Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.06 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài số 11
Đề tài số 11
:
:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh
STT: 02
Nhóm: 01
Lớp: Cao học Đêm 1 - K20
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
























MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5
1. Lí do chọn đề tài 5
2.Mục tiêu nghiên cứu 5
3.Phương pháp nghiên cứu 6
4.Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6
5.Cấu trúc nghiên cứu 6
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 7
1.Khái quát triết học Phương Đông cổ đại 7
2.Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Ấn Độ Cổ 8
3.Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Trung Quốc Cổ 15
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 21
1.Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo đức, con người 21
2.Hai nền triết học đều có sự đan xen yếu tố duy vật và duy tâm không rõ ràng 23
Chương 3: Sự khác biệt giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 25
1.Tư tưởng bản thể luận 25
2.Nhận thức luận 27
3.Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 29
KẾT LUẬN 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về
những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử Triết học đã trãi
qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao như giai
đoạn triết học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn nhưng cũng có lúc biến thành một
môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi
lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song
song giữa hai nền Triết học phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự
nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác
nhau.
Nói đến triết học phương Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại. Đây là hai trong số những chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu
đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học. Triết học
Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại đều có chung đặc điểm là phân tích
các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên do đặc điểm kinh tế - chính trị, xã
hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng có những đặc trưng khác nhau.
Xuất phát từ việc phân tích nêu trên mà người viết chọn đề tài “SỰ TƯƠNG
ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
TRUNG QUÔC CỔ ĐẠI”. Hy vọng đề tài này sẽ góp một nhỏ vào cơ sở lý luận
nhằm khái quát nên những nét tiêu biểu nhất của một nền triết học Phương Đông
mang đậm dấu ấn của thời cuộc.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Để tài này đặt ra các mục tiêu cần nghiên cứu sau:
• Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại
• Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại
3. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau.

a) Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận sự việc theo sự vận động và phát
triển của nó.
b) Thu thập dữ liệu:
– Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo trình,
báo, đài, internet.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền Triết học Phương Đông,
chủ yếu là Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ yếu là học
viên đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học này để có sự hiểu
biết đúng đắn và sâu sắc. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí
luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực công tác chuyên môn của
chính mình.
5. Cấu trúc nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và
Trung Quốc cổ đại
  
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ đại
Lịch sử triết học Phương Đông nỗi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai
thời kỳ chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời
kỳ cổ điển (còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến
thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng

nội", đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói:
sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết
học ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết
triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều
duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ,
Thương, Chu). Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá
trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho
gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và
đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng
của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung
Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc
về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn
có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất
duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới
thế giới quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà cả những
nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Ấn Độ Cổ
a) Điều kiện ra đời
• Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán
đảo Nam Á có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao
gồm cả nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng;

vừa có sông ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa
có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có
nắng cháy, nóng bức
• Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện
và dân cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ - Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ
văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và
thời kỳ các vương triều lệ thuộc. Từ trong nền văn minh sông Ấn của người
bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế kỷ XVII
trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên sông Ấn…) đã làm cho nền văn minh
này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công nguyên,các bộ lạc du mục
Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định cư và tiến hành quá
trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa. Kinh tế tiêu
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 8
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự cung, tự cấp, lấy
gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng vững chắc cho các
công xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã nông thôn đã hình thành
bốn đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với Tôn giáo
thống trị nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt của
đời sống xã hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được
giải thoát. Sư phân biệt về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề
nghiệp,v.v… đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội nhưng bị kìm
giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước –tôn giáo. Xã hội phát triển một cách
chậm chạp và nặng nề.
• Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên
cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy
được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện
tượng nhật thực, nguyệt thực ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số

thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, lượng giác, phép khai căn, giải
phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh
bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời văn
hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm xuất hiện; Nghệ thuật tạo hình
như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung điện, đền chùa, tháp,
lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn như đạo Bàlamôn – Hinđu,
đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn giáo. Tôn giáo và Triết học
xen kẽ vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu
sắc Tôn giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu
tìm hiểu sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại”
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 9
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
như các tôn giáo phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế. Hầu hết các hệ
thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân bản, đó là vấn đề
nhân sinh quan và con đường giải thoát. Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật
và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh các vấn đề: Bản nguyên vũ trụ + Con người,
linh hồn, đạo đức.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Ấn Độ cổ đại
Người ta phân chia quá trình thành 2 thời kỳ chính
- Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các biểu
tượng huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các tác
phẩm chủ yếu là kinh Veđa và Upanisal
+ Vêđa có nghĩa là hiểu biết, tri thức cao cả, thiêng liêng, nó cũng được dùng
với nghĩa là “Kinh thánh”.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200

