Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20012011: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.69 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2011: THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
Khóa: 47
Người hướng dẫn khoa học:
Hà Nội, tháng 5 năm 2012

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 1



DANH MỤC BẢNG BIỂU
1
1
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất phân theo vùng (Tính đến 01/01/2009) 25
Bảng 2.2. Tỷ lệ tăng dân số đô thị và nông thôn, 2000-2010 26
Đơn vị: % 26
Bảng 2.3. Dân số nông thôn Việt Nam, năm 1950 dự báo đến năm 2050 26
Bảng 2.4: Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu 28
Bảng 2.5: Tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ cả nước 32
Bảng 2.6: Số lao động làm việc trong các ngành nông nghiệp 34
Bảng 2.7. Cơ cấu dân số nông thôn theo tuổi và giới tính 35
Bảng 2.8. Cơ cấu dân số nông thôn theo nghề nghiệp, 2002 và 2008 36
Đơn vị: % 36


Bảng 2.9 : Trường phổ thông ở nông thôn phân theo vùng, thời điểm
01/07/2011 39
Bảng 2.10. Tình trạng đi học của người dân nông thôn, 2009 40
Bảng 2.11. Lực lượng lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và khu
vực thành thị – nông thôn 41
Bảng 2.12. Tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật,
đô thị và nông thôn, năm 2010 42
Đơn vị: % 42
Bảng 2.13. Dân số từ 15 tuổi trở lên làm công việc chiếm nhiều thời gian nhất
trong nông, lâm nghiệp, thủy sản 43
Bảng 2.14. Tỷ Lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn 48
Đơn vị: % 48

2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội có tính toàn
cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Với sự phát triển nhanh của
các nền kinh tế, việc làm đã không ngừng được tạo ra nhưng cũng không ít việc làm
bị mất đi. Sự mai một của một số việc làm thường xảy ra ở nông thôn, những vùng
đất mà người dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, khai thác tài nguyên thiên
nhiên là chính. Trong giai đoạn hiện nay, sự thay đổi về cơ cấu kinh tế trong nông
thôn cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp là một tất yếu để
phát triển kinh tế. Nhưng với diện tích đất đai có giới hạn, tỷ lệ tăng dân số ở nông
thôn cao và trình độ dân trí còn thấp, người dân sống ở nông thôn ngày càng khó
tìm được việc làm khi họ bị tách khỏi những lao động phổ thông trong nông nghiệp.
Do vậy, một trong những vấn đề xã hội bức xúc nhất hiện nay là giải quyết việc làm
cho người lao động ở khu vực nông thôn nhất là khi chúng ta đang chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước xu thế hội nhập, mở cửa
và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phần lớn dân số Việt Nam hiện nay vẫn tập trung ở khu vực nông thôn (hơn
60 triệu dân, tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn của Việt Nam vẫn chiếm hơn
70%). Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn đang tiếp tục được thực hiện.
Tuy vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động tương đối chậm.
Tuy nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp hay nói cách khác nông
nghiệp là một thế mạnh nhưng sản xuất ở ngành này mang tính thời vụ nên nhiều
lao động ở ngành này vẫn có nhiều thời gian rảnh rỗi. Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận định: “Tỷ trọng nông nghiệp còn quá cao. Lao
động thiếu việc làm còn nhiều. Tỷ lệ qua đào tạo rất thấp”. Điều này cho ta thấy
tình trạng thiếu việc làm của người lao động ở nông thôn đang rất lớn, có nguy cơ
tiếp tục gia tăng và thời gian sử dụng của người lao động ở khu vực nông thôn chưa
cao và chưa hợp lý, do đó chưa phát huy được khả năng sẵn có. Thực trạng này
đang là một trong những lực cản chính đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, phát
triển giáo dục, nâng cao dân trí, là nguyên nhân sâu xa phát sinh các vấn đề tiêu cực
1
và tệ nạn xã hội. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng sử dụng lao động và giải quyết việc
làm ở nông thôn để tìm ra những phương hướng và giải pháp hữu hiệu tạo việc làm
và sử dụng hợp lý nguồn lao động nông thôn không chỉ là vấn đề mang tính cấp
bách mà nó còn mang tính chiến lược lâu dài trong việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đây chính là lý do em lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Việc làm cho lao động nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011: Thực
trạng và giải pháp”.
2.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
 Mục tiêu chung.
Mục tiêu bao trùm của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng sử dụng
lao động và tạo việc làm cho lao động ở nông thôn Việt Nam đề xuất một số giải
pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở Việt Nam góp phần thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Nhiệm vụ cụ thể.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng lao động và việc làm ở

