Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

phân tích tình hình xuất khẩu gỗ của việt nam những năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.15 KB, 73 trang )

Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xuất khẩu đang đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu các hàng hoá đóng góp lớn vào nguồn thu của đất
nước, nó giúp cân bằng cán cân thương mại. Chính vì, xuất khẩu có tầm quan
trọng rất lớn đến một quốc gia, điều đó đã thúc đẩy em viết về đề tài xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang các thị trường.
Với những lợi thế của thiên nhiên ưu đãi và những điều kiện thuận lợi thì
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đã có những bước phát triển vượt bậc, với tốc độ
tăng trưởng rất cao. Kim ngạch của mặt hàng này nhanh chóng trở thành một
trong 5 mặt hàng đóng góp lớn nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam.
Các thị trường nhập khẩu hàng đầu mặt hàng này là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản
Và theo đánh giá của Bộ công thương thì xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ trong các thị trường này, hay xuất khẩu gỗ
và sản phẩm gỗ vẫn còn rất nhiều cơ hội và tiềm năng để phát triển. Để hiểu biết
thêm về tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam thì xin mời người
đọc tìm hiểu trong phần viết đề tài này. Với nội dung của đề tài chia làm ba
phần:
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng và phương hướng phát triển xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế
3. Phương hướng và giải pháp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các
doanh nghiệp Việt Nam
Bài viết được đóng góp rất lớn của thầy giáo hướng dẫn GS.TS Nguyễn
Ngọc Huyền. Xin cảm ơn thầy.
3
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Tuy bài viết đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng nhưng do những hạn chế về
hiểu biết của người viết nên vẫn có nhiều sai sót. Mong được sự thông cảm và
góp ý của người đọc. Xin trân trọng cảm ơn !
Họ tên người viết


Sinh viên:
4
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
TÓM TẮT
Bài viết tập trung rất nhiều vào tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của
Việt Nam, những phương hướng và giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ ở hiện tại và trong những năm tới.
Phần 1. Viết về khái niệm, hình thức, vai trò và những nhân tố tác động đến
xuất khẩu để làm cơ sở cho phần bài viết.
Phần 2. Viết về thực trạng tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam sang các thị trường. Đây là phần được người viết đi sâu nhiều nhất, phần
này đánh giá được vai trò của xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đã đóng góp rất lớn:
Vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam,
Vào sự phát triển vượt bậc so với các mặt hàng khác,
Vào cải thiện đời sống của người lao động,
Tạo ra công ăn việc làm,
Và đi sâu vào các thị trường xuất khẩu chính về mặt hàng này của Việt
Nam. Cụ thể là ba thị trường chính Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản. Bài viết đã đánh
giá được tổng quát từng thị trường, để giúp người đọc thấy được tiềm năng của
các thị trường ở hiện tại và tương lai. Do một số hạn chế của người viết nên bài
viết không đánh giá sâu vào sản phẩm gỗ xuất khẩu sang từng thị trường, cũng
như các yếu tố đánh giá các thị trường cụ thể.
Phần 3. Viết tập trung vào những phương hướng và giải pháp để phát triển
ngành gỗ và phát triển xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang các thị trường.
5
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
1.Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm về xuất khẩu
Một số khái niệm về xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá và dịch vụ ra khỏi một nước sang các

quốc gia khác để bán.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá và
dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, nó chính là việc bán hàng
hoá và dịch vụ cho nước ngoài. Đây chính là một hình thức kinh doanh quốc tế
quan trọng, nó phản ánh quan hệ thương mại giữa các quốc gia.
Các khái niệm trên đã khái quát tương đối đầy đủ cách thức hoạt động xuất
khẩu của một quốc gia. Các khái niệm trên có ý nghĩa thống nhất với nhau, nó là
các cách thức khái quát về xuất khẩu.
Nếu đứng trên góc độ một doanh nghiệp thì xuất khẩu hàng hoá về bản chất
chính là một hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp trong đó khách hàng của
doanh nghiệp có thể là một cá nhân hay một tổ chức nước ngoài hay một quốc
gia khác.
Một số đặc điểm về xuất khẩu:
+ Xuất khẩu là việc đưa hàng hoá, dịch vụ bán hoặc cung cấp cho nước ngoài.
+ Khách hàng tiêu thụ sản phẩm là ở các quốc gia khác nhau với những đặc
điểm về lối sống, phong tục tập quán, mức sống, thói quen … khác với khách
hàng trong nước.
+ Xuất khẩu hàng hoá thường phát sinh chi phí về vận chuyển khá lớn là giá cả
sản phẩm đến đựơc tay người tiêu dùng thường cao hơn giá cả trong nước.
+ Khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá cần phải tiến hành thêm nhiều nghiệp vụ
khác với tiêu thụ trong nước như làm thủ tục hải quan, thuế xuất…
+ Xuất khẩu tạo ra một thị trường rộng lớn….
1.2 Vai trò của xuất khẩu
1.2.1 Phát huy lợi thế cạnh tranh trong nước
6
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Xuất khẩu hàng hoá sẽ giúp các quốc gia tận dụng được những lợi thế về
điều kiện tự nhiên của mình. Giúp các quốc gia khai thác được những thế mạnh
về tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, để phát huy được lợi thế cạnh tranh của quốc

