loài côn trùng đến hút mật
và mang phấn khối của hoa này đến đầu nhụy của hoa kia. Hiện tượng này làm
giảm sự thoái hóa của họ lan nhưng đồng thời hình thành nên loài lan lai tự nhiên.
Ví dụ như lan Cẩm báo là loại lan lai tự nhiên của lan Hồ điệp và lan Vanda.
Quả lan: quả lan thuộc loại quả nang, nở ra theo 3 - 6 đường nứt dọc.

Có dạng từ quả cải dài đến dạng hình trụ ngắn, phình ở giữa. Khi chín, quả nở
ra và mảnh vỏ còn dính lại với nhau ở phía đỉnh và phía gốc. ở một số loài khi

Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
quả chín nứt theo 1 - 2 khía dọc, thậm chí không nứt ra mà hạt chỉ ra khỏi vỏ
khi vỏ này bị mục nát [2].
Hạt lan: hạt lan rất nhiều, nhỏ li ti. Hạt chỉ cấu tạo bởi một khối chưa phân
hoá, trên một mạng lưới nhỏ, xốp, chứa đầy không khí, sau 2 - 18 tháng hạt mới
chín. Phần lớn hạt thường chết vì khó gặp nấm cộng sinh cần thiết để nảy mầm do
đó hạt nhiều, nhẹ có thể theo gió bay phát tán rất rộng nhưng hạt nảy mầm thành
cây rất hiếm. Chỉ trong những khu rừng già ẩm ướt vùng nhiệt đới mới đủ điều kiện
cho hạt lan nảy mầm. Khối lượng toàn bộ hạt trong 1 quả chỉ bằng 1/10 - 1/000 mg,
trong đó không khí chiếm xấp xỉ 76 - 96% thể tích hạt.
1.2.2. Yêu cầu về điều kiện môi trường sinh thái của cây hoa lan
1.2.2.1. Yêu cầu về nhiệt độ
Nếu như ẩm độ quyết định sự xuất hiện của các loài lan thì nhiệt độ
quyết định sự phân bố các loài lan ấy trên thế giới. Căn cứ vào điều kiện địa
lý, người ta chia lan làm 3 nhóm khác nhau:
Lan vùng lạnh: phân bố từ vĩ tuyến 28 - 40
0
, các loại lan này không cần
nuôi dưỡng trong nhà kính.
Lan vùng nóng: phân bồ từ vĩ tuyến 12 - 15
0
, nhiệt độ trung bình từ 24 -
25
0
, biến động từ 18 - 40

0
.
Lan vùng trung gian: phân bố từ vĩ tuyến 15 - 28
0
, vùng này có nhiệt độ
xấp xỉ 9
0
C vào tháng giêng và xấp xỉ 32
0
C vào tháng 7.
Căn cứ vào nhu cầu nhiệt độ của lan, người ta chia làm 3 nhóm:
Nhóm lan ưa nóng: bao gồm những loài lan chịu nhiệt độ ban ngày
không dưới 21
0
C, ban đêm không dưới 18,5
0
C. Những loại lan này thường có
nguốn gốc ở vùng nhiệt đới.
Nhóm lan ưa nhiệt độ trung bình: bao gồm những loài lan chịu nhiệt độ
ban ngày không dưới 14,5
0
C, ban đêm không dưới 13,5
0
C.
Nhóm lan ưa lạnh: bao gồm những loài lan chịu nhiệt độ ban ngày
không quá 14
0
C, ban đêm không quá 13
0
C. Chúng thường xuất xứ ở vùng hàn