nông thôn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động
nông thôn ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng lao động
và tạo việc làm cho lao động nông thôn.
- Đề xuất một số quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giải pháp phát triển việc làm cho
lao động nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011.
 Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: Nội dung vấn đề liên quan đến
thực trạng sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở Việt
Nam trong khoảng thời gian từ năm 2001-2011.
- Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 02/1012 đến tháng 05/2012.
4.Phương pháp nghiên cứu.
2
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sẽ sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Nhóm các phương pháp phụ trợ thống kê toán học.
5.Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về việc làm và lao động.
Chương 2: Thực trạng lao động và việc làm khu vực nông thôn giai đoạn
2001-2011.
Chương 3: Các giải pháp chính nhằm tạo việc làm cho nguồn lao động nông
thôn trong thời gian tới.
Em mong rằng khóa luận này sẽ là nghiên cứu đóng góp về một vấn đề đang

được quan tâm hiện nay. Tuy nhiên do trình độ có hạn, khóa luận này không tránh
khỏi còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong thầy cô đóng góp ý kiến giúp em có thể
hoàn thiện nghiên cứu của mình. Trong thời gian hoàn thành đề tài em đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Ths. Lê Thanh Thủy. Cô đã
chỉ bảo tận tình cho em về mặt nội dung, phương pháp luận và cách thức tiếp
cận vấn đề một cách khoa học nhất. Qua bài viết này, em xin chân thành cảm
ơn cô đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2012.
3
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ LAO
ĐỘNG
1.1.Lý luận chung về việc làm.
1.1.1. Khái niệm và phân loại.
1.1.1.1. Khái niệm.
 Khái niệm việc làm:
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc làm là
công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân và gia đình
người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm.
Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử… Khi nghiên cứu dưới góc độ lịch sử thì việc
làm liên quan đến phương thức lao động kiếm sống của con người và xã hội loài
người. Các nhà kinh tế coi sức lao động thông qua quá trình thực hiện việc làm của
người lao động là yếu tố quan trọng của đầu tư vào sản xuất và xem xét thu nhập
của người lao động từ việc làm.
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là
người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế
tập trung. Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh
tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp…

Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn và
khoa học hơn. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. Điều 13 chương II, Bộ luật lao động
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều
kiện:
- Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
các thành viên trong gia đình.
4
- Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị pháp
luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm này đã góp phần mở rộng
quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân vào
trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan điểm của Bộ
luật lao động đã nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
 Thiếu việc làm.
Khi nguồn lao động được huy động, sử dụng không hiệu quả thì tình trạng
thiếu việc làm sẽ xảy ra, dẫn đến thu nhập người lao động thấp, giảm mức sống con
người. Đồng thời đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội, thậm
chí tạo ra các xung đột rối loạn về mặt an ninh chính trị… Chính vì vậy, vấn đề tạo
công ăn việc làm, nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo trở nên có ý nghĩa to lớn,
được quan tâm trong các mô hình phát triển hiện nay ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở
các nước đang phát triển.
Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp.
Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của
người lao động. Họ phải làm việc nhưng không sử dụng hết thời gian theo quy định
hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống khiến họ muốn tìm
thêm việc làm bổ sung.

Như vậy, thiếu việc làm được hiểu là trạng thái việc làm không tạo điều kiện
cho người lao động sử dụng hết thời gian quy định và mang lại thu nhập thấp hơn
mức tiền lương tối thiểu.
Theo tổ chức lao động thế giới (ILO), thiếu việc làm được thể hiện dưới hai
dạng: Thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình.
- Thiếu việc làm vô hình là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ
thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Có
thể nói, nguyên nhân của tình trạng này do dân số không ngừng tăng trong khi diện
tích đất canh tác có nguy cơ thu hẹp làm dư thừa lao động. Số người lao động trên
một đơn vị diện tích tăng có nghĩa là thời gian sử dụng để sản xuất ra một đơn vị
5
sản phẩm giảm. Trên thực tế, họ vẫn làm việc nhưng sử dụng rất ít thời gian trong
sản xuất nên thời gian nhàn rỗi nhiều.
- Thiếu việc làm hữu hình chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn
thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc.
 Thất nghiệp.
Gắn với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Trong bất kỳ nền kinh tế
nào dù có sử dụng lao động đến mức tốt nhất thì xã hội vẫn tồn tại thất nghiệp. Thất
nghiệp là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc làm.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, thất nghiệp được chia thành các loại
như sau:
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp, có thể chia thành:
+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao
động không phù hợp.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ
hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi.
+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến động thời
vụ trong các cơ hội lao động.
+ Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản

lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các yếu
tố đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách
nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm:
+ Thất nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để
tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng.
+ Thất nghiệp không tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động
chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm
được việc làm.
- Ở các nước đang phát triển, người ta chia thất nghiệp thành thất nghiệp hữu
hình và thất nghiệp vô hình.
6
+ Thất nghiệp hữu hình xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc
làm nhưng không tìm được trên thị trường.
+ Thất nghiệp vô hình hay còn gọi là thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính
của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những
người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng
việc làm đó có năng suất thấp, những người này đóng góp rất ít hoặc không đáng kể
vào phát triển sản xuất.
 Tạo việc làm.
Có thể hiểu tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm
việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng
hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người
lao động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập cho riêng họ
mà còn tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy, tạo việc làm không chỉ
là nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yếu tố khách quan của xã hội.
Ta có thể biểu thị mối quan hệ giữa việc làm với một số nhân tố cơ bản qua
hàm số sau:

Y= f(C, V, X… )
Trong đó: Y: Số lương việc làm được tạo ra.
C: Vốn đầu tư.
V: Sức lao động.
X: Nhu cầu của thị trường về sản phẩm…
Trong đó quan trọng nhất là các yếu tố đầu tư (C) và sức lao động (V). Hai
yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất. Sức lao động là khả năng, trí lực và thể lực
của con người. Đó là tri thức, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm… Theo C.Mác: “Sức
lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất hay tinh thần tồn
tại trong một cơ thể, trong mỗi con người đang sống và được người đó đem ra vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Nói đến sức lao động ta phải
nói đến số lượng và chất lượng lao động. Nếu một người lao động có sức khỏe tốt,
có đầu óc suy nghĩ thông minh , sáng tạo thì công việc mà họ được giao sẽ được
hoàn thành tốt, sản phẩm mà họ sản xuất ra sẽ đủ yêu cầu chất lượng. Để tạo việc
7
làm cho người lao động thì sức lao động là yếu tố quan trọng nhất. Một công việc
được thực hiện khi có con người và con người đó chỉ làm việc được khi có đủ sức
lao động. Mối quan hệ giữa C và V phụ thuộc vào tình trạng công nghệ và tồn tại
dưới dạng khả năng. Để chuyển hóa khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những
điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các
chính sách của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc phát triển
các ngành nghề, chính sách vay vốn…
Mặt khác, nhu cầu của thị trường về sản phẩm sản xuất ra cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tạo việc làm. Nếu sản phẩm sản xuất ra được đưa ra thị
trường đảm bảo về chất lượng và số lượng mà thị trường chấp nhận, sản phẩm tiêu
thụ được sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, các doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản
xuất, đi đôi với mở rộng sản xuất là cầu về lao động tăng lên. Ngược lại, khi cầu về
sản phẩm hàng hóa giảm sẽ làm ngừng trệ sản xuất làm cho lao động không có việc
làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngoài ra, tỷ lệ tăng dân số và nguồn nhân lực cũng ảnh hưởng đến vấn đề lao

động và tạo việc làm cho người lao động. Dân số và lao động là hai vấn đề có quan
hệ rất chặt chẽ với nhau, quy mô dân số càng lớn thì nguồn lao động càng nhiều và
ngược lại. Khi nguồn lao động càng lớn lại là sức ép đối với công tác tạo việc làm
cho người lao động bởi vì: Khi cung về lao động lớn sẽ tạo ra một lượng lao động
dư thừa cần giải quyết việc làm. Ngược lại khi cầu lao động lớn hơn cung lao động
sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động tham gia vào các ngành kinh tế.
1.1.1.2.Phân loại việc làm.
Việc làm được phân loại theo các mức độ sau:
- Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm:
+ Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất
hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
+ Việc làm phụ là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian
nhất sau việc làm chính.
- Phân loại việc làm dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất
và thu nhập.
8
+ Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía
cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập.
Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ (độ dài thời gian
lao động ở Việt Nam hiện nay là 8 giờ/ngày).
+ Việc làm có hiệu quả là việc làm với năng suất, chất lượng cao. Đối với tầm
vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lí nguồn lao động, tức là tiết
kiệm được chi phí lao động, tăng năng suất lao động, bảo đảm chất lượng của các
sản phẩm làm ra và tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực.
1.1.2. Đặc điểm của việc làm ở nông thôn.
1.1.2.1. Sản xuất nông nghiệp là cơ bản.
Từ bao đời, người nông dân Việt Nam quen với lối sống thuần nông gắn với
những sản phẩm độc canh và kỹ thuật canh tác lạc hậu, nên đại bộ phận lao động
nông thôn chỉ thạo duy nhất nghề nông, không có hoặc có rất ít sự hiểu biết về các