gia, của vùng, của doanh nghiệp và khắc phục đựơc những hạn chế khó khăn.
Việt Nam là một đất nước có nguồn tài nguyên gỗ là rất lớn đó là một nguồn
nguyên liệu tốt cần được khai thác và tận dụng.
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia là một lợi thế lớn đối với quốc gia đó.
Việt Nam vớí dân số vào khoảng 85 triệu dân và nguồn lực trong độ tuổi lao
động là rất đông đúc và là nước dân số trẻ. Hơn nữa, giá nhân công rẻ và rất sẵn
sàng tham gia vào công việc, có tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước nồng
nàn, tinh thần lao động cần cù sáng tạo. Đó là một lợi thế rất lớn cần đựơc tận
dụng của Việt Nam.
1.2.2 Góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đóng một vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra, nhờ đó doanh nghiệp có
thể tiếp xúc không chỉ với khách hàng trong nước mà còn cả khách hàng ở thị
trường nước ngoài. Thông qua đó các doanh nghiệp sẽ phải tham gia cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác trên thế giới về giá cả và chất lượng hàng hoá. Quan
hệ cạnh tranh này đòi hỏi mỗi quốc gia phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ
cấu sản xuất kinh doanh luôn thích nghi với thị trường. Qua đó sẽ nâng cao được
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và cả nước nói chung.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho ngành khác phát triển thuận lợi. Ví dụ: xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sẽ kéo theo sự phát triển của ngành trồng rừng lấy gỗ,
kích thích phát triển các ngành phục vụ ngành chế biến gỗ xuất khẩu.
+ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
7
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm tạo ra và nâng cao
khả năng, năng lực trong nước.

+ Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo trong các doanh nghiệp
xuất khẩu.
Tóm lại, xuất khẩu có tác động đến tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội
trong nước, chúng tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Khi phát triển xuất
khẩu nó không chỉ mang lại chính lợi ích kinh tế cho chính bản thân ngành đó,
mà còn gây ngoại ứng tích cực tới các hoạt động có liên quan đến xuất khẩu.
1.2.3 Giải quyết thất nghiệp
Hoạt động xuất khẩu góp phần rất lớn vào việc giảm thấp nghiệp, nâng cao
đời sống của người lao động, giảm được các tệ nạn xã hội. Các doanh nghiệp
xuất khẩu thu hút một lượng lao động lớn, và đào tạo tay nghề cho hàng triệu lao
động đó. Các doanh nghiệp xuất khẩu vừa tạo ra việc làm ổn định cho người lao
động vừa tận dụng được nguồn lao động rẻ và sẵn có trong nước để tạo ra những
điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, trong cạnh tranh.
1.2.4 Làm tăng thu nhập trong nước
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi một ngành, một lĩnh vực đều tạo ra những
nguồn thu nhập nhất định thông qua lợi nhuận kinh tế và làm cho thu nhập của
người lao động tăng lên. Không ngoại lệ hoạt động xuất khẩu cũng tạo ra nguồn
thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, góp phần cân bằng cán cân thương mại. Xuất
khẩu sẽ tạo ra nguồn vốn cho nhà nước, doanh nghiệp đầu tư kỹ thuật mới có
hàm lượng kỹ thuật cao, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn
ra mạnh mẽ, cải thiện đời sống nhân dân và nâng cao mức sống của người dân.
Nhà nước cũng có một nguồn thu từ thuế xuất khẩu để đầu tư vào các hoạt động
công cộng, phúc lợi phục vụ cộng đồng, và góp phần vào giảm khoảng cách giàu
nghèo.
1.2.5 Tạo điều kiện học hỏi và nhập khẩu khoa học công nghệ mới
Trong môi trường kinh doanh toàn cầu như ngày nay thì hoạt động xuất
khẩu ngày càng trở lên dễ dàng hơn. Tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc lưu
8
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
thông hàng hoá giữa các quốc gia với nhau. Trong đó việc trao đổi khoa học

công nghệ diễn ra một cách mạnh mẽ, tạo điều kiện cho việc nhập khẩu máy
móc thiết bị, công nghệ dịch vụ tiên tiến phục vụ cho sản xuất trong nước. Đặc
biệt với những nước đi sau thì cần phải biết cách tận dụng những công nghệ đã
được sáng chế của các nước khác để tránh phải đầu tư nghiên cứu, giảm thời
gian và giảm chi phí. Trong điều kiện nước ta như hiện nay một nền nông
nghiệp còn lạc hậu, nông nghiệp còn là chủ đạo trong nền kinh tế thì việc nhập
khẩu máy móc, thiết bị mới và tiên tiến phục vụ cho công cuộc phát triển các
ngành và phát triển đất nước là nhân tố hết sức quan trọng. Hoạt động xuất khẩu
khoa học công nghệ mới sẽ mang về một nguồn thu lớn cho các nước làm ra và
cũng giúp cho các nước nhập khẩu đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của nước
mình và học hỏi các kinh nghiệm của nước đi trước. Hơn nữa, đối với một nước
kém phát triển và đang phát triển thì đây là giai đoạn tích luỹ, học hỏi kinh
nghiệm để thúc đẩy hoạt động phát triển trong nước.
1.2.6 Thúc đẩy các ngành khai thác và sản xuất trong nước
Hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn thu lớn cho các doanh nghiệp và
nguồn thu cho quốc gia. Chính vì vậy, nó tạo điều kiện kích thích các ngành sản
xuất trong nước: thúc đẩy quá trình xây dựng các cơ sở vật chất, kỹ thuật, đồng
thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước đưa đất
nước tiến nhanh trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thúc
đẩy các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá học hỏi các kinh
nghiệm, thay đổi cách tư duy, nâng cao khả năng hoạt động, thay đổi công nghệ
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian sản xuất, giảm giá thành
sản phẩm để có thể cạnh tranh được trên thị trường khu vực, quốc tế. Đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ hiện nay đã đạt được những
thành tựu nhất định nhưng vẫn chưa đủ mạnh để cạnh tranh với các nước khác
trên thế giới. Vì vậy, các doanh nghiệp này phải không ngừng học hỏi, đổi mới
để tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho mình trong điều kiện hội nhập toàn cầu và
đặc biệt ta là thành viên của tổ chức WTO.
9
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b

