Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Các hình thức bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học ở trường tiểu học vùng đông bắc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.37 KB, 106 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM








HOÀNG THỊ HUYỀN






CÁC HÌNH THỨC BẢO TỒN NGÔN NGỮ
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC











THÁI NGUYÊN, 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






HOÀNG THỊ HUYỀN




CÁC HÌNH THỨC BẢO TỒN NGÔN NGỮ
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG DẠY HỌC Ở

TRƯỜNG TIỂU HỌC VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM


Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60 14 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ





THÁI NGUYÊN, 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
Thầy GS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ. Các kết quả và số liệu đảm bảo tính khách
quan, trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.


Tác giả luận văn


Hoàng Thị Huyền



Xác nhận
của ngƣời hƣớng dẫn khoa học


Xác nhận
của khoa Tâm lý giáo dục





Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


ii
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy GS.TSKH. Nguyễn Văn
Hộ -Người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu
đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, khoa Tâm lý - Giáo dục và phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận
lợi cho em hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể giáo viên và các em học
sinh trường Tiểu học Hoá Thượng 1 và trường Tiểu học Linh Sơn (huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên) đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình khảo sát và khảo nghiệm.
Xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị học viên lớp Giáo dục học K19,
những người luôn động viên, khích lệ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn


Hoàng Thị Huyền



Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các biểu đồ vi
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ BẢO TỒN NGÔN NGỮ

DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC 6
Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 6
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài 6
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước 9
1.1.3. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân
tộc và ngôn ngữ dân tộc 12
1.2. Những khái niệm công cụ 18
1.2.1. Bảo tồn ngôn ngữ dân tộc 18
1.2.2. Bản sắc văn hoá dân tộc 22
1.2.3. Khái niệm bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học 25
1.2.4. Bảo tồn ngôn ngữ DTTS thông qua quá trình dạy hoc 25
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo tồn ngôn ngữ DTTS 30
1.4. Đặc điểm của học sinh tiểu học trong quá trình dạy học 32
Kết luận chương 1 36
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BẢO TỒN NGÔN NGỮ 37
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG DẠY HỌC 37
Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC VÙNG ĐÔNG BẮC 37
2.1. Một số đặc điểm về vùng Đông Bắc Việt Nam 37
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


iv
2.2. Khảo sát thực trạng bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc 40
2.2.1. Mục đích khảo sát 40
2.2.2. Đối tượng khảo sát 40
2.2.3. Nội dung khảo sát 41
2.2.4. Phương pháp khảo sát 41
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong

dạy học ở trường tiểu học 42
2.3.1. Thực trạng bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong cuộc sống
hàng ngày của học sinh và phụ huynh học sinh 42
2.3.2. Thực trạng bảo tồn ngôn ngữ DTTS ở trường tiểu học Hoá
Thượng 1 và Linh Sơn 51
Kết luận chương 2 65
Chƣơng 3. MỘT SỐ HÌNH THỨC BẢO TỒN NGÔN NGỮ DÂN TỘC
THIỂU SỐ TRONG DẠY HỌC Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC VÙNG
ĐÔNG BẮC 67
3.1. Những nguyên tắc chỉ đạo đề xuất các hình thức bảo tồn ngôn ngữ dân
tộc thiểu số trong dạy học ở trường tiểu học 67
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo thực hiện mục tiêu của giáo dục tiểu học
(được quy định tại điều 27, chương II luật giáo dục 2005) 67
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tôn trọng nhân cách đối tượng và yêu cầu
hợp lý với đối tượng giáo dục 67
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường. 68
3.1.4. Nguyên tắc tự nguyện, lồng ghép và có chọn lọc 68
3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi 69
3.2. Một số hình thức bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc 69
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


v
3.2.1. Tổ chức bài học trên lớp thông qua giao tiếp giữa giáo viên và
học sinh có sử dụng ngôn ngữ DTTS 69
3.2.2. Dạy tiếng DTTS như một môn học tự chọn 71
3.2.3. Thăm quan học tập 72
3.2.4. Học nhóm 73

3.3. Mối quan hệ giữa các hình thức 74
3.4. Khảo sát về tính cần thiết và tính khả thi của các hình thức 74
3.4.1. Mục đích khảo sát 74
3.4.2. Đối tượng khảo sát 74
3.4.3. Nội dung khảo sát 75
3.4.4. Phương pháp khảo sát 75
3.4.5. Kết quả khảo sát 75
Kết luận chương 3 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC




Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Viết đầy đủ
Viết tắt
1
Cán bộ quản lý
CBQL
2
Dân tộc

DT
3
Học sinh
HS
4
Thiểu số
TS
5
Trung bình cộng (mức độ)
X





Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 2.1: Khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ của học sinh dân tộc thiểu số 42
Bảng 2.2: Hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số của phụ huynh
học sinh 49
Bảng 2.3: Hoàn cảnh sử dụng tiếng mẹ đẻ của học sinh người dân tộc
thiểu số 50
Bảng 2.4: Mức độ cần thiết của việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số
trong dạy học 51

Bảng 2.5: Những ngôn ngữ học sinh nên học ở nhà trường trong giai đoạn
hiện nay 52

Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


vi


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Khả năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số của phụ huynh
học sinh 43
Biểu đồ 2.2: Các kênh thông tin sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại địa
phương mà phụ huynh được tiếp xúc 44
Biểu đồ 2.3 : Các kênh thông tin sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại địa
phương mà học sinh được tiếp xúc 46
Biểu đồ 2.4: Khả năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số của giáo viên 54
Biểu đồ 2.5: Mức độ hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số
trong quá trình dạy học 56
Biểu đồ 2.6: Mức độ sử dụng và mức độ hiệu quả của các hình thức sử dụng
ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học 58
Biểu đồ 3.1: Ý kiến của giáo viên về mức độ cần thiết của các hình thức 75
Biểu đồ 3.2: Ý kiến của giáo viên về mức độ khả thi của các hình thức 77
Biểu đồ 3.3: Ý kiến của giáo viên về mức độ hiệu quả của các hình thức 78



Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xu thế toàn cầu hoá đã và đang mang lại những thay đổi trên quy mô
toàn thế giới mà phần nổi dễ được nhận biết đó là sự thay đổi về kinh
tế. Cùng với dòng chảy toàn cầu hoá đối với kinh tế là toàn cầu hoá đối với
khoa học, công nghệ, thông tin, văn hoá và ngôn ngữ. Ngôn ngữ với tư cách
vừa là công cụ giao tiếp vừa là một phần của văn hoá, có chức năng phản ánh
mọi đổi thay của xã hội, đồng thời có chức năng tác động vào xã hội, góp
phần làm thay đổi xã hội như một xung lực. Cũng như đối với kinh tế và các
lĩnh khác khác, toàn cầu hoá có tác động cả tích cực và tiêu cực đến ngôn
ngữ. Sự gia tăng các cuộc tiếp xúc giữa các quốc gia, DT ở mọi lĩnh vực trong
đó đặc biệt có sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá đã tác động mạnh mẽ đến tiếp
xúc ngôn ngữ. Hệ quả của các cuộc tiếp xúc này đã hình thành một xu hướng
chung là, ngôn ngữ của các quốc gia lớn hơn, có nền kinh tế phát triển mạnh
hơn cũng như ngôn ngữ của các DT phát triển mạnh hơn sẽ tác động đến ngôn
ngữ của các quốc gia, DT còn lại. Kết quả của sự tác động này có thể làm cho
ngôn ngữ các DTTS nghèo đi và tất yếu sẽ dẫn tới nguy cơ suy thoái.
Việt Nam là một quốc gia đa DT. Trong 54 DT, tuy có khác nhau về
quy mô dân số, trình độ phát triển kinh tế- xã hội, nhưng mỗi DT đều có bản
sắc văn hóa truyền thống với phong tục, tập quán, ngôn ngữ riêng, tạo nên sự
phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam. Trong đó có 53 DTTS với trên 13
triệu người, chiếm 13,8% dân số cả nước. Mỗi DT đều có tiếng nói riêng, một
số DT có chữ viết riêng (gần 30 DTTS có chữ viết, tiêu biểu như: Tày, Thái,
Hoa, Khơme, Nùng, H’Mông, Giarai, Êđê, Bana,…). Tuy nhiên, ngôn ngữ
các DT ở nước ta phát triển không đồng đều, ngoài ngôn ngữ phổ thông, một
số ngôn ngữ DTTS đang có nguy cơ bị mai một.
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn



2
Trong suốt thời kỳ đấu tranh cách mạng, giành độc lập tự do cho DT
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chữ
quốc ngữ luôn đồng hành cùng với mọi thắng lợi của cuộc cách mạng. Song
song với dạy và học chữ quốc ngữ, Đảng và Chính phủ cũng rất quan tâm đến
bảo tồn và phát huy ngôn ngữ, chữ viết của các DTTS. Có rất nhiều văn bản
pháp luật có nội dung liên quan đến công tác bảo tồn, phát huy việc học và
dạy ngôn ngữ, chữ viết của các DTTS. Mới đây nhất, ngày 14/1/2011, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về Công tác DT, trong đó
khẳng định một trong những nguyên tắc cơ bản của công tác DT là: “Đảm
bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc”.
Nghị định 05/2011/NĐ-CP cũng đề cập đến chính sách phát triển giáo dục
và đào tạo đối với các DTTS đã khẳng định: "Tiếng nói, chữ viết và
truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa vào chương trình
giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú,
phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng
và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc".
Đông Bắc là vùng lãnh thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng sông
Hồng, Việt Nam, là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu
vùng kia là vùng Tây Bắc và đồng bằng sông Hồng ). Đây là vùng có vị trí
chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng.
Với những nét đặc thù về tự nhiên, lịch sử- xã hội, lại là nơi sinh sống của
nhiều đồng bào DTTS, Đông Bắc là vùng có nền văn hoá, ngôn ngữ phong
phú, đa dạng và đặc sắc. Ngày nay, ngôn ngữ DTTS đã, đang và sẽ tiếp tục
chịu một sức ép rất lớn trước ngôn ngữ của DT đa số để tồn tại. Bên cạnh
đó, một bộ phận người DTTS cũng từ bỏ phong tục của mình và hòa nhập

với những người không cùng ngôn ngữ. Bởi thế, họ càng ít có cơ hội để sử
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


3
dụng tiếng mẹ đẻ. Kết quả là ngôn ngữ của họ dần bị quên lãng và biến mất
theo mức độ và thời gian hội nhập.
Nhận thức được vị trí, vai trò của ngôn ngữ DTTS trong việc duy
trì và phát triển văn hoá của đồng bào DTTS. Ở một số địa phương đã và
đang đưa tiếng DTTS vào trong nhà trường, thực hiện quá trình dạy học
và giáo dục học sinh bằng cả ngôn ngữ phổ thông và ngôn ngữ DTTS
nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho học sinh DTTS hình thành và phát
triển nhân cách. Tuy nhiên việc đưa ngôn ngữ DTTS vào quá trình dạy
học cũng gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại về nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức,…
Như vậy, bảo tồn ngôn ngữ DTTS nói chung, bảo tồn ngôn ngữ DTTS
ở vùng Đông Bắc nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng. Ngôn ngữ tộc người
có được duy trì và phát triển hay không phụ thuộc phần nhiều vào chính đồng
bào DTTS, đặc biệt là thế hệ trẻ, những người có vai trò quyết định đối với sự
tồn vong của nền văn hoá, ngôn ngữ tộc người trong tương lai.
Xuất phát từ những điều đã trình bày trên đây cũng như góp phần bảo
tồn văn hoá, ngôn ngữ DTTS, nâng cao chất lượng đào tạo học sinh DTTS, tôi
đã lựa chọn: “Các hình thức bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dạy học
ở trường tiểu học vùng Đông Bắc Việt Nam” làm vấn đề nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về việc bảo tồn ngôn ngữ
DTTS trong dạy học ở trường tiểu học vùng Đông Bắc Việt Nam nhằm đề
xuất một số hình thức bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy học ở trường
tiểu học. Qua đó, góp phần bảo tồn ngôn ngữ DTTS và nâng cao chất
lượng đào tạo HS nói chung, HS DTTS nói riêng.

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong quá trình dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc Việt Nam.
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


4
Đối tượng nghiên cứu: Các hình thức bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy
học ở trường tiểu học vùng Đông Bắc Việt Nam.
4. Giả thuyết khoa học
Bảo tồn ngôn ngữ DTTS có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình dạy học ở trường tiểu học. Nếu đề xuất được một hệ thống các hình thức
tổ chức tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng bảo tồn ngôn ngữ DTTS vùng
Đông Bắc Việt Nam trong điều kiện hội nhập hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy
học ở trường tiểu học.
Khảo sát thực trạng hoạt động bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc.
Xây dựng một số hình thức bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc Việt Nam.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Nội dung
Luận văn đi sâu nghiên cứu, đề xuất một số hình thức bảo tồn tiếng nói
của đồng bào DTTS trong dạy học ở trường tiểu học vùng Đông Bắc.
6.2. Khách thể điều tra
Đông Bắc là một vùng rộng lớn bao gồm nhiều tỉnh. Do thời gian hạn
hẹp nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng các hình thức bảo tồn ngôn
ngữ DTTS trong dạy học tại tỉnh Thái Nguyên, cụ thể là ở 2 trường tiểu học
Hoá Thượng 1 và Linh Sơn (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên).

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá, phân tích tài liệu lý thuyết liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


5
Phương pháp điều tra bằng ankét, phương pháp quan sát, phương pháp
trò chuyện, phương pháp chuyên gia, phương pháp thống kê.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong quá
trình dạy học ở trường tiểu học.
Chương 2: Thực trạng bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy học ở trường tiểu
học vùng Đông Bắc.
Chương 3: Một số hình thức bảo tồn ngôn ngữ DTTS trong dạy học ở
trường tiểu học vùng Đông Bắc.
Ngoài ra, luận văn còn có phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài
liệu tham khảo và Phụ lục.








Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn



6

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ BẢO TỒN NGÔN NGỮ
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, trên thế giới có gần 7000 thứ tiếng khác nhau, song số lượng
ngôn ngữ được nói trên trái đất đang có xu hướng giảm nhanh. Theo đánh giá
của UNESCO, có khả năng đến cuối thế kỷ XXI, số lượng các thứ tiếng khác
nhau sẽ giảm còn một nửa. Mỗi tháng, trên thế giới mất đi hai ngôn ngữ, mà
phần đông là những thứ tiếng của các DTTS. Có tới 96% ngôn ngữ chỉ được
4% dân số thế giới nói. Chính vì vậy UNESCO quyết định lấy ngày 21 tháng
2 là Ngày tiếng mẹ đẻ quốc tế nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về
tầm quan trọng của sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ.
1.1.1. Những nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Mác – Lê-nin coi những vấn đề về chính sách ngôn ngữ nói chung và
ngôn ngữ các DTTS nói riêng là vấn đề sống còn của một quốc gia. Trên cơ
sở những tư tưởng vĩ đại của Mác – Ăng ghen, Lê-nin đã kế thừa và phát triển
mang tính biện chứng vấn đề về DT và chính sách ngôn ngữ.
Theo Lê-nin, sử dụng tiếng mẹ đẻ là quyền của các DT trong quốc gia
đa DT, đa ngôn ngữ. Người viết: “Một nhà nước dân chủ phải thừa nhận vô
điều kiện quyền tự do hoàn toàn của các ngôn ngữ dân tộc khác nhau và gạt
bỏ bất cứ đặc quyền nào của một trong những ngôn ngữ đó”. [25, tr 50]
Là nhà tư tưởng dân chủ triệt để, Lê-nin phản đối việc bắt buộc sử dụng
một ngôn ngữ đối với mọi người dân. Người cho rằng mọi người đều yêu Tổ
quốc của mình, đồng thời họ cũng yêu tiếng nói của DT mình, sự bắt buộc

người dân phải nói ngôn ngữ khác không phải là ngôn ngữ DT mình sẽ làm
cho họ đánh mất tình cảm và lòng tự hào DT. Chính vì vậy, Lê-nin đã đưa
quyền học tập bằng tiếng mẹ đẻ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


7
điều kiện cho người DT học tập bằng tiếng mẹ đẻ vào cương lĩnh của Đảng
Cộng sản Liên Xô.
Ở Nga, đạo luật về ngôn ngữ của Liên bang Nga được thông qua năm
1990 công nhận rằng tất cả các ngôn ngữ là một phần di sản văn hoá, lịch sử
DT được Nhà nước bảo hộ. Nhà nước thực hiện một chính sách ngôn ngữ trên
cơ sở khoa học có khả năng bảo tồn mọi ngôn ngữ của các DT Nga và đảm
bảo sự phát triển và nghiên cứu ngang bằng tất cả các ngôn ngữ đó. Mọi sự
tuyên truyền thù địch và xúc phạm bất kỳ ngôn ngữ nào cũng đều bị ngăn
cấm. Đạo luật chú ý đặc biệt tới việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các
DT ít người. [14, tr 120]
Trung Quốc là một quốc gia đa DT, các DTTS có số lượng quá ít so
với DT đa số nhưng lại chiếm tới 60% lãnh thổ của đất nước. Mỗi DT có
ngôn ngữ riêng dẫn tới tình trạng đa ngữ ở nước này. Cùng với sự phân
tán lãnh thổ của ngôn ngữ các DT, tình trạng khác biệt giữa nhiều vùng
khác nhau của ngôn ngữ phổ thông là đặc điểm quan trọng ảnh hưởng tới
chính sách ngôn ngữ của quốc gia này. Chính vì vậy, chính phủ nước này
thực hiện phương châm là bình đẳng trong quyền lợi và trách nhiệm giữa
các DT. Theo phương châm đó, chính sách bình đẳng ngôn ngữ được lựa
chọn và được hợp thức hoá về mặt pháp luật. Điều 4, Hiến pháp 1984 của
quốc gia này nêu rõ: “Mọi dân tộc đều có quyền tự do sử dụng và phát
triển ngôn ngữ và chữ viết riêng của mình”. Trong đạo luật của nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1984 về vấn đề tự trị của các DT, Nhà
nước đã có những quy định cụ thể về chính sách ngôn ngữ. Trong điều 49

của đạo luật này, Nhà nước “nêu yêu cầu có sự học tập qua lại của các
ngôn ngữ, nghĩa là các cán bộ không phải là dân tộc Hán cần học tập và
sử dụng tiếng Hán, còn những người dân tộc Hán thì phải học ngôn ngữ
dân tộc của các vùng mà họ đang cư trú”. Như vậy, quy định trên đã nêu
một giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm sự bình đẳng thật sự về ngôn ngữ ở
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


8
quốc gia đa DT này. Qua đó, góp phần giữ gìn và phát triển ngôn ngữ của
các DT, đặc biệt là ngôn ngữ của các DTTS. [14, tr 126]
Singapore là một quốc gia sử dụng nhiều ngôn ngữ. Trong đó, 75%
số dân nói tiếng Trung Quốc, 15% nói tiếng Melayu và 7% nói các thứ
tiếng Ấn Độ. Chính sách giáo dục trẻ em của Singapore quan tâm tới
định hướng không quên cội nguồn trong khi vẫn tiếp tục đổi mới và duy
trì khả năng phát triển công nghệ. Ở trường, HS được học ít nhất là hai
thứ tiếng: Tiếng anh và tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ có thể là tiếng Tamin,
tiếng Hoa hoặc là tiếng Melayu rất được chú trọng. Cách làm của Chính
phủ Singapore thể hiện sự cố gắng nhằm gìn giữ và phát triển các giá trị
văn hoá riêng của các DT sống trên lãnh thổ của quốc gia này. Với một
bối cảnh ngôn ngữ trong đó người Trung Quốc chiếm số đông, nhưng
ngôn ngữ của các DTTS khác vẫn được sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày và giảng dạy trong nhà trường mà không cản trở sự phát triển bền
vững của xã hội. Ngược lại, tình trạng đó lại làm tăng thêm nét văn hoá
độc đáo của đất nước, đồng thời góp phần quan trọng cho quá trình bảo
tồn và phát triển ngôn ngữ DT. [14, tr 151]
Ở Tây Ban Nha, Chính phủ thiết kế chương trình giáo dục dành cho
cộng đồng DTTS nhằm mục đích đưa tiếng DTTS xứ Catalan và xứ
Basque vào trong giảng dạy cùng với tiếng Tây Ban Nha. Ví dụ như
chương trình ở xứ Catalan được thiết kế theo ba kiểu với các đặc điểm

sau: (a) Dạy bằng tiếng Tây Ban Nha, còn tiếng Catalan được dạy như
một môn học; (b) Dạy bằng tiếng Catalan, còn tiếng Tây Ban Nha được
dạy như một môn học; (c) Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng như một
phương tiện dạy học chủ yếu, tiếng Catalan được dạy như một môn học và
dần dần được dạy cho phần lớn các khoá học. Như vậy, các DTTS trong
vùng được học tập bằng cả ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ phổ thông. Qua
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


9
đó, cộng đồng DTTS nơi đây vừa bảo tồn được ngôn ngữ của DT mình
mà vẫn theo kịp sự phát triển của các DT đa số khác. [14, tr 159]
Google- một công ty Internet tầm cỡ thế giới có trụ sở tại Hoa Kỳ đang
thực hiện một dự án có tên “Những ngôn ngữ có nguy cơ biến mất” nhằm bảo
vệ hơn 3.000 ngôn ngữ thoát khỏi nguy cơ "tuyệt chủng". Trang web của dự
án có tên endangeredlanguages.com là nơi phối hợp trực tuyến nhằm bảo vệ
tính đa dạng của ngôn ngữ trên thế giới. Thông qua trang web này mọi người
có thể kiểm tra và chia sẻ nội dung về các ngôn ngữ có nguy cơ biến mất. Ông
Rissman- người thực hiện dự án cho biết người sử dụng có thể tải lên trang
web này các đoạn video, âm thanh hay những văn bản về các loại ngôn ngữ
hiếm gặp, đồng thời nhấn mạnh việc bảo vệ hơn 3000 ngôn ngữ có nguy cơ
biến mất này chính là bảo vệ tính đa dạng của văn hóa. Nó thể hiện sự tôn
trọng những lớp người đi trước và cũng là sự khích lệ đối với thế hệ trẻ. [28]
1.1.2. Những nghiên cứu trong nƣớc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, DT Việt Nam luôn phát huy tinh
thần anh dũng, kiên cường, bất khuất, không cúi đầu trước bất kỳ kẻ thù
xâm lược nào. Cũng trong quá trình ấy, DT Việt Nam ý thức rất rõ ràng
về lòng tự hào, tự tôn DT, trong đó có việc bảo tồn, phát huy vốn ngôn
ngữ, chữ viết riêng. Có rất nhiều hội thảo, công trình nghiên cứu khoa
học, bài báo bàn về vấn đề ngôn ngữ và bảo tồn ngôn ngữ DTTS, có thể

kể đến một số công trình như sau:
Công trình “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá một số
dân tộc thiểu số ở Việt Bắc” của tác giả Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) đã khẳng
định: “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá các DTTS không chỉ là nhu cầu,
nguyện vọng của đồng bào DTTS mà còn là nhu cầu, nguyện vọng của mọi quốc
gia, dân tộc trong xu thế phát triển bền vững hiện nay. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường và giao lưu hội nhập toàn cầu hoá, văn hoá ngôn ngữ các DT bên
cạnh việc tiếp thu được những yếu tố tích cực tiên tiến, cũng không thể tránh
khỏi những tác động tiêu cực làm suy giảm, tổn hại những giá trị, bản sắc vốn
có. Trước thực tế đó, để bảo tồn, phát huy những giá trị ngôn ngữ, văn hoá của
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


10
các DTTS, cần phải tiến hành triển khai đồng bộ các giải pháp: Về pháp chế, về
tổ chức quản lý, về chuyên môn, về giáo dục- đào tạo,…”. [14, tr 747]
Khi nghiên cứu “Thực trạng sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu
số và vấn đề đặt ra cho giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường ở Việt Bắc”, tác
giả Trần Trí Dõi và Nguyễn Văn Lộc nhận thấy rằng: Có dấu hiệu những
người DT gắn liền với đô thị hóa giảm dần việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của
mình. Nói cách khác, kinh tế xã hội càng phát triển, sự mai một tiếng mẹ đẻ
trong cộng đồng DT càng lớn. Bên cạnh đó, hiện nay lớp trẻ của cộng đồng
DT sử dụng tiếng mẹ đẻ không bằng những người đã ở tuổi trưởng thành. Nếu
tình hình này tiếp tục tiếp diễn, đến một giai đoạn nhất định, tiếng mẹ đẻ
trong cộng đồng sẽ bị mai một mà không thể tránh khỏi. [5, tr 191]
Tác giả Trần Trí Dõi trong bài báo cáo “Chính sách ngôn ngữ dân tộc
thiểu số Việt Nam và giá trị của nó trong phát triển bền vững vùng lãnh thổ”
cho rằng người DT sử dụng thành thạo tiếng phổ thông sẽ là nguồn nhân lực
có trình độ lao động cao hơn, có thu nhập xã hội cao hơn. Người đồng thời sử
dụng thành thạo tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ sẽ có đời sống văn hoá phong

phú và đa dạng hơn. Chính vì thế, ở Việt Nam, người DTTS có nhu cầu cao
trong việc sử dụng cả tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ của mình. Và đồng thời
người ta cũng nhận ra vai trò nghiêng về chức năng “Phát triển” kinh tế- xã
hội đối với tiếng phổ thông và ưu tiên về chức năng “Nâng cao giá trị văn
hoá” cho việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình đối với người DT. [4]
Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên đã thông qua “Đề án dạy tiếng Thái,
Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011- 2015, định
hướng đến năm 2020”, do Sở GD – ĐT tỉnh Điện Biên thực hiện. Đề án nhằm
mục tiêu bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của DT Thái, Mông trên địa bàn
tỉnh Điện Biên. Theo đó sẽ hoàn chỉnh bộ chương trình và tài liệu dạy tiếng
Thái, Mông; triển khai thực hiện chương trình dạy cho HSTH, trung học cơ
sở theo quy mô, nội dung và lộ trình; đào tạo đội ngũ cán bộ giáo viên dạy
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


11
tiếng Thái, Mông phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu tiếng DT…Đề án
thống nhất, đối với tiếng Thái sẽ sử dụng ngôn ngữ ngành Thái đen (Tay
Đăm) và mẫu chữ Thái cổ; đối với tiếng Mông thì sử dụng ngôn ngữ ngành
Mông đỏ (Mông Lềnh - Mông Hoa) và sử dụng mẫu chữ do Bộ GD-ĐT quy
định. Theo đánh giá của Ban dân tộc tỉnh Điện Biên việc triển khai đề án để
bảo tồn, phát huy chữ viết, ngôn ngữ Thái, Mông là nhu cầu cấp thiết. Vì vậy,
ngoài yêu cầu có một bộ sách giáo khoa chuẩn, đòi hỏi nguồn giáo viên tham
gia công tác giảng dạy phải được sàng lọc kỹ, hội tụ các yếu tố tâm huyết, yêu
nghề, hiểu biết văn hóa DT. [22]
Hội thảo ngôn ngữ học toàn quốc "Chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế" được tổ chức vào ngày 26,27/11/2009 đã đề cập tới vai trò,
chức năng của ngôn ngữ DTTS trong đời sống của mỗi DT và trong việc giữ
gìn bản sắc văn hoá DT. Hội thảo làm rõ một số vấn đề chính sau: Chức năng

của các ngôn ngữ DTTS trong giao tiếp nội bộ DT; mối quan hệ giữa tiếng
Việt và ngôn ngữ các DTTS tại vùng DTTS; việc bảo tồn và phát huy tiếng
nói chữ viết các ngôn ngữ DTTS ở Việt Nam. [12]
Ngày 17 tháng 12 năm 2010, tại Hà Nội , Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội cùng với Trường Đại học
Bansomdejchaopraya Rajabhat, Thái Lan phối hợp tổ chức Hội thảo quốc tế
"Bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc phục vụ phát triển bền vững”, vấn
đề ngôn ngữ tại vùng DTTS được bàn luận sôi nổi tại hội thảo, trong đó có
những nội dung đáng chú ý là: Tình hình đô thị hoá đang làm cho việc sử
dụng tiếng DT giảm đi rõ rệt; xu hướng thanh niên DTTS không biết tiếng mẹ
đẻ ngày một tăng; khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh DT còn yếu, điều
kiện học tập của học sinh DT còn gặp nhiều khó khăn; ngôn ngữ DTTS với tư
cách là ngôn ngữ vùng ngày càng "mờ" thay vào đó là tiếng Việt. [13]
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


12
Bảo vệ ngôn ngữ các DT chính là bảo vệ bản sắc văn hóa DT, mất một
ngôn ngữ là thế giới mất đi một phần đa dạng văn hóa nhân loại. Hơn nữa,
chính con người chịu sự tác động trực tiếp của hậu quả tiêu vong ngôn ngữ.
Mất ngôn ngữ là mất đi nét đặc thù của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Mất
ngôn ngữ có thể đưa đến những mất mát khác như gia đình bị tan vỡ, thất bại
trong giáo dục nhà trường, xã hội bị xáo trộn, Các ngôn ngữ bị đe dọa tiêu
vong chỉ xảy ra ở những cộng đồng có vị thế xã hội thấp, kém phát triển, nói
rõ hơn là những sắc dân rất cần tựa vào văn hóa truyền thống để sống còn và
để nói lên sự có mặt của mình ( bởi họ không có một nền văn minh khoa học,
kỹ thuật để phô trương). Do đó bảo vệ, duy trì các ngôn ngữ còn mang ý
nghĩa nhân bản, nhân quyền.
1.1.3. Chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề dân tộc và
ngôn ngữ dân tộc

1.1.3.1. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề DT và thực
tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như
dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta
ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn coi vấn đề DT và xây dựng khối đại
đoàn kết toàn DT có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Nước Việt Nam là một, DT Việt Nam là một, đồng bào các DT đều là anh em
ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ
thiêng liêng của các DT. Người còn khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Trong mỗi thời kỳ cách
mạng, Đảng và Nhà nước luôn coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề DT là
nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như
tiềm năng của từng DT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chính sách DT là hệ thống các quan điểm chính trị của một giai cấp,
đại diện là chính đảng và nhà nước của nó, để giải quyết mối quan hệ giữa các
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


13
DT. Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, các nguyên tắc cơ bản của chính sách
DT đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Trong thời kỳ đổi mới, các
nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ sung thêm. Nếu như
trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh:
Đoàn kết, bình đẳng giữa các DT thì từ Đại hội VI trở đi các nguyên tắc này
đã được xác định là: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI,
VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X). [7]
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước, hơn 70 năm
qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách đúng đắn về vấn đề DT.

Đường lối chính sách của Đảng đã được thể chế hoá bằng Hiến pháp và các chính
sách cụ thể của Chính phủ. Điều 5 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1980 ghi rõ: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối
đoàn kết toàn dân, ngăn cấm mọi hành vi miệt thị chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”[9]. Điều này đã được
khẳng định lại một lần nữa trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, qua đó chỉ rõ vị trí, quyền lợi, nghĩa vụ của các DT cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam, nguyên tắc cơ bản về mối quan hệ giữa các DT và
mục tiêu đưa DTTS đứng lên.
Nghị quyết số 03/NQ- TƯ ngày 16/7/1998 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá 8) về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc DT cũng đã thể hiện sự nhất quán trong chính sách DT
của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực văn hoá: “Nền văn hoá Việt Nam là
nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


14
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Các
giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam
và củng cố thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy
tính đa dạng văn hoá của các dân tộc anh em”. [2, tr 18]
Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu
rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ
nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản
xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đi đôi với “Giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng”, kiên quyết “Chống kỳ
thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực
đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”. [6]
Ngoài ra còn có những văn bản quan trọng có liên quan đến miền núi
và vùng DT đã được ban hành: Nghị quyết Bộ Chính trị số 22- NQ/TƯ,
(ngày 27/11/1989)- Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh
tế- xã hội miền núi; Nghị quyết số 23 Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung ương khoá IX (ngày 12/3/2003) về công tác DT trong
thời kì đổi mới, tiếp tục thể hiện sự nhất quán trong đường lối chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước về vấn đề DT .
Như vậy, chính sách DT của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện,
tổng hợp, xuyên suốt các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi DT
và quan hệ giữa các DT trong cả cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế- xã
hội của các DT là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình
đẳng DT, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các DT. Do đó, chính sách DT còn mang tính cách mạng và tiến bộ,
đồng thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì nó không bỏ sót bất cứ DT nào,
Số hóa bởi trung tâm học liệu www: \\lrc-tnu.edu.vn


15
không cho phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ DT; nó tôn trọng
quyền làm chủ của mỗi người và quyền tự quyết của các DT . Mặt khác, nó
còn nhằm phát huy nội lực của mỗi DT kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả
của các DT anh em trong cả nước.
1.1.3.2. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề ngôn ngữ
dân tộc
Việt Nam là quốc gia đa DT thống nhất gồm 54 DT, nhưng người Kinh

chiếm gần 87% dân số cả nước, các DT còn lại chiếm khoảng 13% dân số. Trước
Cách mạng tháng Tám, tiếng Pháp giữ vị trí ngôn ngữ chính thức ở Việt Nam,
được sử dụng trong hành chính và giáo dục. Tiếng Việt tuy đã phát triển nhưng
chỉ được dùng trong báo chí, văn học nghệ thuật. Cách mạng Tháng Tám thành
công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ
quốc gia, ngôn ngữ chính thức của Việt Nam. Từ đây, tiếng Việt được sử dụng ở
tất cả các lĩnh vực hoạt động của người Việt Nam, từ công văn, giấy tờ hành chính
ở trung ương và địa phương đến giáo dục, văn hoá và khoa học, từ công sở,
trường học đến toà án, quân đội đều sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, Đảng và Nhà
nước ý thức rõ rằng "Những nhu cầu về kinh tế sẽ tự quyết định ra một ngôn ngữ
chung cho toàn quốc, ngôn ngữ mà đa số người vì lợi ích liên hệ mậu dịch sẽ thấy
là có lợi nếu biết được ngôn ngữ đó". [26, tr 95]
Bên cạnh việc xác định vai trò ngôn ngữ phổ thông của tiếng Việt,
Đảng và Nhà nước còn hết sức quan tâm đến ngôn ngữ của các DTTS, Đảng
và Nhà nước chủ trương tôn trọng tiếng mẹ đẻ của các DT, bảo đảm sự phát
triển tự do và bình đẳng của tất cả các ngôn ngữ DT ở Việt Nam. Hiến pháp
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 9/11/1946, có viết:
– "Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học
bằng tiếng của mình" (điều 15). [11]
– "Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án"
(điều 66). [11]

×