lĩnh vực kinh doanh phi nông nghiệp. Điều này đã làm hạn chế tính chủ động, dám
nghĩ dám làm của người nông dân trong việc tìm nghề mới, nhất là các nghề phi
nông nghiệp.
Lực lượng lao động của xã hội phân bổ không đều giữa các ngành, tập trung
chủ yếu vào nông nghiệp, trong nông nghiệp thì trồng trọt lại chiếm phầm lớn, chăn
nuôi với cơ cấu quá nhỏ.
Nền kinh tế nông nghiệp truyền thống đã hình thành và phát triển từ xa xưa,
cùng với lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó gắn liền với quá trình
khai hoang lấp ấp, phát triển sản xuất, mở mang văn hóa xã hội và đấu tranh sinh tồn
với thiên nhiên của các cộng đồng dân cư. Sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực tạo việc
làm truyền thống và thu hút nhiều lao động của nông dân tại các vùng nông thôn.
1.1.2.2. Chủ yếu là các công việc giản đơn, thủ công.
Hiện nay những việc làm ở nông thôn chủ yếu là những công việc đơn giản,
thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và công cụ
cầm tay, dễ dàng sử dụng, học hỏi và chia sẻ. Theo số liệu thống kê năm 2010 của
Tổng cục thống kê, việc làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc
làm của cả nước. Ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn
9
thì cao hơn rất nhiều, chiếm gần 50% tổng việc làm.Vì thế mà khả năng thu hút lao
động cao, tuy nhiều sản phẩm được làm ra với chất lượng thấp, mẫu mã không thu
hút người tiêu dùng, năng suất lao động thấp từ đó đã làm cho thu nhập bình quân
của lao động tại các vùng nông thôn thấp, dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao so với khu
vực thành thị.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của lao động và lao động nông thôn.
1.1.3.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái.
Như ta đã biết vị trí địa lí của nước ta trải dài 15 vĩ độ. Diện tích phần lớn là
đồi núi và cao nguyên (chiếm 3/4 diện tích cả nước), vị trí địa hình chia cắt phức
tạp, điều kiện thời tiết khí hậu khác nhau. Nếu như ở Miền Bắc nắng nóng mưa
nhiều thì Miền Nam khí hậu lại ôn hòa còn Miền Trung thì nắng nóng khô hạn hơn.
Mặt khác trong những năm gần đây hạn hán lũ lụt thường xảy ra. Do đó ảnh hưởng

rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội nông thôn nói chung và vấn đề giải
quyết việc làm nói riêng. Thực tế cho thấy ở đâu có điều kiện tự nhiên, môi trường
sinh thái thuận lợi, sẽ có nhiều dự án, nhiều chương trình kinh tế-xã hội được đầu tư
và như vậy nơi đó sẽ có điều kiện hơn trong giải quyết việc làm cho người lao
động. Ngược lại, không thể có sự thuận lợi trong giải quyết việc làm tại chỗ đối với
người lao động sống ở những nơi điều kiện tự nhiên bất lợi (sa mạc, vùng băng giá,
vùng núi cao, hải đảo…).
Giải quyết việc làm vừa là nhiệm vụ bức xúc, vừa là chiến lược lâu dài. Vấn
đề đặt ra là phải đảm bảo cho môi trường nhân tạo hòa hợp với môi trường thiên
nhiên, coi đây là một mục tiêu chính quan trọng trong giải quyết việc làm, đồng thời
phải có giải pháp khác phục tác động với thiên tai, sự biến động khí hậu bất lợi và
hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường sinh thái nước ta. Vấn đề này cần
được xuyên suốt trong toàn bộ chiến lược về việc làm thể hiện trong từng vùng,
từng ngành, từng lĩnh vực, từng cộng đồng dân cư để con người thực sự làm chủ
được môi trường sống của mình hoặc hạn chế được đến mức thấp nhất những tác
động xấu của biến động môi trường. Như vậy, bảo vệ và cải thiện môi trường không
chỉ là mục tiêu trong giải quyết việc làm mà còn là điều kiện để phát triển bền vững.
1.1.3.2.Nhân tố về dân số.
10
Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp
lí là nguồn cung cấp nguồn nhân lực vô giá. Tuy nhiên, nếu dân số phát triển quá
nhanh, quy mô phát triển quá lớn, vượt quá khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội
thì tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại là gánh nặng cho nền
kinh tế.
Mức sinh, mức chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hướng đến quy mô
của lực lượng lao động. Nếu mức sinh cao dẫn đến gia tăng dân số nhanh chóng số
lượng người trong độ tuổi lao động trong tương lai.
Ngoài ra, vấn đề di dân và các áp lực kinh tế-xã hội và chính trị còn nguy
hiểm hơn so với tỷ lệ gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa gây ra hậu

