Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Điều tra, đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 176 trang )


Uỷ ban dân tộc








Báo cáo tổng hợp dự án


điều tra, đánh giá thực trạng đội ngũ
trí thức ngời dân tộc thiểu số
trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá



Cơ quan quản lý Dự án
: Uỷ ban Dân tộc
Đơn vị thực hiện Dự án
: Trờng Cán bộ dân tộc
Chủ nhiệm Dự án
: TS. Trịnh Quang Cảnh
Th ký Dự án
: ThS. Nguyễn Văn Dũng












7144
02/3/2009


Hà nội, tháng 01 năm 2009


Danh mục các chữ viết tắt



BCH : Ban Chấp hành
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DTTS : Dân tộc thiểu số
HCSN : Hành chính sự nghiệp
HTCT : Hệ thống chính trị
KHKT : Khoa học kỹ thuật
PGS : Phó giáo s
TW : Trung ơng
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông

TS : Tiến sĩ
UBDT : Uỷ ban Dân tộc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
WTO : World Trade Organization
(Tổ chứcThơng mại thế giới)

Mục lục

Trang

Mở đầu
1
Phần I: Một số vấn đề chung về Trí thức - Trí thức ngời DTTS
6
1. Một số khái niệm
6
2. Đặc điểm tình hình phát triển kinh tế-xã hội đất nớc nói chung và vùng
DTTS nói riêng trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay
11

3. Vai trò của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số
16

Phần II: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS hiện nay
23

Vấn đề thứ nhất: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS ở 3 tỉnh
Lai Châu, Gia Lai, An Giang

23


1. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh Lai Châu trong thời kỳ CNH, HĐH
23
2. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh Gia Lai trong thời kỳ CNH, HĐH
32
3. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh An Giang trong thời kỳ CNH, HĐH
45

Vấn đề thứ hai: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS trong cả nớc
53
1. Thực trạng về số lợng và đánh giá số lợng đội ngũ trí thức ngời DTTS
53
2. Thực trạng về chất lợng và đánh giá về chất lợng đội ngũ trí thức ngời DTTS
60
3. Thực trạng về điều kiện sống, điều kiện làm việc và nguyện vọng của đội ngũ
trí thức ngời DTTS
67

4. Thực trạng về cơ cấu, phân bố đội ngũ trí thức ngời DTTS
69
5. Thực trạng về công tác đào tạo, quản lý đội ngũ trí thức ngời DTTS
75
6. Vấn đề đặt ra cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức ngời DTTS
trong sự nghiệp CNH, HĐH
78


Phần III: định hớng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ trí thức ngời DTTS trong thời kỳ CNH, HĐH
ở vùng núi, vùng DTTS


97

A.
Định hớng cơ bản
97

Vấn đề thứ nhất: Quan điểm của Đảng và Nhà nớc về sự phát triển đội ngũ
trí thức ngời DTTS trong cách mạng Việt Nam
97

Vấn đề thứ hai: Quan điểm Nghị quyết Đại hội X về trí thức và hớng phát
triển vùng dân tộc và miền núi.
113




B.
Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngời DTTS trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vùng núi, vùng DTTS
115

Vấn đề thứ nhất: Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức cho 3 vùng: Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ
115


Vấn đề thứ hai: Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số trong
thời kỳ CNH, HĐH

120


Kết luận.
137

Tài liệu tham khảo
139





1
Mở đầu

I. Tính cấp thiết của Dự án
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang tác động mạnh mẽ
đến đời sống của mọi quốc gia trên thế giới. Sự phát triển nhanh chóng của cách
mạng này và việc ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của nó vào phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội có ý nghĩa to lớn đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trí tuệ đã trở
thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Điều đó cũng đồng
thời khẳng định vai trò to lớn của tầng lớp trí thức nói chung, trí thức ngời
dân tộc thiểu số nói riêng đối với tiến trình phát triển của các quốc gia và từng
dân tộc thiểu số.
Trên đất nớc ta có 54 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có những dân tộc
thiểu số đã có đội ngũ trí thức của mình với tính cách là bộ phận của tầng lớp trí
thức Việt Nam. Đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số góp phần to lớn thực hiện
thắng lợi đờng lối của Đảng, chính sách của Nhà nớc ở địa phơng phù hợp với
điều kiện dân tộc mình. Đội ngũ này đã lý giải các quan điểm của Đảng về xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm rõ cơ sở khoa học của việc lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng của Đảng ta. Từ đó, góp
phần hoạch định chủ trơng phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, vùng dân tộc thiểu
số góp phần to lớn thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nớc, địa phơng phù hợp
từng dân tộc. Đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh
của vùng núi, vùng dân tộc thiểu số. Trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội X của
Đảng chỉ rõ: Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ
tạo bớc đột phá về chất lợng, hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh vực của nền
kinh tế Chú trọng công tác đào tạo và bổ sung cơ chế, chính sách sử dụng, đãi
ngộ cán bộ khoa học và trọng dụng nhân tài [1].
Thực tiễn công cuộc đổi mới đang đặt ra cho đội ngũ trí thức ngời dân tộc
thiểu số những nhiệm vụ lớn lao cần giải quyết. Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số (DTTS) đang đặt
ra những đòi hỏi có tính bức thiết. Từ thực trạng đội ngũ trí thức ngời dân tộc
thiểu số còn thiếu về số lợng, yếu về chất lợng, cơ cấu ch
a hợp lý. Do vậy, đội
ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số cần phải đợc nghiên cứu, xây dựng thành đội
ngũ lớn mạnh, có đủ lực lợng đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời kỳ mới.
II. Mục tiêu của Dự án
- Trên cơ sở đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức ngời dân
tộc thiểu số tại 3 tỉnh Lai Châu, Gia Lai, An Giang ở nớc ta hiện nay để đa ra
đánh giá chung về số lợng, chất lợng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số.


1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb.CTQG, 2006, Tr.210-211.


2
- Xác định nguyên nhân, từ đó làm cơ sở để đề xuất một số định hớng và

giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số trong thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng núi, vùng dân tộc
thiểu số.
III. Phạm vi và đối tợng điều tra
1. Phạm vi điều tra
- Phạm vi không gian:
+ Tây Bắc: Chọn tỉnh Lai Châu (Mỗi tỉnh chọn một huyện).
+ Tây Nguyên: Chọn tỉnh Gia Lai (Mỗi tỉnh chọn một huyện).
+ Tây Nam Bộ: Chọn tỉnh An Giang (Mỗi tỉnh chọn một huyện).
- Phạm vi thời gian:
+ Điều tra, đánh giá thực trạng năm 2008.
+ Đề xuất kiến nghị và giải pháp cho giai đoạn 2010- 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Phạm vi vấn đề:
+ Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất một số định hớng và giải pháp
chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
2. Đối tợng điều tra
- Là cán bộ dân tộc thiểu số có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên công tác
tại các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, các viện nghiên cứu
IV. Phơng pháp điều tra
1. Phơng pháp điều tra bằng bảng hỏi
2. Phơng pháp phỏng vấn sâu
3. Phơng pháp kế thừa
4. Phơng pháp chuyên khảo
5. Phơng pháp chuyên gia
- Điều tra, khảo sát điểm
- Toạ đàm
- Tổ chức hội thảo chuyên ngành
6. Phơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánh.
7. Phơng pháp xử lý và phân tích thông tin

V. Nội dung của điều tra (3 nội dung)
Phần I: Một số vấn đề chung về Trí thức - Trí thức ngời dân tộc thiểu số
1. Một số khái niệm
2. Đặc điểm tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nớc nói chung và vùng dân
tộc thiểu số nói riêng trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay.
3. Vai trò của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số

3
Phần II: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số hiện nay
Vấn đề thứ nhất: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS ở ba tỉnh:
Lai Châu, Gia Lai, An Giang

1. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh Lai Châu trong thời kỳ CNH, HĐH
2. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh Gia Lai trong thời kỳ CNH, HĐH
3. Thực trạng đội ngũ trí thức ngời DTTS tỉnh An Giang trong thời kỳ CNH, HĐH
Vấn đề thứ hai: Thực trạng đội ngũ trí thức ngời dân tộc
thiểu số trong cả nớc
1. Thực trạng về số lợng và đánh giá số lợng đội ngũ trí thức ngời DTTS
2. Thực trạng về chất lợng và đánh giá chất lợng trí thức ngời dân tộc thiểu số
3. Thực trạng về điều kiện sống, điều kiện làm việc và nguyện vọng của đội ngũ trí
thức ngời dân tộc thiểu số
4. Thực trạng về cơ cấu, phân bố đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số
5. Thực trạng về công tác đào tạo, quản lý đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số
6. Vấn đề đặt ra cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp CNH, HĐH
- Vấn đề đặt ra.
- Xu thế vận động, phát triển của đội ngũ trí thức ngời DTTS trong thời kỳ
CNH, HĐH.
- Yêu cầu phát triển của đội ngũ trí thức ngời DTTS trong thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Phần III : Định hớng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số trong thời kỳ
cNH, hĐH ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số
A. Định hớng cơ bản
Vấn đề thứ nhất: Quan điểm của Đảng và Nhà nớc về sự phát triển đội ngũ
trí thức ngời dân tộc thiểu số trong cách mạng Việt Nam
Vấn đề thứ hai: Quan điểm Nghị quyết Đại hội X về trí thức và hớng phát
triển vùng dân tộc và miền núi.
B. Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngời DTTS trong thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số
Vấn đề thứ nhất: Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức cho 3 vùng:
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ
- Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc
- Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ngời DTTS vùng Tây Nguyên
- Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ngời DTTS vùng Tây Nam Bộ

4
Vấn đề thứ hai: Giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức
dân tộc thiểu số trong thời kỳ CNH, HĐH
- Giải pháp Về tạo nguồn và đào tạo, bồi dỡng, sử dụng đội ngũ trí thức
ngời dân tộc thiểu số.
- Giải pháp Thu hút trí thức ngời dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trờng đại
học, cao đẳng trở về quê hơng công tác.
- Giải pháp thông qua các chơng trình, dự án phát triển kinh tế xã hội vùng
núi, vùng DTTS nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngời DTTS và thu hút, huy động
trí thức trẻ ngời DTTS đến làm việc.
- Giải pháp về bồi dỡng nâng cao trình độ, khả năng của đội ngũ trí thức
ngời DTTS.
- Giải pháp Trí thức ngời dân tộc thiểu số tự vơn lên về t tởng, đạo đức,
tác phong, nghiên cứu khoa học.

- Giải pháp Đảng, Nhà nớc có chính sách đặc biệt nhằm phát triển kinh tế -
xã hội và chăm lo công tác đào tào, bồi dỡng trí thức ngời DTTS ở vùng DTTS
có số dân dới 10.000 ngời nh: Xinh mun, Churu, Lahủ, Pàthẻn, Cống, Brâu, Pu
péo, Rơ măm, Si La, Lự giai đoạn 2010 - 2020.
- Giải pháp Tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức ngời DTTS;
Đồng thời, đổi mới về phong cách lãnh đạo và đánh giá cán bộ trong hệ thống
chính trị

Kết luận

VI. Thời gian thực hiện dự án: Năm 2008
VII. Thành viên tham gia thực hiện dự án

TT Họ và tên Đơn vị công tác Phân công
1 TS. Trịnh Quang Cảnh Trởng Khoa Lý luận cơ bản,
Trờng Cán bộ dân tộc
Chủ nhiệm
Dự án
2 PGS. TS. Lê Ngọc Thắng CVC. Viện Dân tộc, UBDT Thành viên
3 Th.S. Nguyễn Xuân Khuê Trởng Khoa Kiến thức bổ trợ
Trờng Cán bộ dân tộc
Thành viên
4 Th.S. Nguyễn Văn Dũng Trởng Phòng TC-HC-QT,
Trờng Cán bộ dân tộc
Th ký
Dự án
5 CN. Nguyễn Hồng Hải Khoa Lý luận cơ bản,
Trờng Cán bộ dân tộc
Thành viên


5
6 Th.S. Phạm T. Kim Cơng Khoa Lý luận cơ bản,
Trờng Cán bộ dân tộc
Thành viên
7 ThS. Nguyễn Thị Tâm Học viện Hành chính Quốc gia Thành viên
8 CN. Võ Thanh Liêm Trởng Ban Dân tộc
tỉnh An Giang
Thành viên
9 CN. Châu Kim Sêng Phó Ban Dân tộc
tỉnh An Giang
Thành viên
10 CN. Nguyễn Văn Nhật Chánh văn phòng Dân tộc
tỉnh An Giang
Thành viên
11 CN. Sơn Thị Ngọc Bích Cán bộ Vụ địa phơng III Thành viên
12 CN. Nguyễn Thị Minh Chánh văn phòng Ban dân tộc
tỉnh Gia Lai
Thành viên
13 CN. Nay Thanh Đô Phó Ban Dân tộc tỉnh Gia Lai Thành viên
14 CN. KSor Lý Cán bộ VP Ban Dân tộc
tỉnh Gia Lai
Thành viên
15 CN. Mùa A Trừ Phó Ban Dân tộc tỉnh Lai Châu Thành viên
16 CN. Lò Thị Hơng Phó ban Dân tộc tỉnh Lai Châu Thành viên
17 CN. Hoàng Văn Hữu Phó Văn phòng Ban Dân tộc
tỉnh Lai Châu
Thành viên
18 CN. Vũ Quốc Vợng Phòng Thông tin Th viện
Trờng cán bộ dân tộc
Thành viên

19 CN. Nguyễn Văn Kiểm Phòng Thông tin Th viện
Trờng cán bộ dân tộc
Thành viên


6
Nội dung

Phần 1: Một số vấn đề chung về trí thức - trí thức dân tộc thiểu số
1. Một số khái niệm
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang tác động mạnh
mẽ đến đời sống xã hội của mọi quốc gia trên thế giới. Sự phát triển nhanh
chóng của khoa học công nghệ và việc ứng dụng có hiệu quả những thành
tựu của nó vào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội có ý nghĩa to lớn đối với
mỗi quốc gia dân tộc. Trí tuệ đã trở thành một trong những nguồn lực quan
trọng của sự phát triển. Điều đó cũng đồng thời khẳng định vai trò to lớn
của tầng lớp trí thức nói chung và trí thức ngời dân tộc thiểu số nói riêng,
đối với tiến trình phát triển của các quốc gia và của từng các dân tộc.
Để hiểu rõ đội ngũ trí thức, trí thức ngời dân tộc thiểu số trớc hết ta
cần tìm hiểu khái niệm.
1.1. Trí thức
Khái niệm "trí thức" đợc dùng ở nhiều nớc trên thế giới và có nguồn
gốc từ tiếng Latinh: Intelligentia (Intelligentia - nghĩa là thông minh, hiểu
biết, có suy nghĩ). Khái niệm này trở nên thông dụng từ những năm nửa sau
của thế kỷ XIX, để chỉ những ngời có học thức, học vấn cao.
Trong luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực
lao động sáng tạo của giới trí thức và sinh viên, giáo s Phạm Tất Dong đã
nêu rằng: Trong từng giai đoạn lịch sử ở mỗi quốc gia các nhà khoa học
thờng đa ra những định nghĩa trí thức khác nhau. Hiện nay ngời ta đã
thống kê có trên 60 định nghĩa trí thức.

ở nớc ta hiện nay một số định nghĩa trí thức đã đợc nêu trong các
cuốn từ điển. Trong từ điển triết học viết: "Trí thức - Tập đoàn xã hội gồm
những ngời làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ s, kỹ thuật
viên, thầy thuốc, luật s, nghệ sĩ, thầy giáo và ngời làm công tác khoa học,
một bộ phận viên chức". [1] và từ điển chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu:
"Trí thức - một nhóm xã hội bao gồm những ngời chuyên làm nghề lao
động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao
động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm xã hội đặc biệt
gắn liền với việc phân công xã hội giữa lao động trí óc và lao động chân
tay" [2]. Trong từ điển chính trị: "Trí thức là tầng lớp xã hội gồm những
ngời chuyên lao động trí óc. Trí thức bao gồm những nhà hoạt động khoa
học và nghệ thuật, kỹ s, cán bộ kỹ thuật, kỹ thuật nông học, thầy thuốc,
luật s, giáo viên, giáo s, một bộ phận lớn công chức. Trí thức không phải
là một giai cấp riêng biệt vì không giữ địa vị độc lập trong hệ thống sản


1. Từ điển triết học (1996) NXB. TB.M trang 598.
2. Từ điển CNXH khoa học (1996) TB,.M và NXB ST.H, trang 360.

7
xuất xã hội. Trong xã hội (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) trí thức đợc
hình thành và bổ sung chủ yếu là từ những tầng lớp có của". Giáo s Phạm
Tất Dong cho rằng trong rất nhiều định nghĩa về trí thức ta thấy có hai dấu
hiệu cơ bản:
- Lao động trí óc có chuyên môn cao.
- Có trình độ học vấn cao.
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt
quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc trong chiến lợc
phát triển. Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, lực

lợng trí thức luôn là lực lợng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức
Trí thức là ngời lao động trí óc, nhng không phải là ngời lao động
trí óc nào cũng là trí thức. Bởi vì lao động trí óc bao hàm cả những ngời
lao động trí óc từ mức đơn giản đến phức tạp. Những ngời lao động trí óc
giản đơn mang tính thừa hành, thì không thể coi là trí thức đợc. Chỉ những
ngời lao động trí óc phức tạp có một trình độ học vấn chuyên môn ở mức
độ cần thiết cho lĩnh vực lao động ấy mới trở thành trí thức.
Trong tổng quan kết quả nghiên cứu đề tài Phát huy nguồn lực chất
xám phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá thủ đô, TS. Lu Minh Trị và
PGS.TS. Phan Thanh Khôi có nêu: "ở nớc ta và nhiều nớc khác, việc xác
định mặt bằng cấp ấy của trí thức là đợc đào tạo từ bậc cao đẳng và đại học
trở lên". [3]. Trong thời hiện đại, ngời trí thức phải có trình độ học vấn ít
nhất từ bậc cao đẳng trở lên song bằng cấp chỉ là một dấu hiệu. Trong thực
tế có những ngời có trình độ học vấn cao nhng không đóng vai trò là
ngời trí thức vì họ đi vào hớng lao động của nhóm xã hội khác hoặc cha
vơn tới mức độ lao động sáng tạo của trí thức. Ngợc lại, cũng có ng
ời do
điều kiện này, khác, ít, hoặc không đợc đào tạo quy củ đến nơi, đến chốn
nhng thông minh có chí tiến thủ, đã tự học hỏi qua sách vở, thực tiễn mà
có đợc học vấn cao, tiếp cận đợc kiểu lao động trí tuệ phức tạp của trí
thức. Nhng nói chung, đối với điều kiện hiện tại đội ngũ trí thức phải đợc
đào tạo chính quy, hơn nữa thờng xuyên phải đợc nâng cao trình độ, thậm
chí phải đào tạo lại. Vấn đề chủ yếu làm cho trí thức khác với bộ phận lao
động xã hội khác là ở kiểu lao động của họ. Tất nhiên trong hoạt động lao
động trí óc của ngời trí thức phải có một điều kiện nữa có ý nghĩa quyết
định là lao động sáng tạo khoa học. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để
nhận diện trí thức.
Trong quá trình sản xuất, truyền bá và ứng dụng những tri thức khoa
học trên cơ sở lao động sáng tạo, trí thức phải đa ra những nội dung khoa
học mới tiến bộ, hữu ích truyền đạt nó trong xã hội và ứng dụng vào thực



3. Lu Minh Trị - Phan Thanh Khôi (1997) Phát huy nguồn lực chất xám phục vụ CNH - HĐN Thủ đô. HN. Tr 6.

8
tiễn để nâng cao chất lợng hoạt động xã hội. Lao động sáng tạo của trí
thức còn có khả năng dự đoán tơng lai và đề xuất phơng hớng giải quyết
các vấn đề phức tạp của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Đặc
trng lao động sáng tạo ấy của trí thức là cơ sở phân biệt tầng lớp này với
nhóm xã hội khác.
Chúng ta có thể thấy, trong những ngời lao động trí óc thuộc nhóm
xã hội "viên chức" nhiều ngời có trình độ học vấn đại học, sau đại học.
Nếu những ngời ấy chỉ dùng tri thức khoa học của mình nhằm làm tốt
nhiệm vụ hành chính mang tính thừa hành, mệnh lệnh, thì họ nghiễm nhiên
thuộc nhóm xã hội "viên chức". Nhng nếu trong số họ có những ngời
ngoài công việc viên chức của mình ra, còn tham gia hoạt động trí óc, lao
động sáng tạo nh nghiên cứu khoa học thì đó chính là những ngời trí thức.
Do vậy, ngời lao động sáng tạo phải có kiến thức cơ bản hệ thống, kiến
thức chuyên sâu chuyên ngành và đợc trang bị phơng pháp làm việc khoa
học, biết phân tích tổng hợp, lịch sử, logic. Trong lao động sáng tạo đòi hỏi
yếu tố tình cảm (xúc cảm) tích cực thể hiện trong "cảm hứng sáng tạo". Lao
động khó có thể bắt đầu và đạt kết quả mỹ mãn nếu chủ thể - ngời trí thức
- cha có những kích thích cần thiết cho sự hng phấn cao của hệ thần kinh,
tạo ra sự say mê hào hứng thực sự để chiếm lĩnh đối tợng nghiên cứu.
Sản phẩm sáng tạo của ngời trí thức mang tính kế thừa nhng không
lặp lại. Những ngời trí thức khác nhau về trình độ, năng khiếu và phơng
pháp tiếp cận, phơng pháp nghiên cứu nên sản phẩm của họ đa dạng phong
phú. Tuy nhiên, có những sản phẩm của trí thức đòi hỏi phải hợp tác khoa
học giữa các nhà nghiên cứu trong nớc, thậm chí cả ngoài nớc. Trớc hết
ngời trí thức phải chủ động lựa chọn tìm ra phơng án tối

u, bao gồm cả
việc xác định không gian, thời gian để hoàn thành nhiệm vụ đợc giao.
Vai trò của các giai cấp trong sản xuất xã hội còn tuỳ thuộc vào mối
quan hệ của các giai cấp đó đối với t liệu sản xuất. Do đó, trí thức không
có quan hệ riêng và trực tiếp với t liệu sản xuất. Vậy nên, trí thức không
phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội. Tuy vậy, tầng lớp này không
phải "siêu giai cấp hay "đứng trên giai cấp", "trọng tài giai cấp". Khi nghiên
cứu vị trí của trí thức Lênin chỉ rõ: "Nếu không nhập cục với một giai cấp
thì giới trí thức chỉ là một con số không" [4]. Cho nên, tầng lớp trí thức có
khuynh hớng giai cấp. Lênin viết: "Sở dĩ trí thức đợc gọi là Trí thức,
chính vì nó phản ánh và thể hiện sự phát triển của các lợi ích giai cấp và của
các nhóm phái chính trị trong toàn xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên
quyết hơn cả và chính xác hơn cả" [5].
Trong cách mạng vô sản và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, giai cấp công nhân nhất định phải xây dựng cho mình một tầng lớp trí


4. Lênin V.I (1975) Toàn tập, tập 6, NXB.M. Trang 300.
5. Lênin V.I (1974) Toàn tập, tập 1, NXB.M. Trang 416.

9
thức mới, bằng cách cải tạo, sử dụng trí thức cũ và đào tạo trí thức mới từ
con em nhân dân lao động. Tầng lớp trí thức mới ngày càng đông đảo, có
thế giới quan vô sản có kiến thức khoa học kỹ thuật chuyên môn cần thiết,
có phẩm chất đạo đức cách mạng và môi trờng thuận lợi phát huy tài năng
trong lao động sáng tạo phục vụ sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc XHCN.
Nói chung, qua nhiều định nghĩa về trí thức đều nhận thấy một đặc
trng cơ bản sau đây: Một tầng lớp xã hội, lao động trí óc phức tạp, có học
vấn cao; thực hiện lao động sáng tạo, phổ biến và vận dụng tri thức khoa
học vào đời sống xã hội.

Tuy nhiên, ta không thể xem định nghĩa trí thức là bất biến mà nó cần
đợc bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với từng điều kiện khách
quan trong từng giai đoạn lịch sử của mỗi đất nớc.
Ngày nay, trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trí
thức vừa là nguồn lực chủ thể của cuộc cách mạng này. Đồng thời, cách
mạng khoa học và công nghệ tiếp tục làm cho trí thức phát triển nhanh
chóng về số và chất lợng; đẩy mạnh quá trình trí tuệ hoá ngời lao động
nói chung và làm xích lại gần nhau giữa các nguồn lực xã hội.
Trong những điều kiện hoàn cảnh mới của đất nớc ta, trí thức là lực
lợng cách mạng nằm trong khối liên minh công nhân - nông dân và trí
thức. Khối liên minh đó là nền tảng chính trị - xã hội của Nhà nớc xã hội
chủ nghĩa, dới sự lãnh đạo của Đảng, trí thức nớc ta ngày càng càng phát
huy vai trò quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng nói: "Trí thức là một bộ phận
trong lực lợng cách mạng, trí thức có nhiệm vụ thi đua phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân vì vậy Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng những ngời trí
thức của nhân dân, vì nhân dân" [6]. Trong công cuộc xây dựng đất nớc,
Hồ Chí Minh khẳng định: "Trí thức công nông hoá, trí thức phục vụ nhân
dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa
xã hội cũng cần, tiến lên chủ nghĩa cộng sản lại càng cần"[7].
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng Khoá X về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc (BCH
Trung ơng - Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội ngày 06/8/2008) khẳng
định và chúng ta thống nhất khái niệm trí thức:
Trí thức là những ngời lao động trí óc có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực t duy độc lập, sáng tạo,
truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật
chất có giá trị đối với x hội.
Những nội dung cơ bản của khái niệm trí thức đã nêu và phân tích sẽ
giúp ta nghiên cứu đội ngũ trí thức tốt hơn; đồng thời, đó cũng là cơ sở để



6. Hồ Chí Minh: Vấn đề, học tập, NXB ST HN 1997, tr 39 .
7. Hồ Chí Minh : Về vấn đề trí thức cách mạng , NXB Sự thật, HN 1996, tr 395.

10
nghiên cứu trí thức ngời dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Trí thức ngời dân tộc thiểu số
Xuất phát từ định nghĩa trí thức Nghị quyết Trung ơng bảy - Đại hội
X của Đảng Cộng sản Việt Nam cố nhiên để nhận diện trí thức ngời DTTS
phải vận dụng những tiêu chí chung đã nêu ở trên một cách có tính lịch sử -
cụ thể chúng ta có thể đa ra khái niệm trí thức ngời dân tộc thiểu số:
Khái niệm trí thức ngời DTTS:
Trí thức ngời DTTS trớc hết phải là ngời của 53 DTTS; là những
ngời lao động trí óc, có năng lực t duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và
làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị đối
với xã hội vùng DTTS. Đồng thời, là những ngời tốt nghiệp từ cao đẳng trở
lên có thể đợc xem là những tiêu chí để xác định là trí thức ngời DTTS.
Song ở một điều kiện nhất định nào đó (mặc dù cha đạt chuẩn có bằng cao
đẳng trở lên). Có những Già Làng, Trởng Bản, Thầy Mo, Thầy Thuốc, Thầy
S và một số ngời có hiểu biết cao ở một số DTTS có khả năng lao động
sáng tạo có năng lực t duy độc lập, ảnh hởng lớn đến một vùng đồng bào
DTTS thì cũng có thể coi đó là một trong những tiêu chí để nhận diện trí
thức ngời DTTS của dân tộc ấy.
Đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số đợc Đảng, Nhà nớc ta chăm
lo, xây dựng từng bớc căn cứ vào nhu cầu và trình độ phát triển của từng
dân tộc và của cả nớc. Họ là những ngời có phẩm chất đạo đức, hoạt động
nghiên cứu khoa học và vận dụng khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực phát
triển kinh tế xã hội vùng núi, vùng dân tộc ít ngời. Trí thức là những kỹ s,
bác sĩ, giáo viên, nhà báo, những cán bộ khoa học kỹ thuật từ cao đẳng trở
lên hoạt động trong lĩnh vực lao động sáng tạo. Họ vận dụng những hệ

thống tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội làm thay đổi trạng thái,
tính cách, hình dáng của sự vật hiện tợng. Đồng thời, họ là những ngời
góp phần thúc đẩy truyền bá tri thức khoa học trong điều kiện hoàn cảnh
của từng vùng, từng dân tộc, góp phần làm giàu thêm vốn tri thức của mỗi
dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự giao lu văn hoá giữa các dân tộc, giữa các
vùng. Họ trực tiếp góp phần ứng dụng tri thức khoa học - công nghệ mới vào
sản xuất để nâng cao chất lợng cuộc sống của cộng đồng các dân tộc ở
nớc ta. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì đồng bào các dân tộc hiện
nay có chất lợng cuộc sống thấp so với dân tộc Kinh sống ở đồng bằng, do
phơng thức canh tác lạc hậu và còn một bộ phận sống du canh du c.
Từ khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (ngày 27/11/1989) và Quyết
định 72 của Hội đồng Bộ trởng (ngày 18/3/1989) đến nay vùng núi nói
chung và vùng đồng bào các dân tộc nói riêng đã có bớc chuyển biến tốt,
kinh tế - xã hội có những bớc phát triển. Nhiều vùng đồng bào các dân tộc
đã định canh định c, có cuộc sống ổn định và đang trên đà phát triển. