Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

PHÂN TÍCH SỰ KHÁC BIỆT ẢNH HƯỞNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.32 KB, 79 trang )

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Võ Thị Quý đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi thực hiện tốt luận văn này cũng như hoàn thiện các kiến thức chuyên môn của
tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đến các Thầy cô khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là Tiến sĩ Nguyễn Quang Thu đã giúp đỡ và
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt thòi gian tôi đã học tập tại trường
cũng như việc hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn Anh Đặng Xuân Cảnh - Tổng Giám đốc của
Công ty Kiểm toán DTL đã cho tôi lời khuyên bổ ích về các chuẩn mực kế toán Việt Nam
và chuẩn mực kế toán quốc tế, cảm ơn anh Lê Khánh Lâm - Phó Tổng Giám đốc Công ty
Kiểm toán DTL đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thời gian hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Quản trị kinh doanh và Phòng quản lý đào tạo sau
Đại học - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Gia tình đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả
NGUYỄN THỊ LIÊN HƯƠNG
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các phân
tích, số liệu và kết quả nêu ữong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả
NGUYỄN THỊ LIÊN HƯƠNG
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIÉT TẮT
International Accounting Standards Chuẩn mực kế
toán quốc tế
International Financial Reporting Standards Chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế
International Accounting Standard Committee ủy
Ban Chuẩn mực kế toán quốc tế
International Accounting Standard Board Hội đồng


Chuẩn mực kế toán quốc tế
Standing Advisory Committee Hội đồng cố vấn
chuẩn mực
Vietnamese Accounting Standard Chuẩn mực kế
toán Việt Nam
Công ty Cổ phẩn sữa Việt Nam
Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT
IAS:
IFRS:
IASC:
IASB:
SAC:
VAS:
VNM:
FPT:
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC PHỤ LỤC • • •
So sánh giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam
Tình hình sử dụng Chuẩn mực kế toán Quốc tế tại các quốc gia ừên thế giới
Trích Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của Công ty cổ phần sữa Việt Nam
Trích Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của Công ty cổ phần Phát triển Đầu
tư Công nghệ FPT
Bảng chuyển đổi bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp A
Phụ lục 1.
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4
Phụ lục 5
LỜI MỞ ĐÀU 1. Tính cấp thiết

của đề tài
Quá trình toàn cầu hóa cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường vốn
quốc tế đòi hỏi thông tin tài chính phải nâng cao chất lượng và phải so sánh được với
nhau; để so sánh được với nhau các thông tín tài chính phải được ghi nhận trên cùng hệ
thống chuẩn mực kế toán chung, là tiền đề để hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế
(IAS) được hình thành. Trên thực tế, các quốc gia có thể áp dụng các chuẩn mực kế
toán khác nhau để lập các báo cáo tài chính và các chuẩn mực kế toán có thể có sự
khác biệt. Sự khác biệt của hệ thống các chuẩn mực kế toán xuất phát từ sự khác nhau
về văn hóa, hệ thống pháp lý, chính trị, quá trình hình thành và phát triển của các hiệp
hội nghề nghiệp. Và các báo cáo tài chính của cùng một doanh nghiệp được lập trên
các hệ thống chuẩn mực khác nhau có thể có sự khác biệt.
Chuẩn mực kế toán quốc tế đang dần được áp dụng chung ữên hơn 100 quốc
gia trên thế giới và tại các quốc gia chưa áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế cũng
đang diễn ra quá trình hòa hợp giữa hệ thống chuẩn mực kế toán của quốc gia đó với
chuẩn mực kế toán quốc tế. Ví dụ điển hình, Mỹ đã ký hiệp ước Norwalk năm 2002
nhằm thúc đẩy quá trình hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và Hệ thống các
nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận của Mỹ (US GAAP - Generally Accepted
Accounting Principles); căn cứ vào hiệp ước này, ủy Ban chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ
chỉnh sửa một số điểm trong chuẩn mực kế toán quốc tế và đến năm 2011 Mỹ sẽ
chuyển qua sử dụng chuẩn mực kế toán quốc tế. Một ví dụ khác vào tháng 1 năm
2006, ủy Ban chuẩn mực kế toán Canada cũng đã thông qua kế hoạch 5 năm hội tụ
giữa Hệ thống các nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận của Canada (GAAP Canada)
với chuẩn mực kế toán quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây trên thế giới đã khẳng định rằng chuẩn mực kế toán
quốc tế là một chuẩn mực chuẩn các quốc gia cần sử dụng để tham chiếu và thực hiện.
Nghiên cứu của Mary E.Barth của Staníord Graduate School of Business, Wayne
R.Landsman của University of North Carolina at Chapel Hill - Accounting Area và
Mark H.Lang của University of North Carolina at Chapel Hill, ngày 1 tháng 9 năm
6
2007, đã tiến hành nghiên cứu trên 21 quốc gia ưên thế giới và nhận thấy khi sử dụng