quả trực tiếp đến vấn đề việc làm, để có thể thu hút hết số lao động này, cần phải
nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc. Một vấn đề khác là chất lượng
của số lao động này về học vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp không đáp ứng được
với yêu cầu công việc trong khu đô thị. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ
tăng lên.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, việc khống chế mức tăng dân số
được gắn với vấn đề sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm. Nhìn chung,
giảm tỷ lệ gia tăng dân số cũng có nghĩa là có sự đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực
giáo dục, sức khỏe và các dịch vụ xã hội.
1.1.3.3. Nhân tố về chính sách vĩ mô.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là nhà
nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc
làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều
chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống
chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả
cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp nhau. Thực chất là
tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.
- Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và
vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như: Chính
sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực phi kết cấu,
11
chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách khôi phục và phát triển làng nghề…
- Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát
triển việc làm cho lao động toàn xã hội: Chính sách về vốn, chính sách đất đai,
chính sách thuế.
- Cơ cấu kinh tế là quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế có quan hệ
hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau để phát triển trong
điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ quyết định việc khai thác
và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, vốn, sức lao động và cả cơ sở vật

chất kỹ thuật hiện có, quyết định tốc độ phát triển kinh tế hàng hóa nông thôn. Khi
kinh tế nông thôn phát triển sẽ dẫn tới nhu cầu về việc làm ở nông thôn cao hơn và
tạo thêm việc làm cho người lao động nông thôn.
- Nhóm chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công và chính
sách xã hội đặc biệt khác như: Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người tàn
tật, đối tượng xã hội…
- Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương thức và
biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến những
vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi trường pháp lý, vốn. lựa
chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải được
chú ý, đó là đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội việc làm, trên cơ sở đó
đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội làm việc, trên cơ sở Nhà nước tạo
những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội chủ động tìm kiếm việc làm,
chống tư tưởng ỷ lại vào nhà nước, tránh thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều
việc làm với thu nhập thấp. Đồng thời cũng chống việc coi nhẹ trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành
vấn đề xã hội gay cấn. Cần gắn tiêu chuẩn về mức thu hút lao động của doanh
nghiệp trong chính sách khuyến khích hoặc hỗ trợ doanh nghiệp.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức và
biện pháp tạo việc làm lại mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến những
vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa
12
chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ. Vì thế bất cứ
chính sách kinh tế xã hội nào của nhà nước đều có ảnh hưởng và tác động đến vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động.
1.1.3.4. Nhân tố liên quan đến giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ.
- Về giáo dục đào tạo.
Giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm bảo
việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm định hướng

phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động mới đủ về số
lượng, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo việc thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Việc làm của lao động nông
thôn gắn liền với đồng ruộng. Tuy nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp. Điều này dẫn đến việc thu
hồi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo
diện tích đất canh tác của người nông dân giảm đi. Do đó cơ hội sống bằng nghề
nông trên ruộng đất cũ của người nông dân càng ít đi, họ phải chuyển sang tìm việc
trong các khu công nghiệp, nhà máy. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn hạn
chế là những trở ngại làm giảm khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm của lao động
nông thôn. Do đó, để tạo việc làm cho người lao động nông thôn cần chú trọng đầu
tư vào giáo dục-đào tạo. Giáo dục-đào tạo sẽ giúp cho người lao động nông thôn có
đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc. Người lao động
nông thôn qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã
hội phân công sắp xếp.
- Về khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội ngũ lao động. Bên cạnh những
ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề mới và cùng với nó là xu
hướng tri thức hóa công nhân, chuyên môn hóa lao động, giảm bớt lao động chân
tay nặng nhọc. Vốn đầu tư cho khoa học công nghệ là một trong những nhân tố ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng tạo việc làm. Vốn đầu tư tăng thì tạo ra nhiều chỗ làm
việc mới và ngược lại đầu tư ít thì quy mô bị thu nhỏ lại kéo theo sự giảm đi về số
lượng việc làm được tạo ra. Do đó đầu tư cho khoa học công nghệ là một vấn đề rất
13
quan trọng để tạo việc làm. Nhất là ở nông thôn, khu vực có tri thức và thông tin
khoa học hiện đại không được chuyển giao một cách có hệ thống dẫn đến lao động
thiếu kiến thức nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các công việc
mà xã hội yêu cầu, trước hết họ phải là những người được trang bị một kiến thức