1.2.7 Tăng cường quan hệ hữu nghị với các quốc gia trên thế giới
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại,
tăng cường sự hợp tác đầu tư của các nước nâng cao vai trò vị thế của nước ta
trên trường quốc tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại này sẽ tác động không nhỏ
tới hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia, hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia
ngày càng phát triển thì mối quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia đó với các
nước khác ngày càng được cải thiện. Đó là mối quan hệ biện chứng không thế
tách rời. Xu hướng vận động của nền kinh tế ngày nay là các quốc gia hợp tác
với nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
1.3 Các hình thức xuất khẩu
1.3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản
xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan
hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc thảo thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện
giao dịch khác:
Ưu điểm:
Cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số
lượng, chất lượng, giá cả để người bán thoả mãn tối nhất nhu cầu của thị trường.
Giúp cho người bán không bị chia sẻ lợi nhuận.
Giúp cho nhà xuất khẩu xây dựng đựơc chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp.
Nhược điểm:
Chi phí tiếp thị thị trường nước ngoài cao
Kinh doanh xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ kinh doanh giỏi
(về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là
nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo).
Phương thức này chỉ nên áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu
có quy mô lớn, vốn nhiều kinh nghiệp lâu năm. Hình thức này không thích hợp
khi áp dụng ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm
10
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b

gỗ hiện nay, vì các doanh nghiệp này phần lớn là những doanh nghiệp quy mô
nhỏ, vốn ít, kinh nghiệm không nhiều.
1.3.2 Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương
thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là
người mua lượng hàng trao đổi với nhau, có giá trị tương đương. Ở đây, mục
đích xuất khẩu không phải nhằm thu ngoại tệ, mà thu về một hàng hoá khác có
giá tri tương đương.
1.3.3 Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu )
bán háng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình. Xuất khẩu
tại chỗ bao gồm các hoạt động như: bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế, cung
cấp hàng hoá, dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế…
Hình thức này có ưu điểm là tiết kiệm chi phí vận chuyển, nhưng nhược
điểm đặc biệt ở các hội chợ triển lãm là các công ty phải tiến hành nghiên cứu,
tìm kiếm rất nhiều thông tin về tình hình kinh tế nước định tiến hàng mở hội
chợ, triển lãm về giá cả, nhu cầu tiêu dùng… và đôi khi mở triển lãm, hội chợ
nhưng lợi nhuận thu được nhờ việc xuất khẩu không bù đấp được những chi phí
đã bỏ ra.
1.3.4 Hình thức gia công
Gia công xuất khẩu là hình thức sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Trong đó,
người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu
hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia công
trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng.
Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt hàng để
nhận tiền gia công.
Ưu điểm:
Thị trường tiêu thụ có sẵn, không bỏ chi phí cho hoạt động bán sản phẩm
xuất khẩu.
11

Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Vốn đầu tư cho sản xuất ít.
Giải quyết công ăn việc làm cho người lao dộng.
Học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tạo mẫu mã bao bì.
Trong điều kiện kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp ngành chế biến
và xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam còn thấp, chưa có mẩu mã nhãn, hiệu,
uy tín thực sự trên thị trường quốc tế thì hình thức gia công xuất khẩu giúp cho
các ngành này đưa được sản phẩm ra thị trường thế giới, mang lại kim ngạch
ngoại tệ cho đất nước.
Nhược điểm:
Tính bị động cao, phụ thuộc vào phía đặt gia công.
Nhiều trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để bán
máy móc cho phía Việt Nam, sau một thời gian không còn thị trường gia công
nữa, máy mọc phải “ đắp chiếu” gây lãng phí. Hay bán máy móc lạc hậu làm
giảm hiệu quả hoạt động và gây ra ô nhiễm môi trường.
Có nhiều trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để
đưa các nhãn hiệu hàng hoá chưa đăng ký hoặc nhãn hiệu giả vào Việt Nam.
Tình hình cạnh tranh gia công ở khu vực và nội địa ngày càng gay gắt làm
cho giá gia công ngày càng sụt giảm, hậu quả: hiệu quả kinh doanh gia công
thấp, thu nhập của công nhân gia công thấp.
1.3.5 Hình thức tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác
những hàng hoá đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Có hai hình thức tái xuất khẩu:
Hình thức kinh doanh chuyển khẩu: là mua hàng của một nước (nước xuất
khẩu ) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập
khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
Hình thức kinh doanh tạm tái xuất: là việc mua hàng hoá của một nước để
bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua hàng hoá ngoại thương, có làm
12

Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam, rồi làm thủ tục xuất khẩu mà không
qua gia công chế biến.
Ưu điểm:
Thực hiện nghiệp vụ này các công ty đôi khi không cần bỏ vốn mà vẫn có
thể kiếm lời thông qua chênh lệch giá bán và giá mua.
Nâng cao năng lực và khả năng tiếp thị của doanh nghiệp.
Nhược điểm:
Chỉ thích hợp với những quốc gia có vị trí thuận lợi.
Công ty phải có nhiều thị trường, có mối quan hệ tốt với các bên để tái xuất
khẩu.
Trường hợp áp dụng: chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có kinh nghiệm, am
hiểu thị trường, có nhiều bạn hàng ở nước ngoài, có những nhân viên giỏi về
nghiệp vụ thanh toán và có thương hiệu mạnh trên thị trường.
1.3.6 Xuất khẩu qua trung gian
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp
đỡ của trung gian thứ ba (nhà môi giới). Người thứ ba được nhận một khoản tiền
nhất định.
Ưu điểm:
Người trung gian thường là người am hiểu thị trường xâm nhập, pháp luật
và tập quán buôn bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và
tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác.
Những người trung gian thường có cơ sở nhất định, do đó khi sử dụng họ,
người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước tiêu thụ hàng hoá.
Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, người
uỷ thác có thể giảm chi phí.
Nhược điểm:
Doanh nghiệp xuất khẩu mất sự liên kết trực tiếp với khách hàng.
Vốn hay bị bên nhận đại lý chiếm dụng.
Công ty xuất khẩu phải đáp ứng những yêu sách của đại lý môi giới.

13
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Lợi nhuận bị chia sẻ.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.4.1 Thị trường sản phẩm gỗ thế giới
Thị trường sản phẩm gỗ thế giới là một thị trường đầy tiềm năng phát triển.
Sản phẩm gỗ ngày càng đa dạng và nhu cầu thì ngày một lớn. Chính vì vậy, việc
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, chỉ có những doanh nghiệp nào đủ mạnh
mới có thể tồn tại được. Các thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ chính là thị
trường Mỹ, EU, Nhật Bản đây là những thị trường lớn của Việt Nam. Các mặt
hàng xuất khẩu gỗ chính là: đồ nội thất dùng trong phòng ngủ, đồ nội thất dùng
trong phòng khách và phòng ăn, ghế khung gỗ và các bộ phận của ghế, đồ nội
thất dùng trong văn phòng, gỗ mỹ nghệ, gỗ nguyên liệu đã sơ chế, đồ nội thất,
đồ dùng trong nhà bếp, khung tranh, khung ảnh…
Hơn nữa, nằm trong khu vực sôi động của thị trường gỗ, đây là những thị
trường không phải khó tính, mức bảo hộ thấp, điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam tiếp cận thị trường và tăng cường buôn bán các mặt hàng gỗ (kể cả sản
phẩm gỗ và gỗ nguyên liệu) với các thị trường khác.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường gỗ sẽ tác động đến việc hình thành, phát
triển thị trường công nghệ, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia xuất khẩu đồ gỗ,
tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam phát triển, tham gia vào thị
trường công nghiệp chế biến gỗ khu vực và thế giới, nhất là đối với các quốc gia
có điều kiện tương đồng
1.4.2 Môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia nhập khẩu
Trong điều kiện hội nhập toàn cầu như ngày nay thì khi xem xét môi
trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá, ngoài các yếu tố
thuộc môi trường kinh doanh của nước sở tại các doanh nghiệp cần phải tính
đến môi trường kinh doanh của các quốc gia nhập khẩu.
Các yếu tố vĩ mô của các nước nhập khẩu thường được xem xét đến là:
 Đặc điểm về chính trị - pháp luật của nước nhập khẩu.