chuẩn mực kế toán quốc tế, chất lượng kế toán đã được cải thiện hơn và đưa ra khẳng
định chuẩn mực kế toán quốc tế là một chuẩn mực kế toán gắn liền với chất lượng kế
toán cao.
Mingyi Hung và K.R.Subramabyam (2007), nghiên cứu ảnh hưởng của báo cáo
tài chính được lập trong giai đoạn từ 1998 đến 2002, chỉ ra rằng thông tin về tổng tài
sản và giá trị sổ sách của tài sản cũng như việc thay đổi của giá trị sổ sách và thu nhập
đáng tin cậy hơn khi áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế so với trường hợp áp dụng
chuẩn mực kế toán chung của Đức.
Có thể nói rằng, chuẩn mực kế toán quốc tế là hệ thống chuẩn mực chuẩn để
các quốc gia tham chiếu khi xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán của mình. Và có ba
cách tiếp cận phổ biến (1) chấp nhận chuẩn mực kế toán quốc tế là chuẩn mực của
quốc gia; (2) dựa ữên chuẩn mực kế toán quốc tế để hình thành chuẩn mực kế toán
quốc gia; (3) tự phát triển các chuẩn mực quốc gia và điều chỉnh dần khoảng cách với
chuẩn mực quốc tế.
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, với các chuẩn mực kế toán đầu tiên
được ban hành vào ngày 31/12/2000, việc xây dựng các chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS) dựa trên việc kế thừa và điều chỉnh các chuẩn mực kế toán quốc tế cho phù hợp
với đặc điểm và tình hình của Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng có điều chỉnh đó lại
làm cho các chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện nay có sự khác biệt so với các chuẩn
mực kế toán quốc tế.
Việc yêu cầu các thông tin ữên báo cáo tài chính phải trung thực, hợp lý và
đáng tin cậy là một yêu cầu chính đáng, dựa vào đó nhà đầu tư phân tích và đánh giá ra
quyết định đầu tư. Tuy nhiên, sự khác biệt trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam so
với chuẩn mực kế toán quốc tế có thể sẽ dẫn đến các khác biệt về các thông tin trong
báo cáo tài chính ảnh hưởng không chính xác đến quá trình phân tích và so sánh để ra
các quyết định của nhà đầu tư.
7
Với tình hình chung như vậy đề tài “Phân tích ảnh hưởng của sự khác biệt
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam TÓI chuẩn mực kế toán quốc tế đến quyết
định của nhà đầu tư” hy vọng sẽ cung cấp cho nhà đầu tư một cái nhìn toàn diện

hơn khi ra các quyết định đầu tư.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích sự khác biệt của một số khoản mục giữa hai hệ thống chuẩn mực kế
toán Việt Nam và quốc tế có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư;
Ví dụ minh họa và khuyến nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những khác biệt của một số khoản mục giữa hai hệ
thống chuẩn mực kế toán có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư;
Phạm vi nghiên cứu chỉ nghiên cứu ở các khác biệt của hệ thống hai chuẩn mực
ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư mà không đi sâu phân tích sự khác biệt của
từng chuẩn mực kế toán.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu và phương pháp chuyên gia.
Dữ liệu sử dụng: đa nguồn.
■ Các dữ liệu sơ cấp đã được thu thập thông qua việc phỏng vấn các chuyên
gia trong lĩnh vực kế toán tài chính.
■ Các dữ liệu thứ cấp đã được thu thập thông qua tìm hiểu các nghiên cứu về
chuẩn mực kế toán quốc tế, nghiên cứu sâu vào các chuẩn mực kế toán Việt
Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu tìm hiểu các
phân tích về sự khác biệt của chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán quốc
tế ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và các nghiên cứu về tình hình sử dụng
thông tin kế toán ưong đầu tư cũng được quan tâm xem xét.
8
■ Các dữ liệu về các thông tin tài chính được thu thập tại các Báo cáo tài
chính tại các Báo cáo thường niên đã được công bố. Riêng báo cáo tài chính
của Công ty A đã được sự cho phép của Giám đốc tài chính của công ty, vì
không phải là công ty niêm yết và theo yêu cầu của công ty nên sẽ không
nêu tên công ty trong nghiên cứu này.
■ Hầu hết các dữ liệu được thu thập từ internet, các trang web của chính phủ

và các trang web học thuật chẳng hạn như www.fpts.com.vn,
www.iasplus.com.
5. Kết cấu luận văn
Nội dung luận văn bao gồm:
Lời mở đầu.
Chương 1: Khái quát về lý thuyết ra quyết định đầu tư. Khái quát chung về hệ
thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế.
Chương 2: Phân tích sự khác biệt của một số khoản mục trong hệ thống chuẩn
mực kế toán Việt Nam so với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế có ảnh hưởng
đến quyết định của nhà đầu tư.
Chương 3: Minh họa sự khác biệt của một số khoản mục giữa hai hệ thống kế
toán trong báo cáo tài chính của một số doanh nghiệp Việt Nam và các khuyến
nghị đối với nhà đầu tư.
Kết luận.
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT VÈ QUYẾT ĐỊNH
ĐẦU Tư.
Nghiên cứu này sẽ hệ thống hóa các lý thuyết nền tảng có thể ảnh hưởng đến
quyết định của nhà đầu tư: lý thuyết ra quyết định nhằm tìm hiểu quá trình ra quyết
định của nhà đầu tư, nhà đầu tư sử dụng thông tin tài chính như thế nào, và lựa chọn
giải pháp tối ưu nhất để ra quyết định; các phương pháp phân tích nào được nhà đầu tư
sử dụng khi ra quyết định đầu tư.
9
1.1 Khái quát về lý thuyết ra quyết định
1.1.1 Định nghĩa về ra quyết định
Có nhiều định nghĩa về ra quyết định, ữong nghiên cứu này đề cập đến định
nghĩa của Robert Harris, 2008.
Việc ra quyết định chính là việc xác nhận và lựa chọn các vấn đề dựa trên giá trị
của vấn đề và sự yêu thích của người ra quyết định. Quá trình ra quyết định được ngụ ý
rằng có nhiều sự lựa chọn được cân nhắc và trong mỗi trường hợp như vậy chúng ta
không chỉ nhận dạng ra nhiều giải pháp thay thế nhau mà còn phải chọn ra giải pháp

