Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Ẩn dụ tri nhận trong thơ Nông Quốc Chấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.81 KB, 110 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






MA THỊ THÚY NGỌC



ẨN DỤ TRI NHẬN
TRONG THƠ NƠNG QUỐC CHẤN










LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC






Thái Ngun, năm 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






MA THỊ THÚY NGỌC



ẨN DỤ TRI NHẬN
TRONG THƠ NƠNG QUỐC CHẤN






Chun ngành: Ngơn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đức Tồn




Thái Ngun, năm 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn



Ma Thị Thúy Ngọc



Xác nhận
của trưởng khoa chun mơn
Xác nhận
của người hướng dẫn khoa học








GS.TS Nguyễn Đức Tồn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> ii

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn tới GS.TS Nguyễn Đức Tồn người thầy đã tận
tâm chỉ bảo, hướng dẫn tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn thạc sĩ này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo đã giảng dạy, khoa Sau đại học,
Trung tâm Học liệu Đại học Thái Ngun, đã tạo điều kiện tốt nhất cho tơi trong
q trình học tập và nghiên cứu.
Sau cùng, xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân, đồng nghiệp và các học
viên Cao học Ngơn ngữ K19 đã động viên, giúp đỡ tơi trong q trình học tập và
viết luận văn.

Thái Ngun, ngày 20 tháng 8 năm 2013
Tác giả




Ma Thị Thúy Ngọc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> iii


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii

MỤC LỤC iii

MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5

5. Phương pháp nghiên cứu 6

6. Đóng góp của luận văn 6

7. Cấu trúc luận văn 7

Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 9
1. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận – khái niệm và sự phân loại 9

1.1 Khái niệm và bản chất của ẩn dụ 9

1.2 Khái qt về ẩn dụ tri nhận 12


1.2.1 Các quan điểm tiền tri nhận về ẩn dụ 12

1.2.2 Ngơn ngữ học tri nhận 16

1.2.3 Khái niệm ẩn dụ tri nhận 18

1.3 Phân loại ẩn dụ tri nhận 23

1.3.1 Ẩn dụ cấu trúc 23

1.3.2 Ẩn dụ bản thể 24

1.3.3 Ẩn dụ kênh liên lạc/ truyền tin 25

1.3.4 Ẩn dụ định hướng 25

2. Một số nét về nhà thơ Nơng Quốc Chấn 26

2.1 Tiểu sử và cuộc đời 26

2.2 Sự nghiệp sáng tác 28

2.3 Phong cách thơ Nơng Quốc Chấn 29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> iv

Chương 2: ẨN DỤ CẤU TRÚC TRONG THƠ NƠNG QUỐC CHẤN 33

2.1. Giới thiệu về tuyển tập thơ Nơng Quốc Chấn 33


2.2 Các phạm vi là miền nguồn của ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng Quốc Chấn 35
2.2.1. Miền nguồn là con người và các bộ phận của cơ thể con người 35

2.2.2 Nguồn biểu trưng là những cơng trình, vật dụng do con người sáng
tạo ra 46

2.2.3 Nguồn biểu trưng từ thế giới tự nhiên 53

2.3 Các ý niệm quy chiếu thuộc miền đích của ẩn dụ cấu trúc trong thơ
Nơng Quốc Chấn. 71

2.4 Đặc điểm ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng Quốc Chấn từ góc độ văn
hóa-dân tộc và tư duy ngơn ngữ 77

Chương 3: ẨN DỤ BẢN THỂ TRONG THƠ NƠNG QUỐC CHẤN 81

3.1. Khảo sát chung 81

3.2. Ẩn dụ bản thể trong thơ Nơng Quốc Chấn 81

3.2.1. Ẩn dụ vật chứa, khơng gian hạn chế trong thơ Nơng Quốc Chấn 81

3.2.2 Ẩn dụ vật chứa, cơng việc hoạt động, trạng thái, tính chất trong thơ
Nơng Quốc Chấn 87

3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ẩn dụ tri nhận trong
thơ Nơng Quốc Chấn 90

3.3.1 Những quan niệm văn hóa thế giới 91


3.3.2. Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngơn ngữ và tư duy người Việt và
các dân tộc thiểu số anh em 92

3.3.3. Trải nghiệm sống của chính nhà thơ 95

KẾT LUẬN 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO 101


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ẩn dụ tri nhận là một trong các bộ phận quan trọng của lý thuyết ngơn
ngữ học tri nhận, một lý thuyết thuộc loại hiện đại nhất của nghiên cứu ngơn
ngữ học hiện nay [4,5]. Nó gắn liền với đặc trưng văn hóa của người bản ngữ,
được sử dụng rộng rãi trong văn học nghệ thuật, khoa học và trong đời sống
thường nhật của con người. Có thể coi ẩn dụ tri nhận là con đường ý niệm hóa
về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thơng qua các từ, ngữ đó có liên
quan đến văn hóa dân tộc; là phương tiện của tư duy để con người nhận thức
thế giới, miêu tả thế giới, cải tạo thế giới và sáng tạo tinh thần.
Ẩn dụ tri nhận là vấn đề còn tương đối mới mẻ trong nghiên cứu ngơn
ngữ ở Việt Nam, đã có một số cơng trình nghiên cứu hướng tới mở rộng miêu
tả ẩn dụ trong các loại ngơn bản như ca dao, tục ngữ, thơ và trong ngơn ngữ
sinh hoạt hàng ngày. Qua đó, có thể thấy được vai trò và tác dụng tích cực của
ẩn dụ với tư cách là phương tiện tư duy của con người, giúp con người khám
phá hiện thực, làm phong phú thêm sự hiểu biết của chúng ta về thế giới.