bài kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn
giáo Véđa. Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng
buộc của nghi lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
-Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ 7
TCN đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát
triển cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã
nông thôn, cùng sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới
quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong đời
sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa
dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính chất triết học,
vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 10
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo
lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã hình
thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học
thành hai phái chính:
+ Hệ thống chính thống bảo vệ cho chế độ đẳng cấp xã hội thừa nhận uy thế
của kinh Vêđa (có 6 trường phái): 1) Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4)
Mimamsa, 5) Yoga và 6) Védanta.
+ Phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh
Véđa, đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô
thần, duy vật trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông ấn và trường
phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc
Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina.
d) Nội dung cơ bản TH Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế

giới quan và Nhân sinh quan.
1/- Thế giới quan: (Thế giới quan: Quan niệm của con người về thế giới:
tự nhiên và xã hội). Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô
thường, nhân duyên.
Vô tạo giả:
- Nghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân, có
quả, không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không thừa nhận đấng sáng tạo)
- Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả. Chúng
biến đổi vô cùng vô tận.
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo từ các
yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau trong một
thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa, tan hợp,
hợp tan. Do đó vạn vật chỉ là dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có gì là
thường định. Phật giáo quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời chỉ
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 11
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát rồi
lại chuyển hóa thành cái khác.
Thủy + Hỏa + Thổ + Phong + Không/ 5 yếu tố vật chất (Sắc) + Thức /
1 yếu tố tinh thần (Danh)
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là thường
định (ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên
biến đổi theo một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại,
phát triển trong một thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự vật,
hiện tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện.
Duyên là điều kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế không có
nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.

2/- Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)
1. Thuyết luân hồi, nghiệp báo: Luân hồi: Bánh xe quay tròn. Lý giải:
Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh hồn bất tử, còn sống đầu thai
sang kiếp khác. Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời
hiện hữu của mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do
kiếp trước gây ra. Đạo Phật cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này,
đời này thì đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời sau ác báo: Thiện giả 
Thiện báo; Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp
này là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh
phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo
lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc,
công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã
hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 12
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
2. Thuyết tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của
Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý
Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì
sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo cách
phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường
chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,

xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy
yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
5, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
6, Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành,
thức.
b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ,
gồm ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của
mọi sự khổ. Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên để thấy
được nguồn gốc của sự vật trong thế gian gồm:
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 13
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh - sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9.
Thủ 10. Hữu 11. Sinh 12. Lão - tử
c. Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống
thế gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Thường là thường còn,
không biến đổi. Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại. Ngã là
chân ngã, chân thực, thường còn. Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô
nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an

lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
d. Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả
giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết Bát
chính đạo, gồm có:
1. Chính ngữ: là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tinh tấn: tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến những điều hay lẽ phải.
6. Chính định: giữ tâm vắng lặng, tập trung vào một điều chính đáng.
7. Chính kiến: tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung cho
nhau.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 14
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
1. Giới học: dùng để khắc phục tham gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính
mệnh.
2. Định học: dùng để khắc phục sân gồm chính tinh tấn, chính niệm, chính
định.
3. Tuệ học: dùng để khắc phục si gồm chính kiến, chính tư duy.
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Trung Quốc Cổ
a) Điều kiện ra đời:
1. Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là
Hán. Cờ có 5 ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi sao
lớn tượng trưng cho dân tộc Hán

2. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương Tây
– Trong lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 
cách mạng tư sản.
Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ
3. Chiến tranh diễn ra liên miên
Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh. Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh
thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất thì thây chất đầy đồng”.
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
1. Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu
cho các vương triều đình , có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời như
Khổng Tử.
2. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 15
5
Hán nho
3 TCN
Chiến
quốc
8 TCN
Chiếm hữu nô lệ
21 TCN
Chiếm hữu nô lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển
Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử
Xuân
thu
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học

Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
“Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua
tiếng”
3. Vấn đề cơ bản của triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra
xung quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương,
ngũ hành
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống
chết, giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục
(quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học cũng
không biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
4. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy vật,
duy tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Trung Quốc cổ đại
Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả
đưa ra học thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc
bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm học thuyết được ra đời, cho
nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong hàng trăm học thuyết
đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia,
Danh gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên vai trò
thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng Hán, Ngụy - Tấn, Tùy – Đường trở nên
thiên hạ thống nhất, dựa vào năng lực chính trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống
nhất, dựa vào quyền lực chính trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư
tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật. Năm 136 Hán Vũ Đế

chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia, độc
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 16
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho
gia phải hấp thụ các tư tưởng của các trường phái khác. Kinh học do Nho làm
chủ đã xuất hiện. Sau giai đoạn thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng thịnh
của đạo giáo, với sự xuất hiện của Huyền học do Đạo làm chủ. Rồi tiếp theo là
sự vươn lên của Phật học do Phật giáo làm chủ (Đường). Sự phát triển mạnh tư
tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung Hoa sáng tạo nên một nền
văn hóa huy hoàng, xán lạn trong thời kỳ cực thịnh của xã hội phong kiến
Trung Quốc phải trải qua quá trình phát triển gần một vòng, đến thời Tống.
Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao. Hình thức biểu hiện của nó
là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng đời Thanh như
Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến hành
tổng kết một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vô
(động và tỉnh), tâm và vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học
Trung Hoa cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các
trường phái.
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
Học thuyết nho giáo: Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ
Xuân thu là thời kỳ mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội.
Ông coi hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự
xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Đến thời chiến quốc, do
bất đồng về bản tính con người mà nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có
phái của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất. Mạnh tử có nhiều đóng góp
đáng kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông đã khép lại một giai
đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng – Mạnh còn
được gọi là nho giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào tạo

cho được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị; Quân
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 17
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu thân. Có ba
tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải
biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí –
dũng thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là
ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi -
thư - lễ – nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ
học thi, lập thân được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luận
ngữ). Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành động cho việc cai trị là 2
phương châm:
1. Phương châm thứ nhất là Nhân trị. Nhân là tình người; Nhân trị là cai trị
bằng tình người, coi người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là Chính danh. Chính danh là sự vật phải ứng với
tên gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong
cai trị là phải làm sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luận
ngữ). “Nếu danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì
tức việc chẳng thành” (Luận ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học
thuyết Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được người sáng lập tóm gọn trong 9
chữ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng nằm trong chữ 2
cai trị mà thôi.

Học thuyết đạo gia
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 18
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Đạo gia được Lão tử sáng lập ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm vào
thời Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tập trung lại trong bộ Đạo
đức kinh do Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và một số người
theo Đạo gia viết. Trong đó Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên
vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để
chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong
thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của
đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với
nhau đó là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Đạo gia xem xét đạo không
chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn
tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất –
vận hành của vạn vật – đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang
tính khách quan,vừa mang tính phổ biến; vì vậy trong thế giới, không đâu
không có đạo, không ai không theo đạo. Quan niệm về đạo, đức của trường
phái Đạo gia thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi
giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới.
Trong quan niệm về nhân sinh và chính trị – xã hội, Lão Tử đã xây dựng
thuyết vô vi tức là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hội lý
tưởng đối với ông là những nước nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù
cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương cạn,cùng nghe tiếng chó
sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già đến chết họ cũng không bao giờ
qua lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều do
đạo sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều
là một. Trang Tử đã đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử
thành chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện. Ông cho rằng đúng sai, trên

dưới, sang hèn, bần tiện đều như nhau; coi đời như một cuộc giải trí, một cõi
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 19
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
mộng mơ mà khi tỉnh dậy không biết ta hóa bướm hay bướm hóa ta; chủ
trương sống thuận theo thời vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả cho nên
không khen chê phải trái, tốt xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo tồn sinh mạng.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh
quan khác nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân. Cả hai học
thuyết của Khổng Tử và Lão Tử đều không được xã hội đương thời chú ý.
Song cả hai đều là những trường phái có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã
hội sau này.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 20
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa Triết Học Ấn độ cổ
đại và Trung Quốc cổ đại
  
1. Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề
đạo đức, con người
Triết học Ấn Độ tập trung vào việc lý giải vấn đề then chốt nhất đó là vấn đề
bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ con người và con đường,
cách thức giải thoát cho con người khỏi bể khổ của cuộc đời. Mục đích của
triết học Ấn Độ cổ đại là giải thoát con người. Đạt tới sự giải thoát, con người
sẽ đạt tới sự giác ngộ, nhận ra chân bản của mình, thực tướng của vạn vật,
xóa bỏ, vô minh, diệt mọi dục vọng, vượt ra khỏi nghiệp báo, luân hồi, hòa
nhập vào bản thể tuyệt đối Brahman hay Niết bàn.Ví dụ như vấn đề tôn giáo
của Ấn Độ có đề cập đến thuyết luân hồi và nghiệp báo như sau: Luân hồi:
Bánh xe quay tròn và lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh
hồn bất tử, còn sống đầu thai sang kiếp khác. Nghiệp báo: là cái do hành động