đới, ôn đới và các khu vực núi cao vùng nhiệt đới.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
Nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt động quang hợp và hô hấp của cây. Ở điều
kiện nhiệt độ tối thích, hoạt động quang hợp và hô hấp của lan diễn ra thuận
lợi, cây sinh trưởng, phát triển bình thường. Ví dụ lan Hồ điệp, nhiệt độ lý
tưởng vào ban ngày là 22 - 25
0
C, vào ban đêm 18
0
C (Soebijanto; Widiastoety,
- D; Suwanda 1988 [39]). Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến sự ra hoa của một số
loài lan. ở loài Paphiopedilum insigne và Dendrobium nobile chỉ ra hoa khi
nhiệt độ hạ xuống 13
0
C hoặc thấp hơn. Nếu nhiệt độ cao nó chỉ sinh trưởng
sinh dưỡng. Lan Hồ điệp chỉ ra hoa khi nhiệt độ ban đêm giảm xuống dưới
21
0
C ( [40]).
1.2.2.2. Yêu cầu về ánh sáng
Ánh sáng là điều kiện rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển thông
qua quá trình quang hợp và hô hấp. Nhu cầu về ánh sáng của các loài lan là
rất khác nhau. Vanda lá tròn, Arachinis, Renanthera yêu cầu 100% ánh sáng
tự nhiên, tức là khoảng 40000 lux. Dendrobium yêu cầu 70% ánh sáng tự
nhiên, khoảng 15000 - 30000 lux. Trong khi đó lan Hồ điệp (Phalaenopsis)
nhu cầu chỉ là 30% ánh sáng tự nhiên, khoảng 5000 - 14000 lux (Nguyễn
Xuân Trường 2001 [27]). Cường độ quang hợp gia tăng cùng với cường độ

ánh sáng. Tuy nhiên, khi cường độ ánh sáng vượt quá một trị số giới hạn nào
đó thì cường độ quang hợp không tăng lên nữa và có thể giảm do quá trình
quang hô hấp. Vì vậy, cần thiết kế vườn lan và hệ thống lưới che sao cho phù
hợp với từng loài lan cụ thể. Dựa vào nhu cầu ánh sáng của từng loài lan mà
người ta chia ra làm 3 nhóm:
Nhóm lan ưa ánh sáng mạnh: Cần ánh sáng nhiều 100% ánh sáng trực
tiếp như các loài Vanda, Renanthera, Cattleya
Nhóm lan ưa ánh sáng yếu: bao gồm các loài có nhu cầu ánh sáng khoảng
30 - 40% như Phalaenopsis, Paphiopedilum
Nhóm lan ưa ánh sáng trung bình: bao gồm các loài có nhu cầu ánh sáng
khoảng 50 - 80% như các loài Dendrobium, Cymbidium
Ánh sáng ảnh hưởng đến khả năng phân hoá mầm hoa và ra hoa của một

Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
số loài lan. Hầu hết các loài thuộc chi Cattleya, Dendrobium nếu thiếu ánh
sáng cây không ra hoa.
1.2.2.3. Yêu cầu về độ ẩm
Ẩm độ là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng,
và phát triển của các loài lan. Đa số các loài lan ưa ẩm, việc chọn địa điểm
thích hợp cho vườn lan sẽ giúp cho cây lan sinh trưởng và phát triển tốt, đồng
thời giảm được rất nhiều công chăm sóc. Khi trồng lan chúng ta cần lưu ý 3
loại độ ẩm sau:
Ẩm độ của vùng: là ẩm độ của một vùng sinh thái nhất định do điều
kiện địa lý, địa hình nói chung quy định. Ví dụ ẩm độ của vùng có kênh rạch,
sông suối cao hơn ẩm độ ở vùng trống, nhiều gió, ẩm độ ở vùng đồi trọc thấp
hơn ẩm độ của vùng trồng cây ăn quả, rừng.
Ẩm độ vườn: là độ ẩm của chính vườn lan, độ ẩm này có thể cải tạo
được theo ý muốn như đào ao, xây bể làm mương rạch, trồng cây, làm giàn

che, tưới nước.
Ẩm độ trong chậu: là độ ẩm cục bộ do cấu tạo của giá thể, thể tích
chậu, số lần tưới quy định. ẩm độ này hoàn toàn phụ thuộc vào kỹ thuật của
người trồng lan.
Trong thực tế ẩm độ của vùng cao thì tốt hơn ẩm độ cục bộ trong chậu
cao, do đó cần lưu ý hạn chế tưới nước trong mùa mưa và thời tiết có mưa
phùn, mưa giầm khi ẩm độ không khí cao.
1.2.2.4. Yêu cầu về độ thông gió
Thích thoáng sợ gió đó là một đặc điểm khi nói về hoa lan (Nguyễn Định
1998 [8]). Không khí cũng là một món ăn của cây lan. Khi trồng ở các thành
phố thì các giàn lan thiếu gió vì bị các nhà cao tầng che khuất trừ các giàn lan ở
trên sân thượng. Lượng không khí di chuyển làm mát cây lan, không có gió sẽ
làm cho giàn lan bị hầm hơi, làm nóng cây lan. Cho nên giàn lan nào thiếu gió
thì cây lan đó không tốt, nhưng giàn lan nào có nhiều gió quá làm thoát nhiều

Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
hơi nước, cây lan cũng không tốt. Trường hợp này phải che bớt gió. Điều
này cũng giải thích được là tại sao khi sống trong rừng không bao giờ chúng
ta tìm thấy được lan sống ở dưới thấp (trừ địa lan ở xứ lạnh). Lan thường
sống cheo leo trên các vách đá, hoặc bám chót vót trên các ngọn cây cao. Độ
thoáng gió là một trong những đặc tính quan trọng về sinh thái của cây lan
(Phan Thúc Huân, 1989 [13]).
1.3. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất lan trên thế giới
Loddiges 1812 là người đầu tiên trên thế giới thiết lập vườn lan thương
mại. Trong những thập kỷ gần đây, cùng với phương tiện giao thông phát
triển mạnh mẽ, các thành tựu khoa học kỹ thuật và sự phát triển về công nghệ
sinh học được ứng dụng rộng rãi. Do vậy, việc xuất khẩu hoa lan ngày càng

tăng với qui mô rất lớn. Nhiều nước đã trở thành cường quốc xuất khẩu hoa
như Thái Lan, Đài Loan…Hoa lan đã và đang là nguồn lợi lớn của các nước
Đông Nam Á và thế giới (Phan Thúc Huân, 1989 [13] (Delforge, P.1995)
[32]. Hiện nay, Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hoa lan, có
18 phòng nuôi cấy invitro hoa lan thương mại hoạt động ở Băng Cốc và các
vùng phụ cận (Đồng Văn Khiêm, 1995) [15].
Nhờ khả năng thực hiện công nghệ mới trong nuôi cấy mô và lai tạo, với
giá lao động thấp, khí hậu tốt, giao thông tốt cho phép Thái Lan sản xuất
quanh năm và xuất đi 50 nước trên thế giới. Năm 1993, Thái Lan cung cấp
70,7% cho thị trường Anh, 81,4% cho hà Lan về lan cắt cành, 64 triệu cành
cho ý và 5 triệu cành cho Nhật (Ngô Quang Vũ, 2002) [28].
Đài Loan: Có khí hậu ấm áp, mưa nhiều gần giống với khí hậu Việt
Nam nên có thể sản xuất hoa tươi quanh năm. Đài Loan chú trọng đầu tư
nhiều vào nuôi trồng Phalaenopsis và chọn tạo nhiều giống mới, hiện nay đã
tạo ra được một số giống lan quí có khả năng cắt hoa và trồng trong chậu
(Segerback, LB,1983) [38].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
Singapore: Nghề trồng hoa lan xuất khẩu trên qui mô lớn bắt đầu từ năm
1987. Nhà nước đã thấy rõ tiềm năng xuất khẩu loại hoa này trên thị trường
thế giới nên đã mở rộng trang trại nuôi trồng hoa lan. Năm 1992 xuất khẩu
hơn 18 triệu USD, năm 1993 xuất 3,8 triệu cành đến châu Âu và một lượng
khá lớn đến thị trường Nhật (Ngô Quang Vũ, 2002) [28].
Malaysia: Với sự quan tâm của chính phủ và sự phát triển nhanh chóng
của nghề trồng hoa, đến nay đã có đủ khả năng cạnh tranh với thế giới và chiếm
thị phần đáng kể ở châu Á. Công nghiệp lan cắt cành tăng khoảng 7 triệu USD
năm 1988 và 20 triệu USD năm 1994, thị trường xuất khẩu chủ yếu Singgapo,
Nhật, úc, Đài Loan, Hồng Công và Hàn Quốc (Ngô Quang Vũ, 2002) [28].