14
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Môi trường chính trị -luật pháp đã và đang có ảnh hưởng lớn tới hoạt động
xuất khẩu đặc biệt ảnh hưởng đối với các hoạt động tiến hành xuất khẩu hàng
hoá. Thông thường khi xem xét nhân tố chính trị - pháp luật người ta thường
xem xét các chỉ tiêu sau:
Tính ổn định về chính trị ở từng quốc gia cũng như mối quan hệ tốt về
chính trị giữa các quốc gia đang tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu. Kinh doanh ở một đất nước mà đường lối căn bản của chính
phủ không thay đổi đột ngột, luật lệ rõ ràng sẽ giúp cho doanh nghiệp tính toán
được tương đối chính xác được chi phí, sản lượng thị trường cần, lợi ích tài
chính thu được, và tạo cho doanh nghiệp dám đầu tư, khai thác thị trường.
Những chính sách của các nước nhập khẩu hàng hoá ảnh hưởng đến doanh
nghiệp có nên xuất khẩu sang nước đó không. Những chính sách chủ yếu là:
chính sách tiền tệ, quản lý ngoại tệ, chính sách thuế, chính sách ưu đãi, chính
sách khuyến khích. Với chính sách tiền tệ, quản lý ngoại tệ đây là chính sách mà
các doanh nghiệp xuất khẩu thường quan tâm khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá
là vấn đề hạn chế và chuyển đổi ngoại tệ của nước bạn hàng. Nếu có sự hạn chế
hoặc cấm đoán thì doanh nghiệp xuất khẩu có biện pháp gì để giải quyết và điều
này có ảnh hưởng đến việc kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường này
không. Ngoài ra sự biến động và tỷ giá hối đoái cũng làm ảnh hưởng đến hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Bộ máy hoạt động nhà nước, chính phủ của mỗi quốc gia có gì tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu không.
Nhà quản trị, nhà kinh doanh phải quan tâm đến từng chế độ pháp lý riêng
biệt tại những nước họ kinh doanh. Luật pháp của từng quốc gia luôn có quan hệ
và tác động đến tình hình kinh doanh giữa các nước với nhau. Trong điều kiện
đó buộc các quốc gia phải điều chỉnh hoạt động của mình cho thích ứng, các
doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt, kịp thời để đáp ứng nhanh kịp với những
quy định mới về pháp luật ở các quốc gia mà mình đang hoạt động hoặc sẽ lựa

chọn hoạt động ở đó. Các doanh nghiệp phải chú ý đến các luật (Luật về giao
15
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
dịch, ký kết hợp đồng, bản quyền về phát minh sáng chế, bảo vệ nhãn hiệu
thương mại, các tiêu chuẩn kế toán, luật giá cả, luật thuế, luật lao động) để
không bị vi phạm.
Thực tế thế giới trong những năm gần đây đã chỉ ra rằng cùng với sự xuất
hiện các khối liên kết kinh tế và chính trị đã xuất hiện những thoả thuận về đa
phương và song phương. Nhờ các hiệp định này mà thương mại quốc tế ngày
càng được mở rộng trong nội bộ và khu vực. Chính vì vậy, có thể nhấn mạnh
rằng đặc điểm về chính trị - pháp luật của nước nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
 Đặc điểm kinh tế của nước nhập khẩu
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và các chính sách về kinh tế của
một quốc gia, của các quốc gia trong khu vực và thế giới nói chung có tác động
trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên
thị trường nước ngoài. Tính ổn định về kinh tế, được thể hiện ở tốc độ phát triển,
tăng trưởng một các ổn định ở mức cao qua các năm, ổn định về tiền tệ, mức
lạm phát không quá cao.Các chỉ tiêu có thế dùng xem xét nhân tố kinh tế của các
quốc gia nhập khẩu:
Tiềm lực của nền kinh tế,
Có cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng.
Lạm phát và khả năng điều kiện lạm phát.
Hoạt động ngoại thương của các quốc gia (xu hướng mở hay đóng của nền
kinh tế của quốc gia nhập khẩu).
Tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi sang các đồng tiền.
Hệ thống thuế của quốc gia nhập khẩu.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nước nhập khẩu.
Trình độ trang thiết bị kỹ thuật của ngành và của nền kinh tế.
Tình hình thu nhập và tính chất phân phối thu nhập của quốc gia nhập

khẩu. Đây là nhân tố trực tiếp tác động đến khối lượng và cơ cấu mua hàng mà
doanh nghiệp xuất khẩu.
16
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Dựa vào các chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể đánh giá được môi trường
kinh tế của nước mình muốn xuất khẩu có thuận lợi hay không, doanh nghiệp có
thu được lợi nhuận không, quốc gia nào doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu.
 Đặc điểm về văn hoá và xã hội
Yếu tố văn hoá và xã hội của thị trường mà doanh nghiệp định hướng xuất
khẩu hàng hoá sang luôn có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Khi nghiên cứu đặc điểm này doanh nghiệp có thể hiểu được
những nhu cầu của khách hàng, cách thức khách hàng mua sản phẩm, cách thức
ký kết hợp đồng và đàm phán…. Từ đó có những chiến lược phát triển sản xuất,
chiến lược quảng cáo, chiến lược tiêu thụ cho phù hợp. Khi xem xét yếu tố văn
hoá và xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu người ta thường xem xét các
tiêu thức sau:
+ Dân số của thị trường nhập khẩu: Tiêu thức này ảnh hưởng đến dung lượng
thị trường có thể đạt được. Thông thường dân số càng lớn thì quy mô thị trường
càng lớn, nhu cầu về một nhóm sản phẩm càng lớn, khối lượng tiêu thụ sản
phẩm nào đó càng lớn, đó là cơ hội tăng lượng xuất khẩu sang thị trường đó.
+ Xu hướng vận động của dân số: Tiêu thức này ảnh hưởng đến nhu cầu của
thị trường, thị phần của doanh nghiệp
+ Thu nhập và phân bổ thu nhập của người tiêu dùng trên thị trường nhập
khẩu: Trong điều kiện nguồn lực có hạn, thu nhập của người dân trên thị trường
nhập khẩu sẽ trang trải cho nhu cầu theo những tỉ lệ khác nhau và mức độ ưu
tiên khác nhau. Điều này ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm và chất
lượng cần đáp ứng của dân cư trên thị trường đó. Do đó sẽ ảnh hưởng đến việc
lựa chọn sản phẩm và số lượng sản phẩm mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu
hàng hoá sang.
+ Vấn đề dân tộc, chủng tộc, sắc tộc tôn giáo, nền văn hoá: Mỗi nước đều có