Nhà thơ Nơng Quốc Chấn tên thật là Nơng Văn Quỳnh, q gốc ở tỉnh
Bắc Kạn, là người dân tộc Tày, sớm giác ngộ tham gia cách mạng.
Sự nghiệp văn thơ của Nơng Quốc Chấn gắn liền với sự nghiệp 50 năm
hoạt động cách mạng của ơng. Nơng Quốc Chấn đã để lại một sự nghiệp văn
thơ khơng chỉ có ý nghĩa đối với nền văn học các dân tộc thiểu số, mà còn cho
cả nền văn học Việt Nam. Nhắc đến thơ ơng, người ta thấy hiện lên một cách
chân thực và sinh động về hình ảnh con người, cuộc sống và cảnh vật thiên
nhiên nơi núi rừng Việt Bắc: Ơng am hiểu sâu sắc thành ngữ, tục ngữ, những
bài dân ca của các dân tộc thiểu số và vận dụng sáng tạo trong sáng tác thơ ca
của mình. Nhờ đó Nơng Quốc Chấn đã tạo nên một phong cách thơ rất riêng.
Thơ Nơng Quốc Chấn tràn đầy tính hiện thực và cũng thấm đẫm bản sắc văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 2

hóa dân tộc. Ơng là cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách
mạng của các dân tộc thiểu số. Ơng là người mở đường, người để lại dấu ấn
sâu đậm khơng thể qn, khơng chỉ với văn học các dân tộc thiểu số hiện đại
nói riêng mà có vị trí vững chắc trong tiến trình văn học cách mạng Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XX (Tơ Hồi).
Được nhắc đến như một cây đại thụ của nền văn học thiểu số, Nơng
Quốc Chấn đã nhận được nhiều phần thưởng cao q của Đảng và Nhà nước
cho sự nghiệp hoạt động văn hóa, văn học của mình.
Song, chưa có đề tài nào thực sự đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu ẩn dụ tri
nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn. Vì vậy, bằng những nhận thức mới mẻ về ẩn
dụ tri nhận, bằng tình u sâu sắc với thơ Nơng Quốc Chấn, chúng tơi quyết
định chọn Ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn làm đề tài nghiên cứu
của luận văn.
Nghiên cứu đề tài ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn mong muốn
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển việc nghiên cứu ngơn ngữ học tri nhận, một
vấn đề lý luận còn mới mẻ đối với ngơn ngữ học nước ta. Ngồi ra nghiên cứu
đề tài này còn giúp ích cho việc tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm văn học trong

nhà trường nói chung, các tác phẩm của nhà thơ Nơng Quốc Chấn nói riêng
được đầy đủ và tồn diện hơn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Ẩn dụ tri nhận là một lĩnh vực còn tương đối mới mẻ trong nghiên cứu Việt
ngữ học. Năm 2002, Nguyễn Đức Tồn trong cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn hố
– dân tộc của ngơn ngữ và tư duy ở người Việt (Trong sự so sánh với các dân
tộc khác)”, (Nxb ĐHQG HN, 2002) đã đề cập một cách gián tiếp đến vấn đề có
liên quan đến ngơn ngữ học tri nhận ở Việt Nam dưới thuật ngữ “tri giác”. Sau
đó (năm 2007) Nguyễn Đức Tồn có bài viết trực tiếp bàn về Bản chất ẩn dụ và
ẩn dụ tri nhận (Bản chất của ẩn dụ, Tạp chí Ngơn ngữ, số 10& 11, 2007).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 3

Năm 2005, tác giả Lý Tồn Thắng đã nghiên cứu vấn đề ngơn ngữ học
tri nhận trong cuốn “Ngơn ngữ học tri nhận từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn
tiếng Việt” (Nxb KHXH, H, 2005). Trọng tâm cuốn sách là vấn đề tri nhận
khơng gian nên tác giả cuốn sách chưa dành một vị trí xứng đáng cho khái
niệm ẩn dụ tri nhận cũng như khảo sát bước đầu về nó.
Chun luận tiếp theo về ngơn ngữ học tri nhận của Trần Văn Cơ (2007)
đã dành từ trang 292 đến trang 326 để bàn về ẩn dụ tri nhận. Sau đó cũng chính
tác giả Trần Văn Cơ đã dành hẳn một chun khảo để nghiên cứu về vấn đề
này với nhan đề: “ Khảo luận ẩn dụ tri nhận” (Nxb Lao động – Xã hội, 2009).
Tác giả cũng chỉ bàn về sự ra đời của ẩn dụ, bản chất ẩn dụ và sự phân lọai các
kiểu loại ẩn dụ tri nhận (gồm: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng
và ẩn dụ kênh liên lạc).
Một số đề tài khố luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng quan tâm
tìm hiểu về ẩn dụ tri nhận trong thơ ca nói chung, trong các tác phẩm của một
nhà thơ nói riêng. Đó là: Luận án tiến sĩ So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình
Việt Nam của tác giả Hồng Thị Kim Ngọc; Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận
trong ca dao của tác giả Bùi Thị Dung, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
Hà Nội, 2008; Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu ẩn dụ với các nhóm từ liên quan

đến ngơi nhà theo lí thuyết ngơn ngữ học tri nhận (có đối chiếu so sánh hai
ngơn ngữ Anh – Việt) của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, Đại học khoa học xã hội
và nhân văn Hà Nội, 2009; Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận, mơ hình ẩn dụ cấu
trúc trên cứ liệu ca từ của Trịnh Cơng Sơn của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Huyền, Đại học khoa học xã hội và nhân văn T.P Hồ Chí Minh, 2009; Luận
văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận trong thơ Tố Hữu của Phạm Minh Châu, Đại Học
Hải Phòng, 2012; Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận trong thơ nguyễn Duy của
Nguyễn Thị Yến, 2012, Đại học Sư phạm Thái Ngun; Luận văn thạc sĩ Ẩn
dụ tri nhận trong thơ Xn Diệu của Nguyễn Thị Thùy, Đại học khoa học xã
hội và nhân văn Hà Nội, 2013; Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận trong thơ Chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 4

Lan Viên của Phạm Thị Thu Thùy, Đại học Hải Phòng, 2013; Luận văn thạc sĩ
Ẩn dụ tri nhận trong thơ Lưu Quang Vũ của Phạm Thị Hồi, Đại học Hải
Phòng, 2013; v.v…
2.2 Nhà thơ Nơng Quốc Chấn được biết đến như một nhà hoạt động văn hóa
đầy tâm huyết và mẫu mực. Thơ ơng thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên
cứu phê bình có tên tuổi như: Xn Diệu, Tơ Hồi, Chế Lan Viên, Hà Minh
Đức, Nguyễn Ngọc Thiện, Huy Cừ…. Khơng chỉ được nghiên cứu từ góc độ
phê bình văn học mà thơ ơng còn được nghiên cứu từ góc độ ngơn ngữ học. Dù
ở những góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chúng ta đều thấy rằng thơ Nơng
Quốc Chấn là tiếng nói giản dị, chân thành, câu thơ mộc mạc nhưng đậm chất
trữ tình, thấm đẫm tinh thần văn hóa dân gian, dân tộc.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện đã nhận xét về ngơn ngữ thơ Nơng
Quốc Chấn: “Tính chất khẩu ngữ bình dị, thật thà của câu chữ, bộc lộ cách
cảm, cách nghĩ chất phác…những câu thơ nhìn bề ngồi ngỡ như là viết kiểu
ứng tác, khá dễ dàng khơng màu mè, rào đón, bọc giấu mà cứ trần trụi, thật như
đếm và thẳng như cây bương”
Vũ Khiêu trong Tuyển tập Nơng Quốc Chấn (Nxb Văn hóa dân tộc, H,
1998) đã nhận xét: Thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như

sườn núi. Nhưng đọc thơ anh, người ta dần nhận ra có cái gì đáng u, từ tâm
hồn anh có cái gì trong trắng như hoa ban, ngọt lành như suối mát…
Như vậy, mặc dù có nhiều đề tài nghiên cứu thành cơng về ẩn dụ tri
nhận, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận
trong thơ Nơng Quốc Chấn. Vì vậy luận văn này có thể coi là cơng trình đầu
tiên đặt ra vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống và tương đối đầy đủ về ẩn dụ
tri nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn. Nguồn tư liệu phong phú của thơ Nơng
Quốc Chấn sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về ẩn dụ tri nhận trong thơ ơng,
đồng thời góp thêm một cái nhìn về nghệ thuật xây dựng hình tượng trong tác
phẩm của ơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, luận văn nhằm đạt được những mục
đích sau:
3.1.1 Gúp phần cung cấp thêm những kiến thức về ẩn dụ tri nhận và cơ chế
nhận biết ẩn dụ tri nhận.
3.1.2 Bằng việc nghiên cứu các ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn, và qua
cơ chế của ẩn dụ tri nhận được sử dụng trong các bài thơ, hi vọng có thể làm sáng
tỏ nghệ thuật xây dựng hệ thống hình tượng trong thơ Nơng Quốc Chấn và có thể
thấy được thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, đồng thời có cơ sở để
khẳng định những thành cơng của nhà thơ trong việc sử dụng và sáng tạo ngơn
ngữ dân tộc từ góc độ đặc điểm văn hóa dân tộc và tư duy ngơn ngữ.
3.1.3 Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn mong muốn rút ra
những bài học cần thiết cho việc dạy và học văn trong nhà trường phổ thơng đạt
kết quả cao hơn về phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào một số khía cạnh sau:
3.2.1 Thống kê, phân loại các ẩn dụ tri nhận xuất hiện trong các tập thơ được

khảo sát của Nơng Quốc Chấn.
3.2.2 Khảo sát, mơ tả tất cả các ẩn dụ tri nhận nói trên.
3.2.3 Phân tích vai trò của ẩn dụ trong các bài thơ để thấy giá trị thẩm mỹ
của chúng.
3.2.4 Chỉ ra những nét riêng, mang tính sáng tạo của hình tượng nhờ hệ thống
các ẩn dụ trong thơ Nơng Quốc Chấn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng
Quốc Chấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 6

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát chủ yếu của luận văn là các bài thơ được in trong các
tập thơ của Nơng Quốc Chấn: Tiếng ca người Việt Bắc (Nxb Văn học, H,
1960), Đèo Gió (Nxb Văn học, H, 1968), Dòng thác (Nxb Văn học, H, 1977),
Suối và biển (Nxb Văn học, H, 1984).
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tơi sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Trên cơ sở tập hợp ngữ liệu về các loại ẩn dụ trong thơ Nơng Quốc
Chấn, luận văn tiến hành phân loại chúng thành các tiểu loại và tìm hiểu tần số
xuất hiện, giá trị biểu đạt của chúng trong thơ Nơng Quốc Chấn.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngơn
Phương pháp này được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa nghĩa bề
mặt ngơn từ với nghĩa biểu trưng của hiện tượng ẩn dụ xuất hiện trong những
ngữ cảnh nhất định để thấy những giá trị của chúng.
5.3. Phương pháp miêu tả
Trên cơ sở lý luận chung, luận văn tiến hành miêu tả các ẩn dụ tri nhận
xuất hiện trong các tập thơ để phát hiện những giá trị ẩn sau chúng mà nhà thơ

gửi gắm vào mỗi tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
6.1 Về lí luận
Khảo sát ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng Quốc Chấn góp phần làm sáng tỏ
những nét độc đáo trong nghệ thuật thơ ơng, khẳng định tài năng “cánh chim
đầu đàn” của ơng đối với văn học cách mạng của các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng đã xác định giá trị của các ẩn dụ tri
nhận trong sự phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt
Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 7

6.2 Về thực tiễn
Luận văn đóng góp vào thực tiễn phân tích và giảng dạy thơ Nơng Quốc
Chấn nói riêng và các tác phẩm thơ ca trong nhà trường phổ thơng nói chung.
Nó còn góp phần thúc đẩy việc tìm hiểu tác phẩm văn học dựa trên mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là con đường tiếp cận ngơn ngữ tác phẩm ở
cấp độ từ ngữ.
7. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận - khái niệm và sự phân loại
1.1. Về khái niệm và bản chất của ẩn dụ
1.2. Khái qt về ẩn dụ tri nhận
1.2.1 Các quan điểm tiền tri nhận về ẩn dụ
1.2.2 Ngơn ngữ học tri nhận
1.2.3 Khái niệm ẩn dụ tri nhận
1.3. Phân loại ẩn dụ tri nhận
1.3.1 Ẩn dụ cấu trúc
1.3.2 Ẩn dụ bản thể

1.3.3 Ẩn dụ kênh liên lạc
1.3.4 Ẩn dụ định hướng
2. Một số nét về nhà thơ Nơng Quốc Chấn
2.1. Tiểu sử và cuộc đời
2.2. Sự nghiệp sáng tác
2.3. Phong cách thơ Nơng Quốc Chấn
Tiểu kết
Qua sơ bộ tìm hiểu và thống kê tư liệu, chúng tơi nhận thấy các hiện
tượng ẩn dụ được sử dụng trong thơ Nơng Quốc Chấn chủ yếu thuộc hai loại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 8

ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể. Vì vậy luận văn tập trung chỉ trình bày và phân
tích hai loại này.
Chương 2: Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng Quốc Chấn
Luận văn sẽ phân tích, đưa ra bảng thống kê chung về ẩn dụ cấu trúc
trong thơ Nơng Quốc Chấn. Gồm các mục:
2.1. Giới thiệu về tuyển tập thơ Nơng Quốc Chấn được chọn khảo sát
2.2. Các phạm vi là miền nguồn của ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng Quốc Chấn
2.3. Các ý niệm quy chiếu thuộc miền đích của ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng
Quốc Chấn
2.4. Đặc điểm ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nơng Quốc Chấn từ góc độ văn hóa-dân
tộc và tư duy ngơn ngữ
Tiểu kết
Chương 3: Ẩn dụ bản thể trong thơ Nơng Quốc Chấn
3.1. Khảo sát chung
3.2. Ẩn dụ bản thể trong thơ Nơng Quốc Chấn
3.2.1. Ẩn dụ vật chứa, khơng gian hạn chế trong thơ Nơng Quốc Chấn
3.2.2. Ẩn dụ vật chứa, cơng việc, hoạt động, trạng thái, tính chất trong thơ
Nơng Quốc Chấn
3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ẩn dụ tri nhận trong thơ Nơng

Quốc Chấn
3.3.1 Những quan niệm văn hóa thế giới
3.3.2. Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngơn ngữ và tư duy ngơn ngữ
3.3.3. Trải nghiệm sống của chính nhà thơ
Tiểu kết
KẾT LUẬN



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 9

Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận – khái niệm và sự phân loại
1.1 Khái niệm và bản chất của ẩn dụ
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ngày càng có nhiều cơng trình nghiên
cứu quan tâm đến ẩn dụ. Từ các bình diện: Từ vựng học, ngữ nghĩa học, phong
cách học, triết học ngơn ngữ và gần đây là bình diện dụng học và ngơn ngữ học
tri nhận. Đã có nhiều cơng trình ngơn ngữ học hướng tới miêu tả các các cấu
trúc ẩn dụ khơng chỉ ở phạm vi chật hẹp của những đơn vị ngơn ngữ riêng lẻ
như từ, câu, mà mở rộng ra các loại ngơn bản như ca dao, tục ngữ, thơ và trong
những lĩnh vực đời sống, xã hội. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau về
ẩn dụ nhưng hầu hết các quan điểm đều thống nhất cho rằng: “Ẩn dụ là cách
gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác dựa trên mối
quan hệ tương đồng giữa chúng”.
Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hố - dân tộc của ngơn ngữ và tư
duy đã chỉ ra một số quan niệm của các nhà ngơn ngữ học về ẩn dụ:
A.A.Reformatxki giải thích: “Ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là sự chuyển đổi, là
trường hợp chuyển nghĩa điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên

sự giống nhau của các sự vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động,…”
[41,465 ]. B.N.Golovin định nghĩa: “Sự chuyển đổi của các từ từ một đối tượng
này sang một đối tượng khác trên cơ sở giống nhau của chúng được gọi là ẩn
dụ” [41,465]. O.X. Akhmanova đã định nghĩa ẩn dụ: Ẩn dụ là “phép chuyển
nghĩa dùng trong các từ và ngữ có ý nghĩa bóng trên cơ sở sự tương tự, sự
giống nhau”(Dẫn theo [41,465]).
Quan điểm của các nhà ngơn ngữ học Việt Nam:
Nguyễn Văn Tu quan niệm: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên
của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ
đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hốn dụ, phép ẩn dụ, ta theo tưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 10

tượng của ta mà gọi một sự vật, chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ biểu
thị trước thơi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy mối
quan hệ giữa các sự vật khác nhau” [45,159].
Nguyễn Lân giải thích ẩn dụ là “phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển
dựa trên sự tương đồng, sự giống nhau…giữa các thuộc tính của cái dùng để
nói và cái nói đến”
Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này bằng tên
một sự vật khác giữa chúng có mối quan hệ tương đồng” [1,54].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào
sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau” [7,162].
Đào Thản đã giải thích khái niệm ẩn dụ cũng theo quan điểm như vậy trong
mối quan hệ với sự so sánh: “Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống
nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất hoặc chức năng của hai đối
tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và phần
so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh” [26,143].
Đinh Trọng Lạc cũng khẳng định: “Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang
ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện
thực hoặc tưởng tượng ra) giữa khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính

chất) A được định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) B
có tên gọi được chuyển sang dùng cho A” [16,52]. Theo Nguyễn Đức Tồn, tuy
ẩn dụ được xem như một sự so sánh nhưng khơng phải tất cả các kiểu loại so
sánh đều có thể làm nên ẩn dụ. Cơ sở hình thành nên ẩn dụ chỉ có một tiểu loại
đặc biệt đó là tiểu loại so sánh đồng nhất trong kiểu loại so sánh ngang bằng
[38] và [40].
Cũng theo Nguyễn Đức Tồn, dựa vào tiểu loại so sánh đồng nhất này cơ
chế thay thế tên gọi theo phép ẩn dụ được diễn ra như sau: Tên gọi A của sự
vật, hiện tượng hay tính chất…nào đó (kí hiệu là x) có thể được sử dụng để
thay thế cho tên gọi B của sự vật, hiện tượng hay tính chất…nào đó khác loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 11

(kí hiệu là y) khi tư duy con người liên tưởng đồng nhất hóa x và y theo
phương diện nào đó. Về logic thì chỉ có sự đồng nhất hoặc tương đồng hồn
tồn mới cho phép có thể dùng cái này để thay thế cho cái kia được.
Bởi vậy, câu so sánh hai sự vật làm cơ sở cho ẩn dụ phải là câu bao hàm
sự đồng nhất hóa hai sự vật ấy, nên có thể được gọi là câu đẳng nhất hay câu
đẳng thức. Do đó, cơ sở của ẩn dụ chính là sự đồng nhất hóa ngầm. Chỉ khi nào
câu diễn đạt quan hệ đồng nhất hóa các sự vật thì mới có cơ sở cho sự xuất hiện
hiện tượng ẩn dụ. Để diễn đạt quan hệ đồng nhất hay đẳng nhất, dạng câu điển
hình nhất trong tiếng Việt thường dùng quan hệ từ “là” hoặc từ “như” (từ biểu
thị quan hệ tương đồng trong sự so sánh về một mặt nào đó: tính chất, cách
thức, mức độ, hình thức bên ngồi…) [38] và [40].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu bản chất của ẩn dụ đó là “phép thay thế
tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này sang sự
vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa chúng theo
đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng” [40,8].
Tóm lại, ẩn dụ đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngơn
ngữ học, tuy có nhiều ý kiến khác nhau nhưng về cơ bản họ thống nhất rằng cơ
sở của ẩn dụ là sự so sánh ngầm hay chuyển đổi tên gọi hay chuyển nghĩa của

ẩn dụ - đó là sự tương đồng ở một hoặc một vài nét nào đó giữa các sự vật hiện
tượng…Khi xem xét vấn đề ẩn dụ, các tác giả vẫn chưa chỉ ra được rằng sự so
sánh các sự vật với nhau chỉ là cơ sở của hiện tượng ẩn dụ; và khơng phải chỉ là
phép so sánh ngang bằng; các sự vật tham gia vào quan hệ ẩn dụ là khác loại
nhau. Nguyễn Đức Tồn đã tổng kết và khắc phục các hạn chế đó. Theo tác giả,
dựa vào đặc điểm, thuộc tính nào đó có thể đồng nhất hố các sự vật, hiện
tượng khác loại nhau rồi lấy tên gọi (và các đặc điểm, thuộc tính ) của sự vật,
hiện tượng này (thường mang tính cụ thể hơn) để thay thế khi gọi tên hoặc nói
về sự vật, hiện tượng kia (thường mang tính trừu tượng hơn) sẽ tạo ra được
cách diễn đạt ẩn dụ. Ẩn dụ tiếp tục được nghiên cứu ở giai đoạn sau với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 12

hướng nghiên cứu mới đa chiều hơn, đưa ra những cách giải quyết thấu đáo
hơn về vấn đề ẩn dụ.
1.2 Khái qt về ẩn dụ tri nhận
1.2.1 Các quan điểm tiền tri nhận về ẩn dụ
Theo Trần Văn Cơ ( Ngơn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ), Nxb
KHXH, H, 2007), những quan điểm tiền tri nhận về ẩn dụ được trình bày trong
các cơng trình của Bain (1887), Barfield (1962), Black (1969), Cohen (1975),
Empson (1935), Goodman (1968), Henle (1958), Murry (1931), Verbrugge and
Carrell (1977)…v.v… Donald Davidson đã tóm tắt và phê phán các quan điểm
đó đồng thời phát biểu cách hiểu riêng của mình về ẩn dụ trong bài báo có tựa
đề “ What Metaphors Mean” (Ẩn dụ nghĩa là gì). Có các quan điểm sau:
- Ẩn dụ thuộc phạm vi sử dụng
Theo Davidson, ẩn dụ bên cạnh nghĩa đen của từ còn tạo thêm ý nghĩa
khác nào đó. Nhiều người nghĩ về tính song nghĩa của ẩn dụ. Nghĩ như vậy là
hồn tồn sai lầm. Cần phân biệt ý nghĩa của từ và sự sử dụng chúng, ẩn dụ
hồn tồn thuộc phạm vi sử dụng. Ẩn dụ liên quan đến việc sử dụng từ và câu
một cách hình ảnh (hình tượng) và hồn tồn phụ thuộc vào nghĩa thơng
thường hay nghĩa đen của từ và câu.

Khơng thể giải thích được từ hành chức như thế nào khi chúng tạo ra
những ý nghĩa ẩn dụ và hình ảnh hoặc chúng biểu hiện chân lý ẩn dụ. Nghĩa
đen và những điều kiện chân/ngụy tương ứng có thể gán cho từ và câu khơng
phụ thuộc vào những hồn cảnh sử dụng đặc biệt nào. Ẩn dụ buộc chúng ta
phải lưu ý đến một sự giống nhau nào đó thường là mới và bất ngờ giữa hai
(hoặc nhiều) sự vật.
Hiện này còn đang bỏ ngỏ nghĩa sơ cấp, hay nghĩa đen của từ. Ẩn dụ có
phụ thuộc vào nghĩa mới, hay nghĩa mở rộng hay khơng - đó còn là vấn đề.
Nhưng ẩn dụ phụ thuộc vào nghĩa đen của từ thì điều này khơng còn nghi ngờ
gì nữa: nghĩa sơ cấp hoặc nghĩa đen của từ vẫn còn ngay cả trong trường hợp
sử dụng chúng như ẩn dụ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 13

- Ẩn dụ và từ đa nghĩa
Có thuyết chủ trương rằng ẩn dụ là một trong những nghĩa của từ đa
nghĩa. Điều này rõ ràng khơng phù hợp với cách hiểu ẩn dụ. Khi nói: “Hắn ta
là một con chó sói”, trong trường hợp này, “chó sói” được dùng như một ẩn dụ
chứ khơng phải nghĩa thứ hai của từ này, nghĩa là nó vẫn giữ mối quan hệ với
lớp lồi vật có tên gọi là “chó sói” song nó được dùng để định tính chủ thể.
- Ẩn dụ và trò chơi chữ
Ẩn dụ xa lạ đối với trò chơi chữ. Trong ẩn dụ có hai nghĩa khác nhau -
nghĩa đen và nghĩa hình ảnh. Chúng tồn tại đồng thời. Có thể hình dung nghĩa
đen như là nghĩa ẩn, còn nghĩa hình ảnh mới mang trọng trách chính.
Chẳng hạn: trong trường hợp chơi chữ: “Da trắng vỗ bì bạch” khơng có
ẩn dụ nào, chỉ có lối chơi chữ dựa trên hiện tượng đồng nghĩa của từ gốc Hán
Việt và từ Hán Việt: da= bì, trắng= bạch.
- Ẩn dụ và phép so sánh
Lý thuyết nghĩa hình ảnh của ẩn dụ: nghĩa hình ảnh của ẩn dụ là nghĩa
đen của sự so sánh tương ứng. Lý thuyết này khơng phân biệt ý nghĩa của ẩn dụ
và ý nghĩa so sánh tương ứng với nó và khơng cho phép nói về ý nghĩa hình

ảnh hoặc ý nghĩa đặc biệt về ẩn dụ.
Những lý thuyết về ẩn dụ bao gồm: Thuyết so sánh (so sánh tương ứng,
so sánh tỉnh lược hoặc rút gọn), thuyết san bằng ý nghĩa hình ảnh của ẩn dụ với
nghĩa đen của sự so sánh đều có một khiếm khuyết chung lớn: Chúng biến ý
nghĩa ở chiều sâu, khơng hiện rõ của ẩn dụ thành q rõ ràng, q dễ hiểu.
D.Goldman cho rằng sự khác nhau giữa so sánh và ẩn dụ khơng đáng kể. Ơng
đã phân tích sự khác nhau giữa hai phương thức biểu hiện: Có thể nói “một bức
tranh buồn”, và cũng có thể nói “bức tranh giống như một người buồn”. Nhưng
theo Davidson, rất sai lầm khi khẳng định rằng chúng nêu ra một nét chung nào
đó. Việc so sánh nói lên rằng có sự giống nhau, nhưng lại bắt chúng ta phải tự
mình tìm ra nét chung, hoặc những nét chung nào đó. Ẩn dụ khơng khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 14

một cách hiển ngơn sự giống nhau, nhưng nếu chúng ta biết rõ rằng đó là ẩn dụ,
thì chúng ta có nhiệm vụ tìm những nét chung nào đó.
- Quan điểm thay thế
Cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn theo quan điểm: Biểu thức ẩn
dụ ln ln được dùng thay cho một biểu thức nghĩa đen nào tương đương với
nó đều có thể được gọi là quan điểm thay thế đối với ẩn dụ. Chẳng hạn, có
người phát biểu rằng ẩn dụ là một từ thay thế cho một từ khác do hiệu lực của
sự giống nhau hoặc tương đồng giữa cái mà chúng biểu hiện.
Theo quan điểm này, ẩn dụ dùng để truyền đạt cái ý mà về ngun tắc có
thể biểu hiện một cách trực tiếp. Việc hiểu ẩn dụ giống như việc giải mã hoặc
giải câu đố.
- Quan điểm tương tác
Quan điểm tương tác đối với ẩn dụ do M.Black (1962) chủ trương gồm 7
điểm sau:
(1) Ẩn dụ có hai chủ thể khác nhau: một chủ thể chính và một chủ thể phụ.
(2) Những chủ thể này nếu được xem như những hệ thống thì có lợi hơn
là xem chúng như những đối tượng.

(3) Cơ chế ẩn dụ thể hiện ở chỗ chủ thể chính được kèm theo một hệ
thống “những hàm ngơn liên tưởng” có liên hệ với chủ thể phụ.
(4) Những hàm ngơn này chính là những liên tưởng đã được thừa nhận,
trong ý thức của người nói chúng liên hệ với chủ thể phụ, nhưng trong một số
trường hợp đó có thể là những hàm ngơn khơng chuẩn.
(5) Ẩn dụ dưới dạng hàm ngơn chứa đựng những phán đốn về chủ thể
chính có thể ứng dụng cho chủ thể phụ. Nhờ đó ẩn dụ lựa chọn, trừu xuất và tổ
chức những đặc tính hồn tồn xác định của chủ thể chính và loại bỏ những đặc
tính khác.
(6) Điều đó kéo theo những thay đổi trong nghĩa của những từ thuộc
cùng nhóm hay cùng hệ thống với biểu thức ẩn dụ. Một số trong những thay
đổi đó có thể trở thành những chuyển nghĩa ẩn dụ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 15

(7) Nói chung khơng có sự “gán ép” nào bắt buộc đối với sự thay đổi
nghĩa, khơng có quy tắc chung nào cho phép giải thích tại sao một số ẩn dụ có
thể chấp nhận sự thay đổi nghĩa.
Chỉ cần so sánh đơn giản cũng có thể thấy rằng mục (1) khơng tương
thích với những hình thái đơn giản nhất của quan điểm thay thế, mục (7) khơng
ăn khớp với quan điểm so sánh, còn những mục khác thì khơng chấp nhận quan
điểm so sánh.
Song cũng khơng nên q nhấn mạnh sự khác nhau giữa ba quan điểm
ấy. Ẩn dụ thay thế và ẩn dụ so sánh hồn tồn có thể được thay thế bằng cách
trực dịch, tất nhiên có bị mất đi một phần nào đó vẻ đẹp sắc sảo và sinh động
nhưng khơng bị mất đi nội dung tri nhận. Còn ẩn dụ tương tác thì khơng được
bổ sung bằng bất cứ cái gì.
- Ẩn dụ và những điều kiện chân/ngụy
Nếu những mệnh đề ẩn dụ là chân hoặc ngụy với ý nghĩa thơng thường
nhất, thì rõ ràng rằng chúng thường là ngụy. Sự khác nhau về ngữ nghĩa rõ rệt
nhất giữa ẩn dụ và so sánh thể hiện ở chỗ tất cả các so sánh đều là chân, còn đa

số ẩn dụ là ngụy.
Ngơn ngữ ẩn dụ khơng khác với ngơn ngữ của những câu ở dạng đơn
giản nhất. Cái làm phân biệt ẩn dụ khơng phải ý nghĩa, mà là cách sử dụng. Và
ở đây, ẩn dụ giống như những hành động lời nói: khẳng định, ám chỉ, nói dối,
hứa hẹn…Việc sử dụng ngơn ngữ trong ẩn dụ khơng phải với nghĩa là “phải
nói một cái gì đó” đặc biệt, được ngụy trang ở một mức độ nào đó. Bởi vì ẩn dụ
chỉ nói cái nằm ngay trên bề mặt của nó - thường là cái khơng phải là sự thật
hoặc là cái chân lý vơ nghĩa. Những cái chân lý vơ nghĩa và khơng sự thật này
khơng cần ở sự khúc giải, cải biên, chúng có ngay trong nghĩa đen của từ.
- Ẩn dụ và nghĩa đen của từ
Ngồi nghĩa đen, ẩn dụ khơng hề còn mang một nội dung nào đó hoặc có
một ý nghĩa nào đó khác nữa. Tất cả những lý thuyết vừa được trình bày trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 16

đây đều khơng hiểu mục đích của mình. Sai lầm của những thuyết ấy là ở chỗ
chúng tập trung vào nội dung của những tư tưởng do ẩn dụ gợi ra, rồi đưa cái
nội dung đó vào cho bản thân ẩn dụ. Song vấn đề là ở chỗ bằng cách nào ẩn dụ
có liên quan đến cái mà nó bắt chúng ta phải nhìn thấy. Ẩn dụ bắt chúng ta nhìn
thấy đối tượng này thơng qua đối tượng khác.
- Ẩn dụ là phương thức của tư duy
D.Davidson trong bài báo của mình ơng khơng thừa nhận ẩn dụ mang
một nghĩa nào đó khác ngồi nghĩa đen của từ. Nghĩa của ẩn dụ hồn tồn
phụ thuộc vào nghĩa đen của từ, nó khơng phải là một nghĩa trong từ đa
nghĩa, ẩn dụ liên quan đến cách dùng từ, nghĩa là nó thuộc phạm vi lời nói.
Ẩn dụ khơng phải là so sánh. Ẩn dụ nhờ sự giống nhau giúp ta nhìn thấy đối
tượng này thơng qua đối tượng khác. Do đó có thể hiểu rằng ẩn dụ là một
phương thức của tư duy.
1.2.2 Ngơn ngữ học tri nhận
1.2.2.1 Về khái niệm tri nhận
Tri nhận là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó “biểu hiện

một q trình nhận thức hoặc là tổng thể những q trình tâm lý (tinh thần, tư
duy)- tri giác, phạm trù hóa, tư duy, lời nói…phục vụ cho việc xử lí và chế biến
thơng tin. Nó bao gồm cả việc con người nhận thức và đánh giá cả bản thân
mình trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt - tất cả
những cái tạo thành cơ sở cho hành vi của con người” [4,58].
Như vậy, “tri nhận là tất cả những q trình trong đó những dữ liệu
cảm tính được cải biến khi truyền vào não dưới dạng những biểu hiện tinh
thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh…) để có thể lưu lại trong trí nhớ con
người” [4,58].
“Đơi khi tri nhận còn được định nghĩa như là sự tính tốn, nghĩa là xử lí
thơng tin dưới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác-
thành mật mã khác, thành cấu trúc khác” [4,58].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 17

Các q trình tri nhận bao gồm: Q trình nhận thức (trí tuệ hay ý
thức), ý niệm hóa, phạm trù hóa, tri giác và các biểu tượng tinh thần đang
diễn ra trong bộ não của con người, nhờ đó con người nhận được những tri
thức về thế giới.
1.2.2.2 Về ngơn ngữ học tri nhận
Lý Tồn Thắng đã nêu rằng ngơn ngữ học tri nhận được hiểu là “một
trường phái mới của ngơn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngơn ngữ
trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách
quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật và
sự tình của thế giới khách quan đó” [29,15-16]. Khi bàn về vấn đề “tri thức
ngơn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngơn ngữ”, Dirven đã nhận xét khái qt
rằng: “Ngơn ngữ học tri nhận là (…) một mơ hình đầy đủ định hướng vào sự sử
dụng và người sử dụng (ngơn ngữ), bao qt các bình diện chức năng, dụng
học, tương tác, và xã hội- văn hóa của ngơn ngữ trong sử dụng” [29,19]. Các
nhà ngơn ngữ học tri nhận nói chung cho rằng: “Ngơn ngữ là sự tri giác thời
gian thực (real - time perseption) và sự tạo sinh theo thời gian các chuỗi đơn vị

biểu trưng phân lập, được cấu trúc hóa”. Họ từ chối cách nhìn tự tri của ngơn
ngữ, và cho rằng, cái mà ngơn ngữ học tri nhận quan tâm trước hết là vai trò
của các khả năng tri nhận chung trong ngơn ngữ, cho nên, nhiều nghiên cứu của
ngơn ngữ học tri nhận có mục đích là “làm sáng tỏ cấu trúc ý niệm và các khả
năng tri nhận được ứng dụng cho ngơn ngữ và nhằm chỉ ra rằng ngơn ngữ có
thể được mơ hình hóa một cách hợp lí bằng cách sử dụng chính những cấu trúc
ý niệm và những khả năng tri nhận chung này” [29,18].
Theo đó, đối tượng mà ngơn ngữ học tri nhận quan tâm nghiên cứu là
ngơn ngữ tự nhiên của con người trong mối quan hệ với con người, thực hiện
chức năng làm cơng cụ của tư duy, cơng cụ xử lí và chế biến thơng tin để tạo ra
tri thức và cảm xúc cho con người và nó hành chức dưới hai dạng ngun lí cơ
bản: “Dĩ nhân vi trung” và phản ánh mối tương tác giữa những nhân tố tâm lí,
giao tiếp, chức năng và văn hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 18

Tác giả Trần Văn Cơ chỉ ra rằng ngơn ngữ học tri nhận quan tâm đến 7
vấn đề cơ bản: 1- Nghiên cứu các q trình tạo sinh và hiểu ngơn ngữ tự nhiên;
2- Nghiên cứu vấn đề phạm trù hóa ngơn ngữ; 3- Nghiên cứu khái qt vấn đề
ý niệm và ý niệm hóa thế giới; 4- Nghiên cứu các siêu phạm trù ngữ nghĩa tri
nhận; 5- Nghiên cứu những ý niệm cảm xúc của con người; 6- Nghiên cứu ý
niệm con người với bộ nhị ngun xác / hồn; 7- Nghiên cứu các mối quan hệ ẩn
dụ tri nhận trong ngơn ngữ.
Trong giới hạn đề tài nghiên cứu của luận văn này, chúng tơi quan tâm
đến vấn đề thứ 7, đó là: Ẩn dụ tri nhận trong ngơn ngữ.
1.2.3 Khái niệm ẩn dụ tri nhận
Dưới góc nhìn tri nhận luận, Black (1962) đã coi ẩn dụ như là cơng cụ
tri nhận, nghĩa là nó khơng phải chỉ là một phong cách biểu thị các tư tưởng
bằng ngơn ngữ mà còn là một phong cách để tư duy về các sự vật (theo
Trần Văn Cơ [4]).
Sau này Lakoff và Johnson trong cuốn Metaphors we live by (1980) [51]

đã đưa ra một quan niệm về ẩn dụ hồn tồn khác với quan niệm ẩn dụ truyền
thống. Đó là ẩn dụ ý niệm. Theo đó, ẩn dụ ý niệm là ý niệm được diễn tả qua
phương thức ẩn dụ, ẩn dụ khơng chỉ là vấn đề của ngơn ngữ mà nó còn là một
phương thức của tư duy, là một q trình tri nhận, phần lớn các hệ thống ý
niệm mà con người dựa vào để tư duy và hành động về bản chất đều được tạo
lập và giới định qua phương thức ẩn dụ.
Với cách hiểu ẩn dụ là phương thức của tư duy, ngơn ngữ học tri nhận cho
rằng ẩn dụ là một cơ chế tri nhận nhờ đó những tri giác liên tục, tương tự đã trải
qua q trình, phạm trù hóa được đánh giá lại trong bối cảnh ý niệm mới. Bản
chất của ẩn dụ tri nhận là sự ngữ nghĩa hóa và cảm nhận những hiện tượng loại
này trong thuật ngữ các hiện tượng loại khác. Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn
dụ ý niệm- cognitive/conceptual metaphor)- đó là một trong những hình thức ý
niệm hóa, một q trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu /> 19

niệm mới và khơng có nó thì khơng thể nhận thức được tri thức mới. Và về
nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự
giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau [4,293-294].
Với cách tiếp cận chung nhất, ẩn dụ được xem như là cách nhìn một đối
tượng này thơng qua một đối tượng khác, và với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một trong
những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngơn ngữ.
Ẩn dụ thường có quan hệ khơng phải với những đối tượng cơ lập riêng
lẻ, mà với những khơng gian tư duy phức tạp (những miền kinh nghiệm cảm
tính và xã hội). Trong q trình nhận thức, những khơng gian tư duy khơng thể
quan sát trực tiếp này thơng qua ẩn dụ xác lập mối tương quan với những
khơng gian tư duy đơn giản hơn hoặc với những khơng gian tư duy có thể quan
sát được cụ thể (chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể so sánh với lửa, các
lĩnh vực kinh tế và chính trị có thể so sánh với các trò chơi, với các cuộc thi thể
thao…). Trong q trình này, khơng gian khơng thể quan sát trực tiếp được ý
niệm hóa và nhập vào trong một hệ thống ý niệm chung của một cộng đồng

ngơn ngữ nhất định. Đồng thời cùng một khơng gian tư duy có thể được biểu
tượng nhờ một hoặc một số ẩn dụ ý niệm [4,294].
Trong tài liệu của Phan Thế Hưng, các nhà ngơn ngữ học tri nhận cho
rằng: Ẩn dụ khơng chỉ là một biện pháp tu từ văn học mà còn “là một cơng cụ
tri nhận hữu hiệu để con người ý niệm hóa các loại hình trừu tượng. Ẩn dụ do
vậy khơng chỉ là một phương thức diễn đạt ý nghĩ bằng ngơn ngữ mà còn là
một phương thức để tư duy về sự vật” [14,9].
Trong đó, ơng cũng điểm qua những tư tưởng cơ bản của những học giả
được xem là “thuỷ tổ” của phương pháp tri nhận về ẩn dụ như: Kant,
Blumemberg, Weinreich. Họ đã đưa ra quan điểm nghiên cứu về mối quan hệ
giữa ẩn dụ và tri nhận, đã bước đầu tạo nền tảng của lý thuyết ẩn dụ ý niệm sau
này. Kant cho rằng, với những khái niệm khơng gắn liền trực tiếp với trực giác
cảm xúc và những khái niệm này cần phải được gián tiếp “cảm xúc hóa”; ơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

×