Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.35 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 3:


“SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA”



SVTH: TRƯƠNG THANH HẢI
STT: 22
NHÓM: 2
LỚP: Cao học Đêm 1_K20
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA



Hồ Chí Minh, 5/2011

MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1. KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 1
1.1 Khái quát Nho gia 1
1.1.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 1


1.1.2 Các quan điểm của Nho gia. 3
1.2 Khái quát Pháp gia 5
1.2.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 5
1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia 7
Chương 2. SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG & KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA –
PHÁP GIA
2.1 Sự tương đồng 10
2.2 Sự khác biệt 12
2.2.1 Tư tưởng biện chứng 12
2.2.2 Điều hành theo quy luật 13
2.2.3 Về trị quốc 14
2.2.4 Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người 18
Chương 3. KẾT LUẬN 21
3.1 Tổng quát 21
3.2 Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN I. MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện
của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc
nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung
Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát
triển rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm
nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những
thành tựu của triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học
Nho gia và Pháp gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có
giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…

Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói
chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm
chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một
trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước
cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu
về đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu
biết sâu sắc về hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách
vận dụng những tư tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội
đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!


Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 1

PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1.1 Khái quát Nho gia
1.1.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1.1.1 Lịch sử hình thành (
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công,
hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời
sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
1.1.1.1.1 Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm
có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về

sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông
chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo
nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư
tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho
gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn
Nho giáo mang tính tôn giáo.
1.1.1.1.2 Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 2

phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi
là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp trị".
1.1.1.1.3 Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận
ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các
tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di
.
Điểm khác
biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh"
(lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc
đào tạo quan lại và cai trị.
1.1.1.2 Đặc điểm của Nho gia

Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua,
quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người
thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những
người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người
thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện.
Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở
đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là
những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện
ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là
nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 3

con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới
nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
1.1.2 Các quan điểm của Nho gia (Giáo trình triết học – Dùng cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học
(2007),NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội).
1.1.2.1 Đường lối xây dựng đất nước
1.1.2.1.1 Điều kiện xây dựng đất nước
Khổng tử quan niệm rằng một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền
phải thực hiện được 3 việc lớn giúp cho xã hội ổn định: Thực túc, Binh cường và
Dân tín (ăn uống đầy đủ, quân đội mạnh, dân tin tưởng)
Trong ba điều kiện trên thì dân tín là quan trọng nhất, phải làm cho dân tin, “dân
vi bang bảo”: dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên
1.1.2.1.2 Dưỡng dân, giáo dân
Dưỡng dân: nuôi dân. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà cầm quyền là phải khéo

nuôi dân để dân quý, nước thịnh
Giáo dân: Dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, giáo hóa tốt nước sẽ yên. Giáo
dân được thực hiện bằng cách mở các trường dạy học. Dạy dân bằng lễ, nhạc,
trong đó lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên, nhạc để hòa nhập trên
dười, dạy con hiếu thảo với cha mẹ, ngoài ngoài kính nhường, thận trọng trong
cư xử.
Nhà cầm quyền có 2 cách để giáo hóa dân: tu dưỡng đạo đức cá nhân và đức trị
Tu dưỡng đạo đức cá nhân: làm gương, sửa mình để sửa người. Người trị dân
phải có đức thì dân mới theo. Người trên mà có đức thì cảm hóa được dân. Đức
trị: người trị dân phải có đức, trị dân bằng đức. Lấy đạo đức để răn dạy con người
và từ đó ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn
dắt dân chứ không dùng đến cưỡng chế trừng phạt
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 4

1.1.2.1.3 Đào tạo con người
Trong xã hội Nho gia, con người được đào tạo phải là người vừa có Đức, vừa có
Tài, với ba loại người chủ yếu như sau
Kẻ sỹ: học để làm quan, dùng thì làm, bỏ thì ở ẩn. Hạng 1: đi sứ 4 phương không
làm nhục mệnh vua; Hạng 2: chất phác, chính trực, thích làm điều nghĩa, biết xét
lời nói, quan sát nét mặt người khác mà hiểu tâm lý; Hạng 3: được họ hàng khen
là có hiếu
Đại trượng phu: vượt qua nhiều thử thách, vững vàng như cây tùng cây bách
Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, ân tình bất
năng du
Quân tử: mẫu người lý tưởng nhất: đạt được Nhân, trí dũng: có đức nhân để cảm
hóa mọi người, có tri thức để không bị lầm lẫn, có dũng để bảo vệ chân lý, lẽ
phải
1.1.2.2 Quan điểm về Đạo đức và giáo dục con người