đạt được đáp ứng được hai mục tiêu sau (1) có khả năng thành công hoặc hiệu quả nhất
và (2) đó là giải pháp đạt được mục tiêu, mong muốn, sở thích của chúng ta
Một định nghĩa khác của Robert Harris, 2008 nói rằng ra quyết định chính là
quá trình nhằm làm giảm đi một cách đáng kể các sự kiện không chắc chắn và các nghi
ngờ giữa các lựa chọn để cho phép chọn ra vấn đề chắc chắn nhất. Định nghĩa này
nhấn mạnh đến chức năng liên kết thông tin trong quá trình ra quyết định.
1.1.2 Quá trình ra quyết định
Nhìn chung, có sáu bước cơ bản trong quá tình ra quyết định:
1
0
Hình 1. Quá trình ra quyết định
Xác định vấn đề cần phải ra quyết định: câu hỏi đầu tiên khi ra quyết định là
cần phải biết chúng ta đang giải quyết vấn đề gì. Chúng ta thường hành động và bị chi
phối của những hiện tượng bề nổi mà quên đi cái gốc mà chúng ta cần phải giải quyết
là gì, để rồi đầu tư vào những hiện tượng bề nổi mà quên đi vấn đề cốt lõi hoặc đầu tư
vào những điểm không cần thiết dẫn đến lãng phí thời gian và công sức.
Xây dựng tiêu chí sơ bộ ra quyết định và giải quyết vấn đề: mọi quyết định
khi đưa ra đều phải có những tiêu chí rõ ràng để đạt được những quyết định hiệu quả,
tiêu chí càng rõ ràng bao nhiêu thì chúng ta càng có cơ hội ra quyết định chuẩn xác bấy
nhiêu. Các tiêu chí được lựa chọn phải căn cứ vào mục đích của Yấn đề và kết quả mà
chúng ta hướng tới. Nếu việc đưa ra quyết định không dựa trên các tiêu chí rõ ràng
hoặc dựa trên cảm tính của người quyết định sẽ dẫn đến các sai lầm.
Thu thập thông tin: trong bước này đòi hỏi người ra quyết định phải xác định
được các loại thông tin cần thu thập, xác định được nguồn thông tin có thể thu thập, đề
ra các phương pháp thu thập thông tin và các phương pháp xử lý thông tin và các thông
tin này phải phù hợp với các tiêu chí đưa ra.
1
1
Đánh giá và lựa chọn các giải pháp/phương án: căn cú vào các thông tin đã
thu thập được, các tiêu chí đã lựa chọn và các phương pháp phân tích cụ thể để đưa ra

các giải pháp/ phương án phù hợp có thể xảy ra.
Đánh giá các giải pháp/phương án: việc xác định chi phí bỏ ra và lợi ích thu
được của từng giải pháp/phương án đạt được sẽ cho phép người ra quyết định lựa chọn
được giải pháp tối ưu, giải pháp tối ưu là giải pháp mà chúng ta vẫn có thể đạt được
mục tiêu của mình mà vẫn đảm bảo các nguyên tắc nhưng vẫn có thể tiết kiệm được
các nguồn lực tốt nhất dựa trên kinh nghiệm và thực nghiệm của người đưa ra quyết
định.
Xác định môi trường ra quyết định và ra quyết định cuối cùng: sau khi
đánh giá các phương án và đề ra các phương án tối ưu nhất; người ra quyết định cần
xem xét môi trường để ra quyết định và đưa đến quyết định cuối cùng.
1.1.3 Các loại quyết định
Trong cuộc sống, có rất nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta phải đưa ra quyết định,
quyết định đầu tư cũng là một loại quyết định mà chúng ta cần phải thực hiện.
Các quyết định đầu tư thường được phân loại như sau:
■ Nếu quyết định đầu tư chủ yếu được phân loại theo thời gian đầu tư thì có
quyết định đầu tư ngắn hạn và quyết định đầu tư dài hạn (hay còn gọi là quyết
định đầu tư chiến lược),
■ Nếu phân loại theo khả năng và trình độ chuyên môn thì có quyết định
đầu tư chuyên nghiệp và quyết định đầu tư không chuyên nghiệp,
■ Nếu phân loại theo đối tượng ra quyết định thì có quyết định của nhà đầu
tư trong nước và quyết định của nhà đầu tư nước ngoài.
Mỗi loại hình quyết định đầu tư khác nhau sẽ có một chiến lược cụ thể để ra
quyết định ữong đầu tư khác nhau.
Đối với quyết định đầu tư ngắn hạn và không chuyên nghiệp thì thông thường
nhà đầu tư sẽ sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật, tài chính hành vi và kinh
1
2
nghiệm để ra các quyết định đầu tư của mình. Ngược lại các quyết định đầu tư dài hạn
thường sử dụng các phân tích cơ bản cho quá trình ra quyết định đầu tư. Quá trình phân
tích cơ bản sẽ tập trung vào việc phân tích các thông tin về nội tại của doanh nghiệp