nhất định về khoa học công nghệ. Tuy nhiên trong thực tế ở những nước sản xuất
kém phát triển thường có mâu thuẫn: Nếu công nghệ sản xuất tiên tiến với các dây
chuyền sản xuất tự động hóa, chuyên môn hóa cao thì trình độ người lao động chưa
bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi qua trình
sản xuất kinh doanh. Vì thế vấn đề lựa chon áp dụng mức độ công nghệ nào trong
dây truyền kinh doanh phải tính toán thận trọng, bởi vì chính sách khoa học công
nghệ có tác động mạnh mẽ đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
1.1.4. Vai trò của việc làm đối với lao động nông thôn.
1.1.4.1. Đối với bản thân người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể
hiện vai trò của xã hội đối với người lao động, sự quan tâm của xã hội về đời sống
vật chất và tinh thần của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế được
những phát sinh tiêu cực cho xã hội do thiếu việc làm gây ra. Việc làm đối với lao
động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động.
Con người tồn tại phải được tiêu dùng một tư liệu sinh hoạt nhất định như: Thức ăn,
đồ mặc, nhà ở, học tập, phương tiện đi lại… Để có những thứ đó con người phải sản
xuất và tái sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng. Như vậy, để tồn tại và phát
triển, con người bằng sức lao động của mình là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực
lượng sản xuất cơ bản nhất tạo ra giá trị hàng hóa dịch vụ.
Tạo việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động đặc biệt là đối
tượng lao động nông thôn. Việt Nam có hơn 70,4% người lao động xuất thân từ
nông thôn, về trình độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Do đó, giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội.
Tại nhiều làng quê, vấn đề dư thừa lao động trở nên đáng báo động. Tình
trạng thanh niên ở các làng quê không có việc làm thường xuyên chơi bời lêu lổng
14
dẫn đến sa ngã vào tệ nạn xã hội; Nhiều thanh niên phải rời bỏ làng quê lên thành
phố vất vả tìm việc làm thuê; Nhiều làng nghề truyền thống mai một đẩy nhiều lao
động nông thôn đến tình cảnh thất nghiệp… Không có việc làm hoặc việc làm bấp

bênh, năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kém dẫn đến thu nhập không ổn
định, khiến cho việc đầu tư tái sản xuất ở khu vực nông thôn gặp nhiều khó khăn.
Ruộng đất ít, lao động dư thừa, việc làm thiếu và thu nhập thấp, đời sống nông dân
còn nghèo, khoảng cách chênh lệch nông thôn và thành thị có xu hướng tăng. Vì
vậy vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo việc làm cho lao động nông thôn là
mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
1.1.4.2. Đối với cộng đồng.
Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy bất cứ một quốc gia nào đều có
nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình để khai thác tài nguyên thiên
nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một nguồn lực quan trọng,
là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Mọi chủ trương, đường lối, chính
sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập trung phát huy cao độ khả năng của
nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những sai phạm về chủ trương, chính sách và biện
pháp thì nguồn lao động rất có thể trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn
thất cho nền kinh tế.
Giải quyết việc làm là cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, văn hóa, xã hội góp phần thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì
vậy, giải quyết việc làm không chỉ làm trách nhiệm của cơ quan trực tiếp liên quan
đến lao động, việc làm mà còn là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội, các doanh nghiệp và cả bản thân người lao động. Điều 13, Chương II,
Bộ lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Giải quyết việc
làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có việc làm là trách nhiệm
của nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội”.
1.2. Khái niệm về lao động và nguồn lao động nông thôn.
1.2.1. Khái niệm chung về lao động nông thôn.
1.2.1.1. Lao động.
15
Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận nhưng suy đến cùng lao động là
hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người với con vật bởi vì: Khác với

con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào
thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu
cầu đời sống con người. Theo C.Mác “lao động trước hết là một quá trình diễn ra
giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình,
con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất
tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình
sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động
nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Lao động là điều kiện chủ
yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa và
xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá trình sản xuất nào. Như vậy động
lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội quy tụ lại là ở con người. Con người với
lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội. Vì vậy, phải thực sự giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm
năng thiên nhiên. Trước hết giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và
những khả năng sáng tạo của con người. Vai trò của người lao động đối với phát
triển nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất quan
trọng.
1.2.1.2. Lực lượng lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan niệm về lực lượng lao động. Nhà kinh tế học
David Begg cho rằng lực lượng lao động có đăng ký bao gồm số người có công ăn
việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng ký.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), Lực lượng lao động là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không
có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Theo thuật ngữ về lĩnh vực lao động của Bộ lao động Thương binh và xã hội
Việt Nam thì “lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh
tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động”
16

Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người
trong độ tuổi lao động đang có việc làm trong nền kinh tế quốc dân và những người
thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế (ILO) là bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định thực tế đang có việc làm và những
người thất nghiệp.
1.2.1.3. Nguồn lao động.
Theo giáo trình kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân (2005,
tr.167) đưa ra khái niệm: “nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động
theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao
động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân”.
- Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của
pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người
ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế
quốc dân.
Nguồn lao động về mặt số lượng bao gồm:
+ Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.
+ Và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng có nhu cầu
việc làm và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu
trước độ tuổi quy định)
Nguồn lao động xét về mặt chất lượng, cơ bản được đánh giá ở trình độ
chuyên môn, tay nghề (trí lực) và sức khỏe (thể lực) của người lao động
- Khái niệm về nguồn lao động nông thôn.
Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở
nông thôn trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật (nam từ 16 đến 60
tuổi, nữ từ 16 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn
bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc
làm và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm. Tuy nhiên, do đặc

điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực lượng tham gia sản xuất
17
nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động mà còn có những
người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những công việc phù
hợp với mình. Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn ta thấy lao động ở nông
thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc giải quyết việc làm
ở nông thôn.
1.2.2. Đặc điểm nguồn lao động nông thôn.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có đặc điểm khác với đặc điểm của
các ngành khác. Vì vậy, lao động nông thôn cũng có những đặc điểm khác với lao
động ở các ngành kinh tế khác, cụ thể nó biểu hiện ở các mặt sau:
1.2.2.1. Lao động mang tính thời vụ.
Đây là đặc điểm đặc thù không thể bỏ qua được của lao động nông thôn.
Nguyên nhân của nét đặc thù trên là do: đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây
trồng vật nuôi, chúng là những cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên
và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau.
Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự
nhiên khác nhau cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau. Tính thời vụ
trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xóa bỏ được. Trong quá trình sản xuất
chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Từ đó
đặt ra vấn đề cho việc sử dụng lao động nông thôn một cách hợp lí và có ý nghĩa rất
quan trọng.
1.2.2.2. Chất lượng nguồn lao động nông thôn chưa cao.
Chất lượng của người lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên
môn kỹ thuật và sức khỏe.
- Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật: Nguồn lao động ở nước ta đông
về số lượng nhưng sự phát triển về nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế,
nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất nước đang hội
nhập kinh tế quốc tế.
Lao động nông thôn chiếm hơn ¾ lao động của cả nước. Tuy vậy nguồn