của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu của mỗi người đều phải gánh chịu hậu
quả của những hành vi do kiếp trước gây ra. Đạo Phật cho rằng một người tu
nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời
sau ác báo: Thiện giả và Thiện báo; Ác giả và Ác báo. Cuộc đời con người
trong vòng số kiếp kiếp này là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý.
Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà
bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 21
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn
bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã
hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
Về triết học Trung Quốc khi đặt vấn đề nguồn gốc của con người, thì
Khổng Tử và Mặc Tử đều cho rằng trời sinh ra con người và muôn vật. Còn
Lão Tử khác với Khổng Tử và Mặc Tử ở chỗ ông cho rằng trước khi có trời đã
có Đạo. Trời, đất, người, vạn vật đều do đạo sinh ra.Trang Tử người kế thừa
thuyết Lão Tử cho rằng ở mỗi vật đều có cái đức tự sinh tự hóa ở bên trong.Khi
xác định vị trí và vai trò của con người trong mối quan hệ với trời, đất, con
người và vạn vật trong vũ trụ, Lão Tử cho rằng trong vũ trụ có bốn cái lớn: Đạo
lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn.Đối với Nho giáo, con người được đặt
lên vị trí rất cao. Con người do trời sinh ra nhưng sau đó con người cùng với
trời, đất là ba ngôi tiêu biểu cho tất cả mọi vật trong tất cả mọi vật trong thế
giới vật chất và tinh thần.
Khi bàn tới quan hệ giữa trời với người, các nhà duy tâm đi sâu phát
triển tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử, cho rằng có mệnh trời và mệnh trời
chi phối cuộc sống xã hội của con người, cuộc đời của mỗi con người. Mạnh
Tử cho rằng trời an bài địa vị xã hội của con người. Về sau, thời nhà Hán,

Đổng Trọng Thư nêu lên thuyết “thiên nhân cảm ứng” cho rằng trời người
thông cảm với nhau, trời là chủ tể của việc người. Các triết gia tiến bộ cho rằng
trời là gốc của con người họ coi trời với người là một, do đó đưa ra chủ trương
“thiên nhân hợp nhất”. Tuy nhiên trong quan hệ với trời, con người phải theo
trời, con người phải lấy phép tắc của làm mẫu mực, coi thiên đạo là nhân đạo,
người đời ăn ở phải hợp đạo trời. Lão Tử và Trang Tử cho rằng Đạo là tự
nhiên, Đạo sinh ra vạn vật trong đó có con người. Do đó ông khuyên con người
sống và hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không can thiệp, không làm gì
trái với bản tính tự nhiên. Trong kinh dịch đã nói “Trời, đất, muộn vật là nhất
thể”. Chính từ tính “nhất thể” này con người có thể suy từ bản thân mà tìm hiểu
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 22
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
được trời đất và muôn vật. Đối lập với quan điểm “thiên nhân hợp nhất” là
quan điểm “thiên nhân bất tương quan”. Đại biểu tiêu biểu của quan niệm này
là Tuân Tử. Ông cho rằng đạo trời không quan hệ gì với đạo người. Trị, loạn
không phải tại trời, đất. Trời không thể làm hại được người nếu ta luôn chăm lo
phát triển nông nghiệp, biết chi dung có tiết lộ.
Khi nói tới bản tính con người, Khổng Tử cho rằng “tính mỗi con người
đều gần nhau”. Từ quan điểm này, người ta suy luận tranh cãi đưa ra nhiều
thuyết khác nhau. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện. Tuân Tử cho
rằng bản tính con người không thiện không ác. Về sau, vào thời nhà Hán, nhà
triết học Vương Sung cũng quan niệm bản tính con người có thiện, có ác. Ông
cho rằng tính thiện có thể biến thành tính ác, tính ác co thể biến thành tính
thiện.
2. Hai nền triết học đều có sự đan xen yếu tố duy
vật và duy tâm không rõ ràng
Trong các trào lưu, học thuyết của triết học phương Đông, thường đan
xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt.