nhằm xác định giá trị cơ bản của doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu này sẽ tập trung vào quá trình ra quyết định của các nhà đầu
tư dài hạn thông qua việc sử dụng phương pháp phân tích cơ bản trong đầu tư.
1.2 Khái quát chung về hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và hệ
thống chuẩn mực kế toán quốc tế (1AS)
1.2.1 Định nghĩa về kế toán và chuẩn mực kế toán
Kế toán là một hoạt động mang tính chuyên môn cao có chức năng cung cấp các
thông tin trung thực, hợp lý về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, giúp cho người sử dụng có thể đưa ra các quyết định. Kế toán phải làm cho
người sử dụng hiểu được, tin cậy và phải giúp so sánh được các thông tin tài chính.
Muốn vậy, cần phải có các quy định làm khuôn mẫu giúp đánh giá, ghi nhận và trình
bày thông tin tài chính, đó chính là những chuẩn mực kế toán.
Vậy chuẩn mực kế toán là những quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, nội
dung, phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản, chung nhất, làm cơ sở ghi chép kế toán
và lập Báo cáo tài chính nhằm đạt được sự đánh giá trung thực, hợp lý, khách quan về
thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2 Chuẩn mực kế toán quốc tế
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế là hệ thống chuẩn mực đề cập đến những
vấn đề mang tính nền tảng, khuôn mẫu, những nguyên tắc, phương pháp có tính chất
cơ bản được chấp thuận rộng rãi trên toàn thế giới.
Cơ quan đầu tiên xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế
chính là ủy Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (“IASC”). Đây là một tổ chức độc lập
thành lập vào năm 1973, bao gồm đại diện của 13 nước thành viên trực thuộc Liên
đoàn kế toán quốc tế (“IFAC”), đại diện của 03 tập đoàn kinh tế lớn và một số quan sát
1
3
viên độc lập đến từ ủy Ban Châu Âu, Trung Quốc, ủy Ban chứng khoán quốc tế
(IOSCO), ủy Ban chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ.
Đến năm 12/1999, IASC đã chỉ định ủy ban lựa chọn và thành lập Hội đồng
thành viên (“Trustees”) gồm 22 thành viên đến từ các khu vực địa lý, lĩnh vực và

chuyên môn khác nhau. Để thực hiện chức năng của mình, vào tháng 02/2001, Hội
đồng thành viên Trustees đã thiết lập nên ủy Ban sáng lập chuẩn mực kế toán quốc tế
gồm ba tổ chức chính là ủy Ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), Hội đồng cố vấn
chuẩn mực (SAC) và ủy Ban hướng dẫn các chuẩn mực báo cáo tài chính (IFRIC).
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế được ban hành và quản lý bởi ủy Ban sáng
lập chuẩn mực kế toán quốc tế. Các chuẩn mực kế toán quốc tế (IASs) vẫn được kế
thừa các chuẩn mực kế toán quốc tế do IASC ban hành trước đây và ủy Ban sáng lập
chuẩn mực kế toán quốc tế tiếp tục xây dựng, ban hành và phát triển các chuẩn mực kế
toán mới với tên gọi là chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRSs.
Cho đến 01/01/2009, IASC và IASB đã ban hành được 30 chuẩn mực kế toán
quốc tế (IAS) và 08 chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).
Hiện nay, đang có sự dịch chuyển dần tò IAS sang IFRS bằng việc ban hành
thêm IFRS. Trong đó, IAS đứng trên khía cạnh nào đó mang nguyên tắc giá gốc nhiều
hơn cùng với sự chuyển đổi qua IFRS nguyên tắc giá tri hợp lý được đề cập nhiều hơn.
IFRS đề cập nhiều hơn đến việc trình bày thông tin tài chính như thế nào để đảm bảo
lợi ích cao hơn cho các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính được lập ra từ kết quả của
công việc kế toán, Mai Hương (2008).
1.2.3 Chuẩn mưc kế toán Viêt
Nam • •
Với mục tiêu đáp ứng cho nhu cầu hội nhập, từ năm 1996 Việt Nam đã nghiên
cứu toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Hệ thống chuẩn mực kế toán
Việt Nam được nghiên cứu và xây dựng dựa ữên cơ sở các IAS và IFRS được cập nhật
mới nhất, nên thuận lợi là chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được vận dụng sát với hệ
thống chuẩn mực kế toán quốc tế.
1
4
Tại Việt Nam, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền ban hành các chuẩn mực
kế toán. Các chuẩn mực kế toán này được nghiên cứu và soạn thảo bởi Ban chỉ đạo
nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực kế toán Việt Nam gồm 13 thành viên, bao gồm các
thành viên đến từ các cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính và các thành viên đến từ các

trường đại học và Hội kế toán Việt Nam. Vụ chế độ kế toán là đơn vị thường trực của
các Ban chỉ đạo và các Tổ soạn thảo chuẩn mực, có nhiệm vụ tổ chức triển khai việc
soạn thảo, tiếp thu ý kiến và hoàn chỉnh trình Bộ ký ban hành.
Việt Nam đã ban hành được 26 chuẩn mực kế toán sau 5 đợt ban hành. Các
chuẩn mực kế toán của Việt Nam cũng đã dịch ra tiếng Anh nhằm đáp ứng nhu cầu của
nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm hiểu hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Các
chuẩn mực kế toán Việt Nam so với chuẩn mực kế toán quốc tế đã có sự tương đối phù
hợp về nội dung, về cơ sở đánh giá, ghi nhận và trình bày trên BCTC mà còn cả về
hình thức trình bày.
1.2.4 Những khác biêt giữa hê thống chuẩn mưc kế toán Viêt Nam và
o I o • o • •
hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa về hợp tác và phát triển kinh tế, sự hình thành hàng
loạt các công ty đa quốc gia, thị trường tài chính quốc tế và các hoạt động thương mại
quốc tế, nhà đầu tư không chỉ hoạt động ữong phạm vi khu vực mà còn mở rộng hoạt
động ra toàn thế giới. Các báo cáo tài chính phải nói cùng một ngôn ngữ, nhằm nâng
cao tính khách quan, tính có thể tin cậy được, tính có thể so sánh được là một nhu cầu
khách quan và tất yếu. Một ví dụ điển hình ảnh hưởng đến việc so sánh của các nhà
đầu tư do sự khác biệt của chuẩn mực kế toán của công ty Daimler Benz năm 1993,
công ty sản xuất hàng đầu của Đức và là công ty đầu tiên của nước này niêm yết cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán NewYork, đã buộc phải chấp nhận các yêu cầu công
bố thông tín theo chuẩn mực kế toán Mỹ. Theo đó, Công ty Daimler Benz đã phải công
bố quỹ dự trữ vào khoảng 4 tỷ DM (tương đương 2 tỷ đô la Mỹ) trên thị trường New
York mà theo luật của Đức thì công ty không cần phải công bố khoảng quỹ dự trữ này.
Luật kế toán của Đức theo khuynh hướng chống rủi ro -risk-averse trong đầu tư, ữong
1
5
khi đó hệ thống kế toán Mỹ theo khuynh hướng risk-friendly và báo cáo tài chính được
thiết kế nhằm cung cấp thông tin cho các cổ đông tiềm năng (Geoffrey Mazullo, 1999).
Sự khác biệt này đem lại sự phẫn nộ của các cổ đông của Công ty Daimler Benz ở Đức