những phong tục, tập quán, những quy tắc, những điều cấm kỵ riêng của mình.
Vì vậy, ở thị trường nước ngoài có chấp nhận sản phẩm này hoặc không chấp
nhận. Các nước khác nhau còn khác nhau cả những quy tắc ứng xử trong kinh
17
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
doanh, do đó cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trên thị trường này.
1.4.3 Chi phí kinh doanh tác động đến xuất khẩu
Đối với hoạt động xuất khẩu chi phí kinh doanh thường đóng một vai trò
lớn cấu tạo nên giá thành của sản phẩm. Các yếu tố chi phí có ảnh hưởng đến
hoạt động xuất khẩu là: chí phí giống như doanh nghiệp sản xuất trong nước, chi
phí vận chuyển, chi phí bao bì, chi phí marketing, chi phí bảo quản, chi phí thuế
và các chi phí khác.
+ Chi phí giống như doanh nghiệp sản xuất trong nước như chi phí sản xuất
sản phẩm (chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu…), chi phí chung, chi phí
tài chính, chi phí hoạt động khác. Đây là các khoản chí phí chủ chốt mà bất kì
doanh nghiệp nào cũng có để tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường.
+ Chi phí vận chuyển thường là khoản chi phí lớn nhất tác động đến hoạt động
xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá có một quãng vận chuyển rất xa từ nước này
sang nước khác, từ khu vực sang khu vực khác để đưa hàng hoá đến người tiêu
dùng , và chi phí để bỏ ra cho hoạt động này là rất lớn không giống với các hoạt
động của các doanh nghiệp trong nước. Các hình thức vận chuyển là bằng
đường thuỷ dựa vào những chuyến tàu lớn những cảng biển lớn, bằng đường
hàng không, bằng đường bộ kết hợp với đường sắt. Các doanh nghiệp có thể kết
hợp các hình thức vận chuyển để giảm một cách tối đa chi phí vận chuyển,chánh
những chi phí rủi ro.
+ Trong khi hội nhập thì chi phí bao bì đóng một vai trò lớn. Chi phí bao bì sẽ
giúp cho doanh nghiệp bảo vệ được hàng hoá, giúp cho doanh nghiệp quảng bá
thương hiệu của mình, đem đến sự tin cậy cho khách hàng khi mua sản phẩm.
Từ đó, năng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, và tạo ra

một hình ảnh toàn cầu, một thương hiệu toàn cầu.
+ Hiện nay cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất mạnh không chỉ cạnh tranh
trong nước mà phải cạnh tranh quốc tế. Chính vì vậy, chi phí cho hoạt động
18
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
marketing là tương đối lớn. Hoạt động marketing là giúp cho khách hàng xác
định được giá, kênh phân phối, …
+ Chi phí thuế là khoản chi phí doanh nghiệp phải chịu theo chính sách thuế
của mỗi nước đưa ra. Trong đó thuế xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến các
doanh nghiệp xuất khẩu, thuế xuất khẩu thấp sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu
của các doanh nghiệp, còn nó cao sẽ giảm khả năng muốn xuất khẩu của các
doanh nghiệp xuất khẩu.
+ Các chi phí khác có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu đó là chi phí bến
bãi, bốc dỡ hàng,chi phí bảo hiểm… cũng là các yếu tố doanh nghiệp cần phải
kiểm soát để giảm chi phí một cách tốt nhất, cung cấp sản phẩm với giá cạnh
tranh nhất.
1.4.4 Chất lượng và khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Chất luợng của sản phẩm ngày càng trở nên rất quan trọng với mọi doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì trong điều kiện ngày nay thì
chất lượng đóng một vai trò lớn để có khách hàng mua sản phẩm của doanh
nghiệp. Người dân trên thế giới họ chú trọng rất lớn đến chất lượng sản phẩm có
tốt hay không, có đáp ứng được những yêu cầu về môi trường, về sức khẻo, của
họ hay không. Khi sản phẩm không đảm bảo điều đó thì họ sẽ tẩy chay không
mua (như vụ sữa có megaline của trung Quốc trong năm nay 2008, người tiêu
dùng đã không mua sản phẩm đó). Hơn nữa chính phủ các nước cũng bắt đầu
đưa ra những điều kiện nghiêm ngặt để nhập khẩu những sản phẩm hàng hoá
đảm bảo chất lượng. Đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam thì đảm bảo chất lượng
gỗ xuất khẩu là một khó khăn do các doanh nghiệp còn chưa đủ nguồn vốn,
nhiều doanh nghiệp nhỏ, các nhà quản trị không nắm rõ những tiêu chuẩn về
chất lượng, không kiểm soát được chất lượng sản phẩm.