1.1.2.2.1 Thuyết Nhân, Lễ, Chính danh
Nhân: là ái nhân, biết yêu thương người khác, không làm cho người khác những
gì mình không muốn họ làm cho mình. Muốn đạt được đức nhân thì phải khắc
kỷ: từ bỏ tính tham lam, ích kỷ, và phục lễ: hành động theo đạo lý, chân lý.
Người có nhân là người hoàn thiện, thực hiện đúng các chuẩn mực:
Trung: vua minh – tôi trung
Hiếu: kính yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà. Những yêu cầu để dạt
Hiếu là phải có con nối dõi, phải chăm sóc, kính trong bố mẹ
Nghĩa: thấy việc gì đáng làm phải làm, không hề mưu tính đến lợi ích cá nhân
Trí: sự minh mẫn sáng suốt, biến nhận thức đúng sai. Muốn có trí phải học,
không học thì dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu dốt làm biến chất
Dũng: là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo
vệ chân lý
Lễ: những nghi thức nhất định trong tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui
phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 5

Chính danh: phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy thì không
được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn: ngôn cũng phải chính, lời nói
đi đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên ngoài thì kính
cẩn, bên trong lại không
1.1.2.2.2 Ngũ luân
Theo đạo đức và luân lý của Nho giáo thì cáo đạo làm người thông thường trong
thiên hạ có năm bậc – ngũ luân – phản ánh 5 mối quan hệ phổ biến trong xã hội
Quân – Thần: quan hệ vua tôi, vua phải minh, thần phải trung; Phu – Tử: quan
hệ cha con, cha phải từ, con phải hiếu; Phu – phụ: quan hệ chồng vợ, chồng trọn
nghĩa, vợ trọn trinh; Huynh – đệ: quan hệ anh em, anh em như thể tay chân;
Bằng hữu: bạn bè, phải lấy tín thành mà đối đỗi nhau

1.2 Khái quát Pháp gia
1.2.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.2.1.1 Lịch sử hình thành
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và
chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia
là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước.
Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá
trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲) là một chính trị gia, nhà
quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685
TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà
thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó
là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để
giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 6

nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi
trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là
để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh,
Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là
thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.

Sang nửa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Thương
Ưởng( 商鞅 - khoảng 390 TCN-338 TCN) được vua Tần tin dùng áp dụng chính
sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị",
sử dụng các chính sách khuyến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu.
Thân Bất Hại ( 401-337 TCN) chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo

(370-290 TCN) chủ trương dùng thế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn
làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới
vì nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (韓非 - khoảng 280 - 233 TCN)
là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo
trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là
Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại
ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà
đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông
đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá
hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
1.2.1.2 Đặc điểm của Pháp gia
Nếu như Thận Đáo đề cao "Thế", Thân Bất Hại đề cao "Thuật", Thương Ưởng đề
cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba
yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không
thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó,
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 7

"Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là
công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức
để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi
tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế",
"Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong
một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư
tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm
trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân
bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.

1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia
1.2.2.1 Trị nước phải kết hợp các yếu tố

Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế
Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì điều
mình muốn dân làm, dân mau mắn làm ăn. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm
đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa
điều ác.
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 8

Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: Nguyên tắc 1: thiên thời,
địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc kỹ
càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi hành,
phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải công
bằng, phải mang tính phổ biến.
 Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương), tập
trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng
quân đội mạnh.
 Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải
quyết chiến tranh.
 Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu
người sai dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt
thì dân không loạn, quan lại xấu thì dân nổi loạn. Nhờ Thuật mà vua chọn
được người tài năng, trao đúng chức vụ, quyền hạn và loại được kẻ bất tài.
 Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào

thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực
hiện pháp luật.
1.2.2.2 Tư tưởng biện chứng
Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi
chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù
hợp. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế
thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực
lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 9

hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà
hành động cho phù hợp.
Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ
xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong
họ làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn
chặn không cho họ làm điều xấu














Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 10

Chương 2. SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT

GIỮA NHO GIA – PHÁP GIA
2.1 Sự tương đồng
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những
điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này
Đầu tiên có thể kể đến mục đích của hai trường phái Nho gia và pháp gia đều
mang tinh thần muốn xây dựng một xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu
mạnh. Có thể quan điểm khác nhau nhưng mong muốn và mục tiêu của cả hai
phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn loạn, ổn định và phát
triển quốc gia ngày một hùng cường.
Có thể tư tưởng hai phái Nho gia và Pháp gia có những nét khác nhau, nhưng
một số công cụ được sử dụng trong quá trình điều hành đất nước của những nhà
cầm quyền có những nét tương đồng. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước
chính là Thực túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển
nông nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để
xây dựng quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh
Cường, thì trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội
mạnh, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh.
Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một trong
hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con
người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để
thỏa mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên
của mình nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến

tranh. Còn theo Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết
học Pháp gia cũng có cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người”
là ác, đưa ra học thuyết cá nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại
người, tránh hại cầu lợi, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội
Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận dụng
sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 11

các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc
mà còn lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát
triển bền bỉ, được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay
Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định
và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa
với việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu,
người nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là
một tất yếu mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không
được nằm ngoài vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố
cấu thành xã hội.
Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết
cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã
đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Nho gia sử dụng phương cách
Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng pháp trị để giải quyết thực
tiễn xã hội.
Mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát triển rực rỡ và
hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế tắc. Nho
giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt khe và bảo thủ. Sang
thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống Chính
vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã

hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của
thế giới. Đối với Pháp gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc
của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương
dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và
thống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt
nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với
xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, sau khi đã thống nhất được
đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành pháp trị mà dẫn đến mất nước.
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 12

2.2 Sự khác biệt
2.2.1 Tư tưởng biện chứng
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia:
điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho
xã hội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều
này
Pháp gia: quan điểm thời biến
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích
hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế
độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của
lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch
ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp
luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo
thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì
thiên hạ loạn
Nho gia: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên

trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người,
lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải
biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng
cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà
thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo
diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa
vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn
đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể
không cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 13

Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người một
khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang
thần phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do
trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù
hợp với cái Danh.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,
Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc
chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực
tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm
thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể
đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ

thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên
vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để
đùa chơi chứ không dùng để trị nước” Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 327.
2.2.2 Điều hành theo quy luật
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét
rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn,
bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa
trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc
phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành,
biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”
Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 561.
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 14

Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có
pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới
ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh,
làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước
nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi
hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật
yếu thì nước yếu” Phan Ngọc. Sđd., tr. 55, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước
bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang
hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng
không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu).
Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận
pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”,
“thuật” với “thế”.

Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ
cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(10) Phan Ngọc. Sđd.,
tr. 478-479. Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là
“mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn
chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được
ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm
chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các
điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ
đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để
vua cai trị thần dân.
2.2.3 Về trị quốc
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp,
hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân
tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 15

giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận”
là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của
người ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân
minh, “Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ,
Nhan Uyên, 11). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước,
trước hết phải thực hiện “chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói
sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho
nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng
với danh phận, thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3).
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà
dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị

dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ
và thực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông,
kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong
công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức
dân hợp lý… Để xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn
nắn nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu
học văn và học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học
trò phải có tinh thần khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học
tập… Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân
(Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là
đất nước và lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng), nhân chính và thống nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận
thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất hưng
thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào
đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh để
xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 16

bao gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Có thể khái quát như sau:
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là
những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt
là 3 quan hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính
danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ
ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu –
Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là
do 3 quan hệ này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra

vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng
chẳng ra chồng. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng
thì phải chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia
nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh.

Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo), "Thuật"
(Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử là
người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là
ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện
bằng luật lệ. Pháp được hiểu là qui định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi
người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh
phận, trách nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai
khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động
trái pháp; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh. Địa vị, thế lực, quyền
uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi, thế quan
trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được
pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau. Còn "Thuật" là phương
pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Là mưu lược khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 17

như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Tất cả
đều là công cụ của bậc đế vương.
Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay
phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật,
phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp" Doãn Chính (chủ biên), Đại
cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 346. Nội

dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai
đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Song song với việc "thưởng hậu,
phạt nặng" Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì
luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện
"Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi
đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân
nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù" Doãn Chính (chủ
biên), Sđd, tr. 347. Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu
chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm
cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy,
"Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng
thi hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy
của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến
mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa
vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự
được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị
nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr.
348. "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân,
của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Để nâng cao thế của nhà vua, pháp
gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 18

vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái
quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai

cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc
làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm" Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học
phương Đông, Tập I, NXB TPHCM,1991 tr. 105.
Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật
được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của
"Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những
quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai
lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp
và chế độ chuyên chế" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr. 349. "Thuật" còn thể hiện
trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng
người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". "Thuật" phải nắm được cái
cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua
nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì
trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận,
chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để
chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời
muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công
xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc thì phạt" Doãn Chính
(chủ biên), Sđd, tr. 350.
2.2.4 Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người
2.2.4.1 Về quan niệm đạo đức con người
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về đạo đức con
người. Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ thống các phạm trù như : nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 19


Nho gia. Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người. Theo
Khổng Tử, nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân
đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải
làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay
không (TS. Bùi Văn Mưa – chủ biên (2010), Triết học – Phần I Đại cương về lịch
sử triết học, Tiểu ban triết học – Khoa lý luận chính trị - ĐH Kinh tế TP.HCM,
tr.59&60). Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước,
là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố
và duy trì trật tự xã hội. (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.64).
Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề đạo đức
con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định bản
tính con người là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu thì
nhiều. Vì vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt
làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm căn
bản trong việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố rộng rãi
trong cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh
đến biện pháp trừng phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ
nhận tình cảm, đạo đức con người. …nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng
phát triển của văn minh nhân loại (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.75&76).
2.2.4.2 Về xây dựng con người
Nho gia quan niệm xây dựng con người theo chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu
chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu thân
phải đạt đạo (là con đường phải theo, đó còn là quan hệ mà con người phải biết
giữ để biết ứng xử trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức,
phải thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết
thi, thư, lễ, nhạc (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.63). Lấy tu thân làm gốc nhưng
người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 20

hiệu quả, người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị, đó là cai trị bằng tình
người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân mình. Không những thế, người
quân tử còn phải chính danh (vua cho ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con,
chồng ra chồng, vợ ra vợ).Với mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng,
Khổng Tử và các học trò của ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người
như sau:
+ Vua : mang phẩm chất của người cai trị, phải là người quân tử, không thể là
dân võ biền mà phải là người có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực
hành đạo đức, khi đó trên dưới sẽ hòa mục.
+Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm cho
cả nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự kỷ cương, đời
sống vật chất đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ được giáo hóa.
Quan điểm của Pháp gia trong việc xây dựng con người trong xã hội không như
Nho gia :
+ Vua : là người cai trị không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân, theo nghĩa
phải sáng suốt và am hiểu những nguyên tắc pháp trị, và chịu khép mình trong
những nguyên tắc đó. Người cai trị phải đặt ra hệ thống luật pháp một cách rõ
ràng, ban bố rộng rãi cho mọi người cùng biết để tuân theo.
+ Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và thực thi nghiêm chỉnh luật pháp đã định. Hàn
Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng Pháp như trời (nghiêm minh, không vị nể), dùng
Thuật như quỷ (linh động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu như Pháp được công bố
rộng rãi trong nhân dân, bắt buộc họ phải tuân theo thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ
đoạn của vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao
đúng chức vụ quyền hạn và loại được kẻ bất tài (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd,
tr.75&76).


Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 21

Chương 3. KẾT LUẬN
3.1 Tổng quát
Nho gia và Pháp gia là hai hệ thống tư tưởng bắt nguồn từ thời cổ đại Trung
Quốc, sau đó lan ra các nước trong khu vực, có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm
triết học phương Đông, là cơ sở lý luận để xây dựng nền tảng trị quốc dân sinh
Hai hệ tư tưởng cùng song song đồng hành và phát triển từ thời Cổ đại cho đến
lúc tự chúng không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mặc dù có những
quan điểm khác nhau rõ rệt như Pháp trị của Pháp gia và Đức trị của Nho gia về
mặt trị quốc, cộng với những mặt không đồng nhất về tư tưởng biện chứng và
giáo dục đạo đức, cả hai hệ tư tưởng thực chất lại có những điểm tương đồng, mà
phần cốt lõi chính là mục tiêu tồn tại là để hướng xã hội đến hoàn thiện, ổn định
và thái bình.
So sánh Nho gia và Pháp gia không hẳn đơn thuần chỉ là chỉ ra những điểm giống
nhau và khác nhau giữa hai trường phái mà còn từ đó tìm ra những tư tưởng có
thể vận dụng được trong quá trình xây dựng và phát triển của một vùng, một lãnh
thổ, hay một quốc gia. Ngoài ra, tư tưởng này còn có thể sử dụng trong một phạm
vi nhỏ hơn như một nhóm, một tập thể hay một tổ chức
Đối với các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Nho gia và
Pháp gia có tầm ảnh hưởng sâu rộng, lan truyền từ quốc gia này sang quốc gia
khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếp nối cho đến tận thời đại hội nhập quốc tế
ngày nay thì sự hòa hợp giữa tính nhu trong Nho gia như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa,
Trí, Tín, Dũng với sự cứng rắn trong Thuật dùng người, Thuật giao tế cư xử,
Thuật giải quyết bất đồng trong cuộc sống thì những quan niệm cốt rễ của Nho
gia và Pháp gia mãi trường tồn
3.2 Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nho giáo đã giữ vị trí độc tôn trong hệ tư tưởng chính thống của dân tộc ta
khoảng năm trăm năm. Nó đã có những ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm đến truyền

thông coi trọng đạo đức của dân tộc ta. Điều này được thể hiện rõ rệt trong tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống từ lao động sản xuất, chiến đấu, bảo vệ và xây dựng
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 22

đất nước, đến lối sống, nếp sống, phong tục tập quán, giáo dục, học tập và sáng
tác văn học nghệ thuật. Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống coi trọng đạo đức của
dân tộc ta và gắn chặt nó vào sự nghiệp cách mạng. Người đã coi đức là một
trong những yếu tố quan trọng của công tác lựa chọn và sử dụng nhân tài. Đức và
tài luôn gắn liền với nhau. Giữa tài và đức thì theo Hồ Chí Minh, đức là gốc là
nền tảng. “ Có tài phải có đức, có tài mà không có đức, tham ô, hủ hóa, có hại
cho nước”. “Có tài mà không có đức vi như một anh làm kinh tế, tài chính rất
giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”. “ Con người có đức mà không có tài ví như
ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho dân”. Từ đó người đã
xây dựng nên đạo đức cách mạng. Nó là vừa là vũ khí tinh thần để những chiến sĩ
cách mạng quả cảm vượt qua được đau đớn về thể xác khi bị kẻ thù giam giữ, tra
tấn. Trong thời bình, đạo đức cách mạng là kim chỉ nam để hướng cán bộ, đảng
viên không bị thoái hóa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có thể khái quát thành bốn nội
dung cơ bản là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu nước thương người, Cần
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó,
Trung với nước, hiếu với dân và cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là hai nội
dung được Người đề cập nhiều nhất trong các bài nói, bài viết của mình về đạo
đức cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân. Điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng theo
Hồ Chí Minh là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân,
trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên quyết làm đúng đường lối, chính
sách và Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ra sức phấn đấu để thực

hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân. Cơ sở của tư tưởng này
xuất phát từ quan điểm Trung – Hiếu của Nho gia. Trong Nho gia chữ “ Trung”
được hiểu là trung với vua, chữ “Hiếu” được hiểu có hiếu với cha mẹ, dòng tộc.
Hồ Chí Minh từ quan điểm này đã phát triển, nâng tầm và mở rộng phạm vi của

×