mà nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán.
Có thể nói rằng, việc ban hành và áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế
tại thị trường vốn trên thế giới là một yêu cầu cấp bách và chính đáng nhằm hài hòa
các sự khác biệt của hệ thống các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận và cung
cấp cho nhà đầu tư một cái nhìn chung khi so sánh các báo cáo tài chính với nhau.
Nhìn về tổng thể chuẩn mực kế toán Việt Nam có một vài sự khác biệt so với
chuẩn mực kế toán quốc tế như sau:
So với số lượng của chuẩn mực kế toán quốc tế đã ban hành thì chuẩn mực kế
toán Việt Nam ít hơn. Hiện nay, Bộ Tài chính đang lên kế hoạch để tiếp tục ban hành
các chuẩn mực kế toán khác cho phù hợp với tình hình phát triển tại Việt Nam.
Đối với các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được ban hành thì một số nội dung
của chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng có điểm khác biệt với chuẩn mực kế toán quốc
tế. Một số điểm của chuẩn mực này trình bày cụ thể hơn chuẩn mực kia và ngược lại,
hoặc còn một vài khác biệt về thuật ngữ, hoặc về các phương pháp được áp dụng,
phạm vi trình bày (Đoàn Xuân Tiên, 2008).
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam ra đời và đưa ra được những nguyên tắc
cơ bản ữong việc xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và trình bày các chỉ tiêu tài
chính ữên báo cáo tài chính. Nhưng do đặc thù của Việt Nam, hệ thống kế toán của
Việt Nam vẫn có sự khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế, thể hiện ở các điểm
sau:
■ Hệ thống tài khoản kế toán sử dụng: Hệ thống tài khoản kế toán là một phần
quan trọng trong hệ thống kế toán của doanh nghiệp dùng để phân loại và hệ
thống hóa các nghiệp vụ kinh tế, tài chính theo nội dung kinh tế.
1
6
Theo thông lệ quốc tế, hệ thống tài khoản sẽ do doanh nghiệp tự xây dựng
phù hợp với đặc điểm và tình hình kinh doanh và hoạt động của doanh
nghiệp.
Tại Việt Nam, hệ thống tài khoản do Bộ Tài chính ban hành. Hệ thống tài
khoản trước đây được ban hành theo Quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT đã

được thay thế bởi hệ thống tài khoản kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-
BTC ngày 20/03/2006 cho chế độ kế toán doanh nghiệp và Quyết định
48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quyết
định 15/2006/QĐ-BTC được ban hành là một bước tiến giúp doanh nghiệp
có thể đơn giản hóa công tác nghiên cứu và tuân thủ chế độ kế toán, nhất
thể hóa công tác kế toán tiến tới nâng cao tính minh bạch trong kế toán tài
chính, đảm bảo tính có thể so sánh được về tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp Việt Nam với nhau.
Theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006, khi xây dựng hệ
thống tài khoản, doanh nghiệp sẽ tuân thủ đúng với nội dung, kết cấu và
phương pháp hạch toán của các tài khoản cấp 1 và cấp 2; doanh nghiệp chỉ
có thể xây dựng hệ thống tài khoản cấp 3 trở đi cho phù hợp với
tình hình quản lý của doanh nghiệp. Vì sự ràng buộc chặt chẽ nói trên nên
việc ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của các doanh nghiệp Việt
Nam cũng bị nhiều hạn chế.
Trên thực tế, hệ thống tài khoản của các doanh nghiệp thường lập ra nhằm
cho mục đích báo cáo thuế là chính nên cũng ảnh hưởng đến khả năng xây
dựng một hệ thống tài khoản phục vụ cho mục đích kế toán quản ữị của
doanh nghiệp.
■ Hệ thống báo cáo tài chính: Tương tự như hệ thống tài khoản củã doanh
nghiệp, hệ thống Báo cáo tài chính của Việt Nam phải xây dựng tuân theo mẫu
do Bộ Tài chính đưa ra. Trong khi đó, IAS 01 - Trình bày báo cáo tài chính chỉ
1
7
yêu cầu doanh nghiệp phải trình bày đầy đủ các chỉ tiêu tài chính cần thiết ưong
từng loại báo cáo.
■ Hệ thống phương pháp đánh giá tài sản: Đối với phương pháp đánh giá
các tài sản, giống như chuẩn mực kế toán Việt Nam thì chuẩn mực kế toán quốc
tế cũng có phương pháp khấu hao ngoài ra còn có các phương pháp đánh giá tài
sản khác là đánh giá lại và tổn thất.

Nguyên nhân của sự khác biệt này là do Việt Nam chủ yếu đo lường giá trị
tài sản theo phương pháp “giá gốc” hay “giá lịch sử” (historical/ original
cost) mà ít sử dụng phương pháp “giá trị hợp lý” (fair value). Nguyên tắc
giá gốc làm cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam mang tính
bảo thủ cao, không phản ảnh được một cách chính xác giá trị hiện tại của
các tài sản khi được đánh giá lại. (Bùi Công Khánh, 2007).
Tuy nhiên, việc đánh giá lại của tài sản đòi hỏi phải có thị trường hoạt động,
thị trường hoạt động là thị trường có đặc điểm sau: các giao dịch trên thị
trường là đồng nhất, thường có thể tìm thấy những người muốn mua và bán,
và có sẵn giá cả công khai. Vì ở thị trường Việt Nam, thị trường hoạt động
chưa xây dựng được mức giá chuẩn của một số tài sản nên cũng ảnh hưởng
đến việc đánh giá lại giá trị của một số tài sản.
Do đặc thù tại Việt Nam, công tác kế toán đôi khi lại phụ thuộc vào các thông tư
hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực kế toán. Các nhân viên thực thi công tác kế toán
tại các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không xem ữong các
nội dung của chuẩn mực mà quá phụ thuộc vào các thông tư hướng dẫn ban hành kèm
theo; đây cũng là một nội dung có ảnh hưởng đáng kể đến thông tin tài chính được
trình bày cho các nhà đầu tư.
Khác với chuẩn mực kế toán Việt Nam, các chuẩn mực kế toán quốc tế được
cập nhật lại hàng năm phù hợp với sự phát triển đa dạng của nền kinh tế thế giới.
1
8
1.3 Phương pháp phân tích trong đầu tư
Nhà đầu tư thường sử dụng hai phương pháp phân tích trong quá trình ra quyết
định của mình đó là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật.
Phân tích kỹ thuật là quá trình nghiên cứu xu hướng lên xuống của giá cả thị
trường chứng khoán và xu hướng lên xuống của một loại chứng khoán để xem xét thời
điểm thích hợp cho việc mua bán chứng khoán, lý thuyết thường được áp dụng đó là lý
thuyết Dow.
Phân tích cơ bản là phương pháp mà nhà đầu tư sẽ quan tâm đến giá tri nội tại

của một doanh nghiệp. Việc xác định giá trị nội tại của một doanh nghiệp phụ thuộc
vào việc phân tích tình hình tài chính cũng như tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển công ty theo thời gian, nhờ
đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng khoán, giá trị doanh nghiệp là mục tiêu chính
trong phân tích cơ bản. Vì vậy, thông tin kế toán (bao gồm các báo cáo tài chính) là
một nguồn thông tin quan trọng để nhà đầu tư có thể dựa vào đó phân tích, đánh giá và
đưa ra quyết định đầu tư thông qua lựa chọn doanh nghiệp nào có nhiều triển vọng
nhất.
1.3.1 Báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính cung cấp cho nhà đầu tư rất nhiều thông tín hữu ích. Khi
phân tích và xem xét báo cáo tài chính sẽ đem lại các câu trả lời cho các câu hỏi chẳng
hạn như: quy mô công ty lớn như thế nào? Công ty có đang tăng trưởng không? Công
ty đang làm ra tiền hay đang hao hụt tiền? Công ty có tỷ lệ tài sản lưu động so với tài
sản cố định như thế nào? Công ty chủ yếu đang vay ngắn hạn hay vay dài hạn? Công ty
có đang phát hành thêm trái phiếu hay cổ phiếu trong năm vừa qua? Công ty đã thực
hiện các khoản chi phí đầu tư lớn ữong năm vừa qua? Công ty đã hiện đang có nhiều
tiền mặt hay không hay đang thiếu tiền. Có các báo cáo tài chính chủ yếu như sau:
■ Bảng cân đối kế toán: là bảng báo cáo tài chính được lập vào một thời điểm
nhất định ữong năm theo hai cách phân loại vốn và nguồn hình thành vốn cân
đối nhau. Nó bao gồm các loại tài sản có, tài sản nợ và vốn cổ phần của một
1
9
doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiều đối tượng có quan hệ
sở hữu, quản lý kinh tế tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp.
■ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
doanh thu và chi phí của công ty trong một kỳ kế toán, thường là một năm tài
chính, số liệu ữên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về tình
hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động và kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý của một doanh nghiệp.

■ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dùng để phản ánh việc hình thành và sử dụng tiền
phát sinh trong kỳ, gồm 3 phần chính: lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh,
lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giải thích xuất xứ của lượng tiền mặt trong một giai
đoạn và lượng tiền này được chi vào đâu. Thông qua báo cáo này, chủ sở hữu
và các nhà đầu tư có thể đánh giá việc thu và chi tiền mặt trong năm có hợp lý
hay không.
■ Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tổng hợp không tách rời với báo
cáo tài chính của doanh nghiệp được sử dụng để giải thích và bổ sung thông tin
về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh
nghiệp ữong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác chưa trình bày rõ ràng,
chi tiết và cụ thể được.
Ngoài ra, đối với các công ty ừên sàn chứng khoán còn đòi hỏi phải cung cấp
cho các nhà đầu tư Báo cáo thường niên. Báo cáo thường niên là báo cáo quan trọng
mà công ty cung cấp thông tin cho các cổ đông. Báo cáo này gồm hai phần. Phần thứ
nhất là phần diễn giải, thông thường là của ban giám đốc công ty, mô tả kết quả hoạt
động của công ty trong năm qua và bàn luận về những xu hướng phát triển mới có tác
động lên hoạt động tương lai của công ty. Phần thứ hai là phần báo cáo, sẽ cung cấp
bốn loại báo cáo cơ bản bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính.
2
0
1.3.2 Các chỉ tiêu tài chính thường được các nhà đầu tư sử dụng khi
phân tích
Các nhà đầu tư thường sử dụng báo cáo tài chính để phân tích tình hình
doanh nghiệp bằng việc đưa ra các chỉ tiêu phân tích nhằm dự báo được thu nhập,
cổ tức và giá cổ phiếu, tìm ra hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro và triển
vọng tăng trưởng.
Phân tích báo cáo tài chính bao gồm: (a) so sánh tình hình hoạt động của
công ty với các công ty khác; và (b) đánh giá xu hướng và vị trí của công ty theo

thời gian tò đó mới đưa ra các quyết định đầu tư.
Theo nghiên cứu của Võ Thị Ánh Hồng, 2008 một số các chỉ tiêu tài chính
được các nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất như sau:
Thu nhập trên mỗi cổ phiếu thường EPS - Eaming per share (Lãi cơ bản
trên cổ phiếu) = Tổng lãi (Lợi nhuận) dành cho cổ đông thường/số lượng cổ phần
thường đang lưu hành trên thị trường. Theo nghiên cứu Graham, Harvey và
Rajgopal (2005) Payout Policy in the 21
st
century, Joumal of Financial Economics
77. 483-528, các Giám đốc tài chính tin rằng các nhà đầu tư quan tâm nhiều đến
Bảng 1.1 Các chỉ tiêu tài chính được nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất
STT Chỉ tiêu Số ngưòi trả lòi
1 Thu nhập trên mỗi cổ phiếu thường (EPS) 71
2 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 68
3 Chỉ số giá thị trường so với giá trên mỗi cổ phiếu (P/E) 65
4 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản 64
5 Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu 58
6 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 56
Nguồn: Võ Thị Ảnh Hồng, 2008 [06. P45 ]
2
1
chỉ tiêu EPS hơn là dòng tiền, vấn đề trên xuất phát từ các nguyên nhân sau: (1) các
nhà đầu tư hàng ngày nhận được rất nhiều thông tin (từ báo cáo tài chính cũng như từ
các nguồn khác) trong khi khả năng xử lý thì có hạn. Nên, các nhà đầu tư cần một chỉ
tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách đơn giản, dễ
hiểu và dễ so sánh; trong đó, EPS được coi là đáp ứng tốt các yêu cầu này. Lý do thứ
hai, chỉ tiêu EPS là chỉ tiêu được sử dụng một cách phổ biến nhất và xuất hiện với tần
suất nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng đến mức mà người ta coi nó là
quan trọng mà chẳng cần hỏi lý do. Cuối cùng, giống như các nhà đầu tư các chuyên
gia phân tích tài chính, các ngân hàng đầu tư cũng muốn có một chỉ tiêu tổng hợp

thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá, dự báo tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp, và họ cũng chọn EPS.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là thu nhập thuần của các cổ
đông nắm giữ chia cho tổng vốn chủ sở hữu của công ty. Hệ số này thường được các
nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó
tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. Tỷ lệ ROE càng cao chứng tỏ
công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi
thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Nếu ROE cao
thì giá cổ phiếu cũng có xu hướng tăng cao.
Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ thể
như sau (1) ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng, vậy nếu công ty có khoản vay
ngân hàng tương đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ để trả
lãi vay ngân hàng; (2) ROE cao hơn lãi vay ngân hàng thì chúng ta phải đánh giá xem
công ty đã vay ngân hàng và khai thác hết lợi thế cạnh tranh ữên thị trường chưa, và
đánh giá công ty này có thể tăng tỷ lệ ROE ữong tương lai hay không.
Tỷ sổ giá thị trường so vói giá trên mỗi cổ phiếu hay Chỉ số giá thu nhập
(P/E) Chỉ số giá thu nhập=Giá tri thị trường mỗi cổ phần/ Thu nhập trên mỗi cổ phần
2
2
P/E là mức giá mà nhà đầu tư sẵn lòng bỏ ra để có một đồng thu nhập của cổ
phiếu đó hay số năm hoàn vốn nếu EPS không đổi. Tuy nhiên P/E thường thể hiện kỳ
vọng của thị trường về tăng trưởng của cổ phiếu đó hơn là kết quả kinh doanh đã qua.
Tỷ số này thường được nhà đầu tư sử dụng phổ biến nhưng chỉ là con số tham
khảo cho nhà đầu tư sau khi đối chiếu với các công ty cùng ngành nghề và theo dõi xu
hướng dài hạn dựa trên con số P/E trong một thời gian dài.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)= Lãi ròng/ Tổng tài sản. Chỉ tiêu
này cho các nhà đầu tư thấy được 1 đồng tài sản mà nhà đầu tư bỏ ra sẽ thu được về
bao nhiêu đồng lãi ròng.
Tỷ sổ nợ trên vốn chủ sở hữu
Tổng nợ bao gồm tất cả khoản nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Các nhà đầu tư