Chất lượng mặt hàng gỗ Việt Nam nhìn chung chưa cao; hiện mới chỉ có
200/2000 doanh nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mẫu
mã sản phẩm đồ gỗ Việt Nam còn đơn điệu, chưa thật sự phong phú, đa dạng và
còn lệ thuộc vào mẫu mã của nước ngoài, nên kém sức cạnh tranh. Nhiều doanh
19
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn vẫn chạy theo gia công, chưa chú trọng đến việc
đầu tư công nghệ, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, thiếu các nhà
thiết kế các sản phẩm gỗ mang bản riêng nhưng có tính công nghệ cao.
1.4.5 Môi trường kinh doanh ở nước sản xuất sản phẩm gỗ
Môi trường kinh doanh của nước sản xuất sản phẩm gỗ tác động mạnh mẽ
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh trong nước
tốt sẽ thúc đẩy tiềm năng xuất khẩu của nước đó, ngược lại, môi trường kinh
doanh không tốt sẽ kìm hãm tiềm năng xuất khẩu. Khi xem xét đến yếu tố này
thường đề cập đến: ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế,tác động cuả các nhân tố
luật pháp và quản lý của nhà nước, tác động của nhân tố khoa học - kỹ thuật, tác
động của điều kiện tự nhiên của nước đó. Đối với môi trường xuất khẩu gỗ và
sản phẩm gỗ ở Việt Nam thì đây là một thị trường tương đối tốt để kích thích
các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ra nước ngoài.
1.4.6 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị tương đối giữa các
ngoại tệ và từ đó có tác động như một công cụ cạnh tranh trong quan hệ kinh tế
quốc tế.
Tỷ giá hối đoái tác động chính đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ cũng vậy.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, có nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so
với đồng ngoại tệ. Làm cho hoạt động xuất khẩu có lợi, nó khuyến khích xuất
khẩu. Vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều
hơn đồng nội tệ. Tuy nhiên, nó làm cho nhập khẩu bất lợi ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất và các doanh nghiệp xuất

khẩu sản phẩm gỗ cũng không phải ngoại lệ.
Ngược lại với tỷ giá hối đoái giảm làm hạn chế xuất khẩu.
Đối với Việt Nam tỷ giá giữa đồng VND/ USD trong những năm qua là
tương đối ổn định, và phù hợp (nằm trong khoảng 15. 000- 17.500) điều đó là
rất thuận lợi để kích thích hoạt động xuất nhập khẩu, chánh gây ra những rủi ro
20
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
mất giá do lạm phát cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và tạo ra khả năng
cạnh tranh cao hơn cho các hàng hoá xuất khẩu.
21
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
2 Thực trạng và phương hướng phát triển xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của
các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế
2.1 Tổng quan về xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các doanh nghiệp
Việt Nam
2.1.1 Sự phát triển của xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam
Trong những năm gần đây, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đang trên đà tăng
trưởng mạnh mẽ. Theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2007, xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt kim ngạch 2,4 tỷ USD, tăng 24,4% so
với năm 2006 và đứng thứ 5 trong nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả
nước. Chỉ xét trong 7 năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu gỗ đã tăng gần gấp
11 lần, từ 219 triệu USD vào năm 2000, đã tăng lên 2.4 tỷ USD vào năm 2007.
Đánh dấu một sự tăng trưởng vượt bậc. Điểm mốc là năm 2004 đã đạt kim
ngạch xuất khẩu 1,1 tỷ USD, tăng 88% so với năm 2003, và được xếp vào
những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn một tỷ trong các mặt hàng chủ
chốt. Và tốc độ tăng trưởng cao vẫn tiếp tục duy trì với mức tăng 35% năm
2005, và 24,5% năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 là 1,93 tỷ USD, tăng
gần gấp 4 lần so với năm 2003, đã đưa nước ta vượt Indonesia, Thái Lan để trở
thành 1 trong 2 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất khu vực Đông Nam Á (xấp xỉ
bằng với kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Malaysia là 1,98 tỷ USD).

Từ năm 2002-2007, sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt tại 120 quốc gia và
thị trường xuất khẩu này rất đa dạng, không phụ thuộc vào một thị trường nhất
22
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
định. Tại một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canađa sản
phẩm gỗ đã mang lại kim ngạch lớn cụ thể kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ
của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng từ 115,46 triệu USD năm 2003 lên 900
triệu USD vào năm 2007; thị trường EU tăng từ 160 triệu USD năm 2003 lên
633 triệu USD năm 2007; thị trường Nhật Bản tăng từ 137,9 triệu USD năm
2003 lên 307 triệu USD năm 2007; Thị trường Hàn Quốc có tiềm năng, tăng
trưởng tốt năm 2006 đạt 65,7 triệu USD tăng 32,2% so với năm 2005. Các sản
phẩm gỗ xuất khẩu chủ yếu là bàn ghế ngoài trời, đồ mộc nội thất, đồ gỗ mỹ
nghệ, ván nhân tạo, dăm gỗ và nhóm sản phẩm gỗ kết hợp với các vật liệu khác.
Theo chỉ tiêu của Bộ Công thương giao cho, xuất khẩu gỗ năm 2008 phấn
đấu đạt kim ngạch 3 tỷ USD. Điều này có thể thực hiện được vì hiện nay số hợp
đồng đã được ký với các nước đã hoàn tất trong số đó đa số hợp đồng là của các
doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp FDI có kim ngạch xuất khẩu lớn,
chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ.
Đối với ngành sản xuất về chế biến gỗ trong những năm qua đã không
ngừng đóng góp công sức lớn cho sự phát triển của xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ của nước nhà. Hiện nay, cả nước có khoảng 2.000 DN chế biến gỗ, thu hút
250 nghìn lao động và 450 DN hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu gỗ.
(Theo báo Đảng Cộng Sản) Có 220 doanh nghiệp FDI hoạt động trong
ngành chế biến gỗ xuất khẩu trên tổng số 422 doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt
Nam với vốn pháp định lên tới trên 3 tỷ USD. Đánh dấu một triển vọng phát
triển của ngành gỗ Việt Nam.
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các doanh
nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây
23
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm
TOP 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và nằm trong câu lạc bộ
một tỷ USD trở lên.
Trong năm 2006 và năm 2007 sản phẩm gỗ đã đứng trong TOP năm mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu (Thuỷ sản, giầy dép, dệt may, dầu thô).
Sau nhiều năm phát triển, với những lỗ lực to lớn của toàn ngành, ngành
chế biến gỗ đã thực sự trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của
nước ta và là một ngành đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân. Với kim ngạch
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ không ngừng tăng nên qua các năm.
24
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Bảng 1. Tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ Việt Nam
Năm
Kim
ngạch
Tốc độ
tăng trưởng
1998 191
1999 200 4.7%
2000 250 25.0%
2001 334 33.6%
2002 435 30.2%
2003 567 30.3%
2004 1100 94.0%
2005 1563 42.1%
2006 1930 23.5%
2007 2400 24.4%
2008* 3000 25.0%
Nguồn:Niên giám thống kê và tổng cục thống kê

Việt Nam các năm.
(Ghi chú: *số liệu dự đoán)
Từ bảng 2, xét từ năm 1998, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam có
thể chia làm 2 giai đoạn (1998-2003) và (2004-2007).
Từ năm 1998-2003,kim ngạch xuất khẩu gỗ tăng đều qua các năm, tốc độ
tăng trưởng của năm sau cao hơn năm trước. Mức độ tăng trưởng bình quân là
23% một năm. Năm 2000, 2001, 2002 và 2003 tốc độ tăng trưởng lần lượt là
25.0%, 33.6%, 30.2% và 30.3% là những tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao trong
các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Năm 2004 ngành thương mại trong nước đánh dấu sự bức phá kỳ diệu của
ngành xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ với kim ngạch vượt qua cột mốc 1 tỷ USD,
với mức tăng trưởng là 94.0% , tăng gần gấp đôi so với kim ngạch xuất khẩu
25
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
năm 2003, với trị giá là 1100 triệu USD, tăng 540 triệu USD so với năm 2003
(560 triệu USD). Đó cũng là tiền đề cho sự ra đời của Chỉ thị số 19/2004/CT-
TTg của thủ tướng Chính Phủ về một số giải pháp phát triển ngành chế biến gỗ
và xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Năm 2005, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tiếp tục bứt phá với kim ngạch đạt
1563 triệu USD, tăng 42% so với năm 2004 và chính thức đứng vào TOP năm
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước (sau dầu khí, giầy dép, dệt
may, thuỷ sản). Với kim ngạch xuất khẩu đạt 1.9 tỷ USD vào năm 2006, tăng
23.5% so với năm 2005, xuất khẩu sản phẩm gỗ vẫn duy trì vững chắc vị trí
TOP năm mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Nguồn:Niên giám thống kê và tổng cục thống kê
Việt Nam các năm.
(ghi chú: *số liệu dự đoán)
26
Trường: ĐHKTQD Lớp: QTKD Tổng Hợp 47b
Vào năm 2007 sau một năm gia nhập WTO kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản

phẩm gỗ của Việt Nam tiếp tục ổn định và mức tăng trưởng đạt 24.4% so với
năm 2006. Theo dự báo thì kim ngạch của năm 2008 có thể là 3 tỷ USD và đạt
tốc độ tăng trưởng 25% so với năm 2007.
Các năm 2004-2007, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ luôn duy trì tốc
độ tăng trưởng hai con số với giá trị xuất khẩu cao. Mức tăng bình quân của giai
đoạn này là 46% năm một tốc độ tăng trưởng mơ ước của nhiều ngành, tốc độ
tăng trưởng rất cao.
Trong năm 2008 kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các tháng
trong năm tiếp tục tăng mạnh so với các năm 2006 và 2007. Điều đó khẳng định
rằng ngành gỗ không ngừng tăng trưởng và phát triển mạnh qua từng năm. Các
doanh nhiệp cũng không ngừng lớn mạnh, sản phẩn xuất khẩu ngày càng nhiều
và vị trí cạnh tranh trên thị trường ngày càng được nâng cao.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
các tháng của ba năm 2006 - 2007 – 2008(Đv: triệu USD)
Năm 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng
các tháng năm
2008 so với năm
2007
Tháng 1 170.4 229.6 292 27.18%
Tháng 2 113.6 134.4 149 10.86%
Tháng 3 182 205 240 17.07%
Tháng 4 161 182 226 24.18%
27

×