Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM 2009.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.15 KB, 8 trang )

CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM 2009
ThS. Đỗ Văn Tính
Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên
rất nhanh. Tính trung bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam
tăng trung bình hàng năm 18.7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung
bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ bằng 76% GDP vào
năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. Thâm hụt thương mại theo đó
cũng ngày càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên đỉnh điểm vào
năm 2008 là 17.51 tỷ USD.
Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt
Nam có độ mở ngày càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro.
Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới
84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 2007. Thâm hụt thương
mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới hơn 20%
GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên
thế giới.
Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt
Nam là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa
đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-
8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, còn lại là máy móc thiết bị.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô
và sản phẩm sơ chế giá trị gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch
xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và khoáng sản khác) từ năm 2000 đến nay
vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt hàng liên quan đến nông nghiệp sơ
chế như nông lâm thuỷ hải sản chiếm trên 15-17%. Những mặt hàng chế
biến chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may
mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và
giá trị gia tăng từ mặt hàng này tương đối thấp. Những mặt hàng có hàm
lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong mặt
hàng xuất khẩu.
Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm


hơn 90% tổng nhập siêu của Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính
thức. Nếu thống kê cả hàng hoá nhập lậu qua biên giới và bằng con đường
tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao hơn. Điều đáng quan ngại là tốc độ
gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, trong khi xuất khẩu
sang nước này hầu như không thay đổi.
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong
tháng 2/2009 ước đạt trên 4,3 tỷ USD, tăng 25,1% so cùng kỳ năm trước.
Tính chung, kim ngạch xuất khẩu trong hai tháng đầu năm đạt 8,02 tỷ USD.
Mặc dù kết quả của hoạt động ngoại thương trong hai tháng đầu năm là khá
tích cực với xuất siêu trên 249 triệu USD, nhưng tính chung 2 tháng đầu
năm, kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm 5% so cùng kỳ 2008.
Nếu không tính đến hai mặt hàng vàng và gạo, kim ngạch xuất khẩu
tháng 2 giảm tới 15% và nhập siêu lên đến trên 1,1 tỷ USD. Do vậy, hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những tháng tới sẽ còn phải đối
mặt với nhiều thách thức. Đó là xuất khẩu giảm và nhập siêu gia tăng.
Theo dự báo, kim ngạch xuất khẩu trong những tháng tới sẽ khó khăn
do lượng vàng xuất khẩu đã cạn, xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ
lực vẫn gặp khó khăn lớn về thị trường do tác động của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay.
Trong khi đó, khối lượng nhập khẩu nhiều mặt hàng như xăng dầu, sắt
thép, phân bón, máy móc thiết bị lại đang có xu hướng tăng nhanh. Chính
điều này sẽ khiến nhập siêu sớm quay trở lại.
Dự báo, nhập siêu trong 4 tháng cuối của nửa đầu năm 2009 sẽ duy trì
ở mức 400 - 500 triệu USD/tháng, đưa nhập siêu 6 tháng đầu năm vào
khoảng 1,2 - 1,5 tỷ USD, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu
trên 14 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2008.
* Những yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Tuỳ theo giai
đoạn và đặc điểm của từng nền kinh tế thì mức độ quan trọng của các yếu tố
khác nhau.

Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Khi đồng tiền phá giá (giảm giá), giá
hàng xuất khẩu trở nên rẻ một cách tương đối sẽ giúp xuất khẩu thuận lợi
hơn, trong khi đó hàng nhập khẩu đắt một cách tương đối, và nhu cầu hàng
nhập khẩu giảm. Cả hai hiệu ứng này tác động đồng thời làm cải thiện cán
cân thương mại.
Ảnh hưởng của dòng vốn: Cán cân thương mại là một trong những
yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại phụ thuộc vào chênh lệch
giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và
đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA,
FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác.
Ảnh hưởng của thu nhập: Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu
nhập khẩu hàng hoá cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó, khi kinh tế
nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ nước
khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân
thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế: Các chính sách
thuế, bảo hộ hàng hoá trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương
mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán
cân thương mại. Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập
khẩu khác cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán
cân thương mại còn phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát
triển công nghiệp của quốc gia.
* Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu tăng
Nhập siêu lớn và liên tục như vậy tất nhiên là một điều không tốt cho
sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Đâu là nguyên nhân gây ra hiện tượng này? Và
đâu là nguyên nhân đáng ngại?
Về mặt lý thuyết, khi các nền kinh tế được tự do thông thương với
nhau, các doanh nghiệp của nền kinh tế này có thể mua được các yếu tố đầu
vào với chi phí thấp hơn từ một số nền kinh tế khác so với trước khi thông
thương. Đồng thời các doanh nghiệp của nền kinh tế này cũng có thể bán

được sản phẩm sang một số nền kinh tế khác (không nhất thiết là các nền
kinh tế mà nó nhập khẩu) với mức giá đủ để thu được một mức lợi nhuận
chấp nhận được.
Kể từ năm 1995 trở lại đây, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, Việt
Nam chủ yếu nhập siêu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc,
nhưng lại xuất siêu sang Mỹ và châu Âu (hình 1). Việt Nam nhập khẩu chủ
yếu các mặt hàng tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị và nguyên, nhiên vật
liệu), khoảng trên dưới 90% tổng giá trị nhập khẩu, trong khi xuất khẩu các
mặt hàng nguyên liệu thô, sản phẩm nông nghiệp, và hàng dệt may. Các số
liệu thống kê những năm gần đây đều cho thấy, Việt Nam nhập khẩu chủ
yếu từ Trung Quốc và ASEAN các mặt hàng chính như giấy, clinker, sắt
thép, phân bón, và gỗ (> 80% tổng giá trị nhập khẩu các mặt hàng này),
hàng may mặc (>70%), và máy móc thiết bị (khoảng 40%).
Mặc dù giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN tăng
khá nhanh nhưng tỷ trọng xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực của
Việt Nam sang ASEAN (trừ gạo) vẫn ở mức dưới 20% tổng giá trị xuất khẩu
của các mặt hàng này. Thị trường khu vực hiển nhiên dễ tính hơn so với thị
trường của các nước đã phát triển. Chi phí vận chuyển, giao dịch rõ ràng rẻ
hơn. Trên một số phương diện khác, thị hiếu của người dân các nước này
cũng khá gần với thị hiếu của người Việt Nam. Nếu trong thời gian tới, các
doanh nghiệp Việt Nam nhận ra điều này và điều chỉnh các chiến lược xuất
khẩu sang khu vực ASEAN và Trung Quốc, chúng ta hy vọng tình hình nhập
siêu từ khu vực ASEAN và Trung Quốc sẽ giảm bớt.
Như vậy, nhập siêu từ một khu vực kinh tế cụ thể nào đó do mở cửa
kinh tế với thế giới bên ngoài không phải là một điều xấu. Nó là một hiện
tượng bình thường của nền kinh tế thị trường và về cơ bản giúp cho nền kinh
tế phát triển tốt hơn. Nó là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
năng lực sản xuất của mình theo chuẩn mực quốc tế.
Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế
2.2.2 .Nguyên nhân do chính sách tỷ giá:

Việc cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng lớn sau khi
gia nhập WTO, đe doạ làm mất cân đối cán cân thanh toán tổng thể, xuất
phát từ những nguyên nhân khác, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân
tỷ giá.
Giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có quan hệ đồng biến với nhau.
Biểu đồ sau thể hiện khá rõ mối quan hệ này.
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009

×