Ấn Độ: Để phục vụ việc xuất khẩu hoa, Ấn Độ đã đưa tiến bộ kỹ thuật
cấy mô vào nghề trồng hoa lan để sản xuất mỗi năm 10 triệu cây lan các loại.
Mặt khác Ấn Độ được xem là một nước có nhiều giống lan nguyên thuỷ
khoảng 140 giống với hơn 1.300 loài, mặc dù bị khai thác triệt để trước đây,
nhưng tới nay Nhà nước đã hình thành các khu bảo tồn bảo vệ các loài lan
quý để phục vụ cho ngành trồng lan thương mại rất tốt.
Hà Lan: Đã đầu tư 20 triệu USD vào Ấn Độ để lắp đặt các thiết bị máy
móc … tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hoa.
Nhật Bản: Đã đầu tư 6,6 triệu USD cho Thái Lan để mở rộng cơ sở sản
xuất với công suất 10 triệu cây hoa lan mỗi năm và hiện nay, Nhật cũng là
khách hàng lớn nhất của Singgapo với khả năng tiêu thụ 60% số cây lan của
nước này (Phan Thúc Huân, 1989) [13].
Sản xuất hoa của thế giới sẽ tiếp tục phát triển mạnh ở các nước châu Á,
châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Hiện nay một số loại hoa đang được ưa chuộng
trên thị trường thế giới đặc biệt ở Nhật, Đức, Pháp, Mỹ…là hoa hồng, cẩm
chướng, hoa lan, lay ơn, cúc, đồng tiền, loa kèn…
1.3.2. Tình hình sản xuất lan ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm

Số hóa bởi trung tâm học liệu

17
cho nên chủng loại lan rừng rất phong phú, theo thống kê có khoảng 1.000
chủng loại và nhiều loài lan lai du nhập vào nhưng thống kê chưa đầy đủ.
Nhìn chung sản xuất lan ở Việt Nam mới chỉ phát triển mạnh mẽ ở các
tỉnh phía Nam, đặc biệt là ở Đà Lạt và thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 8/2004
Lâm Đồng đã thành lập Hiệp hội hoa lan với tên gọi giao dịch là Dalat orchid
Association với mục đích là tập hợp những người yêu mến và có kinh nghiệm
trồng lan tiến tới phát triển nhân rộng, sản xuất theo hướng hàng hoá. Năm
2010 sản lượng hoa của Đà Lạt đạt 1,5 tỷ cành.

Thành phố Hồ Chí Minh với khí hậu ấm áp quanh năm, là trung tâm văn
hoá kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật của miền Nam có một tiềm năng lớn
về nuôi trồng và kinh doanh hoa lan. Vào năm 1986, lần đầu tiên một quy
trình nhân giống, nuôi trồng lan Dendrobium cấy mô từ lan con đến nở hoa
đã được hãng Hàng không Sân bay Tân Sơn Nhất kết hợp với vườn lan T78
thử nghiệm thành công (Chí Thiện, 2004) [21].
Theo số liệu điều tra bước đầu tính đến năm 1986 trong Thành phố có
khoảng 15 gia đình có vườn lan với số lượng từ 1.000 - 7.000 chậu. Đến năm
1987 ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có vườn Quốc doanh và tư nhân: vườn lan
T78, vườn lan Hàng không dân dụng. Kể từ năm 1980, năm nào thành phố
cũng tổ chức hội Hoa xuân. Hội Hoa xuân là nơi hội tụ những tác phẩm hoa
cảnh đặc sắc, độc đáo nhất của các chủ vườn. Qua các hội Hoa xuân, nhận
thấy sản phẩm hoa lan ngày càng phong phú đa dạng chứng tỏ kỹ thuật nuôi
trồng nâng cao, các nhà vườn ngày càng tiếp cận với công nghệ tiên tiến như
mái che, giàn tưới phun tự động… Năm 2010 Thành phố Hồ Chí Minh dự
kiến trồng 200 ha hoa.
Ở Hà Nội, mười năm gần đây, khi đời sống người dân Thủ đô nâng cao,
nhu cầu thưởng thức hoa lan tăng, nhiều khi cung không đủ cầu, phong trào
nuôi trồng lan tự phát lan rộng cả đến các vùng phụ cận khiến các nhà khoa
học phải vào cuộc, đi sâu nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh hoa lan.

×