Trong triết học Ấn Độ thường mang màu sắc của tôn giáo như phật giáo
đặc biệt là triết học phật giáo, tin vào sức mạnh siêu nhiên và thần thánh. Hoặc
trong kinh Vêđa và giáo lý đạo Bà La Môn tôn sùng các đấng thần linh. Bên
cạnh đó, các trường phái duy vật liên tục hoài nghi về các thần linh, chế nhạo
các tu sĩ, như Upanishad Chandogya so sánh hàng giáo phẩm chính thống thời
đó với một đàn chó con nọ cắn đuôi con kia thành một hàng dài và kính cẩn sủa
lên: “Phải, chúng tôi muốn ăn; Phải, chúng tôi muốn sống”. Còn Upanishad
Swasanved tuyên bố rằng không có thần, không có thiên đường, không có địa
ngục, không có luân hồi. Các kinh Vêđa, Upanishad chỉ là tác phẩm của bọn
điên khùng tự cao tự đại, dân chúng bị các lời đẹp đẽ, hảo huyền mê hoặc mà
thờ các vị thần lạy các ngôi đền.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 23
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Còn trong triết học Trung Quốc, Nho giáo về cơ bản là duy tâm nhưng vẫn còn
những luận điểm duy vật, nhất là thời kỳ đầu. Lão giáo, Mặc gia, Âm dương
gia… bên cạnh những luận điểm duy vật lại có nhiều luận điểm duy tâm.
Khổng Tử rất tin ở trời khuyên mọi người phục tùng ý chí của trời và thường
dạy học trò: “cũng như dòng nước chảy mọi vật đều trôi đi, không có gì ngưng
nghỉ” (Luận Ngữ, Tử Hảo, 1), hoặc “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành,
vạn vật cứ sinh hóa mãi” (Luận Ngữ, Dương Hóa, 1), hoặc thuyết “Sống chết
có mạng, giàu sang tại trời” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 5), hoặc công nhận có quỷ
thần (Luận Ngữ, Thuật Nhi, 20). Trường phái Mặc gia coi tín ngưỡng tôn giáo
mang tính chất thỏa hiệp thể hiện bản chất nhu nhược của tầng lớp tiểu tư hữu
bị phá sản dưới chế độ chiếm hữu nô lệ đang suy tàn.Phật giáo, tuy là một tôn
giáo nhưng lại chứa đựng nhiều yếu tố duy vật, biện chứng… Vì vậy, sự phân
chia thành hai trận tuyến giữa một bên là chủ nghĩa duy tâm trong triết học
phương Đông không được đậm nét như ở triết học phương Tây. Đặc điểm này
phản ánh tính thiếu triệt để, thiếu nhất quán của triết học phương Đông về mặt
thế giới quan.

SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 24
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết Học
Ấn Độ cổ đại và Triết Học Trung Quốc cổ đại
Chương 3: Sự khác biệt giữa Triết Học Ấn độ cổ đại
và Trung Quốc cổ đại
  
1. Tư tưởng bản thể luận
Trong triết học Ấn Độ, có bản thể luận thần thoại tôn giáo. Cụ thể hơn,
để giải thích các hiện tượng kì bí trong tự nhiên và xã hội, người Ấn Độ đã tạo
nên thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên. Đầu tiên đó là Trời, Đất, mặt trời,
mặt trăng, gió, lửa, ánh sáng…tượng trung cho các sức mạnh của các lực
lượng, sự vật tự nhiên. Về sau, người Ấn Độ lại sáng tạo nên những vị thần để
lí giải các hiện tượng xã hội, luân lý đạo đức như thần ác, thần thiện, thần công
lý. Họ lí giải tự nhiên qua các biểu tượng của thế giới thần linh hiện diện khắp
nơi. Họ gửi gắm tâm hồn mình, cuộc sống tự nhiên của mình vào các vị thần.
Vì vậy, bất kì cái gì đối với mình, với gia đình mình, họ đều cầu khấn. Họ cho
rằng tụng niệm thần linh là bổn phận và hạnh phúc của con người. Để rõ hơn,
các thần linh trong kinh Veda như là: Thần cai quản hạ giới được gọi là thần
lửa Agni, thần cai quản không trung là thần gió Vâyu, thần cai quản thiên giới
là thần mặt trời Surya. Sau này, quan niệm tự nhiên về các vị thần dần dần mờ
nhạt, thay vào đó là những nguyên lý trừu tượng duy nhất tối cao được coi là
nguồn gốc vũ trụ và đời sống con người. Đó là thần sáng tạo tối cao” Brahman
và một tinh thần tối cao Brahman. Tư tưởng này biểu hiện giáo lý đạo
Balamon, trong triết lý Upanisad. Tên của các vị thần này là, thần hủy diệt
Shiva và thần bảo vệ Vishnu.
Nói đến bản thể luận của triết học Ấn Độ, còn đề cập đến tư tưởng cơ
bản của phật giáo về “nhất thiết duy tâm tạo”, vô thường vô ngã và luật nhân
quả.
SVTH: Lê Xuân Quỳnh Anh 25

×