thường dựa vào đây để đánh giá rủi ro tài chính của một doanh nghiệp. Tỷ số này càng
cao sẽ làm nguy cơ vỡ nợ cao tuy nhiên nếu các công ty làm ăn hiệu quả thì việc duy
trì một tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có thể làm tăng thu nhập dự tính cho các nhà đầu
tư.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lãi ròng/ Doanh thu. Chỉ tiêu này sẽ
cho nhà đầu tư thấy được lãi ròng ữên mỗi đồng doanh thu
Một số chỉ tiêu khác cũng được xem là quan ữọng khi phân tích tỷ số và đạt
được câu trả lời tương đối cao theo nghiên cứu của Võ Thị Ánh Hồng, 2008 đó là: Tỷ
số thanh toán nợ ngắn hạn và Tỷ số khả năng thanh toán nhanh. Vì các chỉ tiêu này sẽ
trả lời cho câu hỏi doanh nghiệp có khả năng chi trả các khoản nợ chi trả khi đến hạn
hay không, nếu doanh nghiệp không có khả năng chi trả đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp đang có nguy cơ trên bờ vực phá sản.
Tỷ số thanh toán nợ ngắn hạn = Tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn, tỷ số này đo
lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty bằng cách bán tài sản lưu động (tài
sản ngắn hạn có thời gian đáo hạn nhỏ hơn một năm) để thu tiền mặt để thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn (nợ ngắn hạn có thời gian đáo hạn nhỏ hơn một năm), tỷ số này cho
nhà đầu tư thấy khả năng công ty có dễ dẫn tới việc bị phá sản hay không.
2
3
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh = (tiền + khoản phải thu)/nợ ngắn hạn đo
lường khả năng thanh toán tốt hơn cho những doanh nghiệp có hàng tồn khi chưa thể
chuyển ngay thành tiền. Hàng tồn kho thông thường có tính thanh toán kém nhất trong
các tài sản lưu động của công ty. Vì thế chúng là tài sản có khả năng bị thiệt hại giá trị
trong trường hợp thanh lý. Do vậy, thước đo khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn
không cần đến việc bán hàng tồn kho là một yếu tố quan trọng.
Tóm tắt chương 1
Các nhà đầu tư thường dựa vào các thông tin kế toán để đưa ra các quyết định
đầu tư thông qua phân tích các các chỉ tiêu tài chính để đánh giá tình hình của doanh
nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư các dữ liệu đầy đủ
có thể đánh giá tình hình doanh nghiệp hiện tại cũng như cái nhìn tổng quan về tương

lai.
Tuy nhiên, việc doanh nghiệp áp dụng các phương pháp kế toán khác nhau cũng
có thể dẫn đến các số liệu để tính toán các chỉ tiêu phân tích khác nhau. Như phân tích
ữên, hiện nay chuẩn mực kế toán Việt Nam so với chuẩn mực kế toán quốc tế có
những sự khác biệt có thể ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư. Vì vậy, nghiên
cứu sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế
giúp các nhà đầu tư có tính toán đúng khi ra quyết định đầu tư là điều cần thiết.
CHƯƠNG 2.
PHÂN TÍCH Sự KHÁC BIỆT CỦA MỘT SÓ KHOẢN MỤC TRONG HỆ
THỐNG CHUẨN Mực KẾ TOÁN VIỆT NAM so VỚI HỆ THỐNG CHUẨN
Mực KẾ TOÁN QUÓC TẾ CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CỦA
NHÀ ĐẦU Tư.
2.1 Sự khác biệt trong phưoTig pháp đánh giá
Có thể nhận thấy rằng, điểm khác biệt trong phương pháp đánh giá là Việt Nam
sử dụng phương pháp đo lường giá tri tài sản bằng phương pháp “giá gốc” hay “giá
lịch sử” (historical/ original cost) hơn là sử dụng phương pháp “giá trị hợp lý” (fair
value). Vì vậy, giá trị của tài sản trong ghi nhận tại chuẩn mực kế toán quốc tế phản
2
4
ánh thực hơn so với giá trị tài sản được ghi nhận ữong chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Cụ thể được trình bày trong các trường hợp sau:
2.1.1 Kế toán hàng tồn kho
Chuẩn mực kế toán quốc tế đã không còn sử dụng tính giá hàng tồn kho LIFO
(nhập sau xuất trước - last in first out). Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn
cho sử dụng phương pháp này ữong hạch toán kế toán.
Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO) áp dụng dựa ữên giả định là hàng
tồn kho được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn
lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất tại thời điểm cuối kỳ. Theo
phương pháp này thì giá vốn hàng bán được tính theo giá lô hàng nhập kho ở thời điểm
đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở

thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO) áp dụng trên giả định là hàng tồn kho
được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là
hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị vốn
hàng bán được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng
tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
Việc tiếp tục cho sử dụng phương pháp này có thể dẫn đến sự khác biệt trong
giá vốn hàng bán trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Cụ thể, nếu sử dụng
phương pháp FIFO ữong điều kiện có lạm pháp sẽ dẫn đến giá trị hàng tồn kho trong
bảng cân đối kế toán sẽ lớn hơn so với khi sử dụng phương pháp LIFO; giá vốn hàng
bán sẽ thấp hơn so với sử dụng phương pháp LIFO; lợi nhuận báo cáo sẽ cao hơn so
với sử dụng phương pháp LIFO.
2.1.2 Kế toán tài sản cổ định hữu hình
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 03, phương pháp đánh giá lại giá trị
tài sản cố định hữu hình chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa tại
Việt Nam. Ngoài ra, giá trị tài sản cố định hữu hình sau khi ghi nhận ban đầu chỉ cho
phép sử dụng phương pháp giá gốc và không được phép đánh giá lại. Nên, giá trị tài
2
5

×