nhân lực nông nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ chuyên
môn của lao động thấp, kỹ thuật lạc hậu. Do đó, để có một nguồn lao động với trình
18
độ chuyên môn kĩ thuật cao thì nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng
để có nguồn nhân lực đủ để phát triển đất nước.
- Về sức khỏe.
Sức khỏe của người lao động liên quan đến lương calo tổi thiểu cung cấp cho
cơ thể mỗi ngày, môi trường sống, môi trường làm việc… Nhìn chung lao động
nông thôn nước ta do thu nhập thấp dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hằng ngày chưa
đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức khỏe của nguồn lao động cả nước nói
chung và của nguồn lao động nông thôn nói riêng là chưa tốt.
1.2.2.3. Lao động mang tính kế thừa.
Hoạt động sản xuất của nông thôn chủ yếu dựa vào những phương thức
truyền thống, vào tập quán kinh nghiệm và thói quen sản xuất của mỗi làng, mỗi
cộng đồng hay hộ gia đình. Không ít những tri thức, kinh nghiệm sản xuất tương
thích với nền sản xuất nhỏ, dựa vào tự nhiên đã được đúc kết, lưu truyền và trở
thành nghề kiếm sống của họ từ đời này sang đời khác. Đặc biệt là những tri thức,
kinh nghiệm về canh tác cây trồng, chọn giống gia súc, gia cầm, về thời vụ sản xuất
và các điều kiện tự nhiên của sản xuất. Còn trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp thì
kinh nghiệm sản xuất là một yếu tố không thể thiếu, và thường trở thành những bí
quyết của mỗi làng, mỗi hộ gia đình và mỗi cá nhân. Sự hình thành và tồn tại lâu
dài của các làng nghề truyền thống chính là dựa vào những bí quyết kinh nghiệm
của sản xuất được bảo lưu như vậy.
1.2.3. Vai trò của nguồn lao động nông thôn.
Lao động là một trong ba nhân tố của bất cứ một quá trình sản xuất nào và
trong thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở nên khan hiếm thì lao động được
xem xét là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất. Vai trò của nguồn lao
động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong đó công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn được đặc biệt quan tâm. Lao động nông thôn có vai
trò hết sức quan trọng.
1.2.3.1. Tham gia vào quá trình phát triển các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
19
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nguồn lực trong nông
nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động xã hội. Song,
cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa, nguồn nhân lực trong nông
nghiệp vận động theo xu hướng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Quá trình
biến đổi đó diễn ra theo hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu: Diễn ra khi đất nước bắt đầu công nghiệp hóa, nông nghiệp
chuyển sang sản xuất hàng hóa, năng suất lao động nông nghiệp được giải phóng
trở nên dư thừa và được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất-
dịch vụ. Nhưng do tốc độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp
còn lớn hơn tốc độ thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, do đó ở thời kỳ này tỷ
trọng lao động nông nghiệp nông thôn mới giảm tương đối, số lượng lao động tuyệt
đối còn tăng lên. Giai đoạn này dài hay ngắn là tùy thuộc vào trình độ phát triển của
nền kinh tế của đất nước quyết định.
- Giai đoạn thứ hai: Nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao
động nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao. Số lao
động dôi ra do nông nghiệp giải phóng đã được ngành khác thu hút hết. Vì thế giai
đoạn này số lượng lao động ở nông thôn giảm cả tương đối và tuyệt đối.
1.2.3.2. Tham gia vào sản xuất lương thực thực phẩm.
Đối với mỗi quốc gia vấn đề về lương thực, thực phẩm là một trong những vấn
đề thiết yếu về chính trị xã hội bởi đó là những sản phẩn thiết yếu phục vụ nhu cầu đời
sống sinh hoạt hàng ngày của con người không thể thiếu. Nếu một đất nước không đảm
bảo được vấn đề an ninh lương thực nó sẽ làm xáo trộn mọi hoạt động xấu đến sự phát
triển của đất nước. Việt Nam là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời, dân số
sống chủ yếu bằng nghề nông. Vì vậy, nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản
xuất nông nghiệp là rất đông đảo. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế và sự gia tăng về
dân số thì nhu cầu về lương thực thực phẩm ngày càng gia tăng.

Việc sản xuất lương thực thực phẩm chỉ có thể đạt được trong ngành nông
nghiệp và sức lao động để tạo ra lương thực, thực phẩm là do nguồn lao động nông
thôn cung cấp.
Nền kinh tế phát triển gắn với sự phát triển của quá trình đô thị hóa, thu
nhập của người dân tăng lên đòi hỏi khối lượng lương thực, thực phẩm ngày càng
20
lớn và yêu cầu về chất lượng cũng ngày càng cao. Đẻ có thể đáp ứng đủ về số lượng
và đáp ứng yêu cầu về chất lượng thì nguồn lao động nông thôn phải được nâng cao
về trình độ tay nghề và kinh nghiệm sản xuất.
Như chúng ta đã biết vào những năm 1980 của thế kỷ trước hàng năm chúng
ta phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, và trong những năm đó bình quân
lương thực đầu người của chúng ta chỉ đạt 268,2 kg/người/năm. Nhưng do chất
lượng nguồn lao động nông thôn ngày càng được nâng cao trong những năm sao đó,
đặc biệt trong thời gian gần đây như: số lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay
nghề, học vấn của người lao động ngày càng được nâng lên nên năng suất và sản
lượng lương thực tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Không những cung cấp
lương thực, thực phẩm ổn định cho nhu cầu trong nước mà hằng năm nước ta đã
xuất khẩu nông sản, thu được ngoại tệ đáng kể cho đất nước trong thời gian qua đã
tạo điều kiện vật chất cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để việc
cung cấp lương thực, thực phẩm ổn định và chất lượng không ngừng được nâng cao
thì nguồn lao động nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.2.3.3. Tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
Nông-Lâm-Thủy sản.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với các yếu tố đầu vào là các sản
phẩm mà người lao động nông thôn làm ra. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì phát triển công nghiệp chế biến là rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm.
Như vậy nguồn lao động nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của
đất nước, nó không chỉ ảnh hưởng tới khu vực nông thôn, lĩnh vực nông nghiệp mà
còn tác động đến cả khu vực, lĩnh vực kinh tế khác. Do đó mà vấn đề nguồn lao

động là một trong những vấn đề cần được quan tâm đứng mức để đinh hướng tác
động có hiệu quả.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn cung lao động nông thôn.
1.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng lao động.
 Dân số.
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động. Qui mô và cơ
cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến qui mô và cơ cấu của nguồn lao động. Các
21

×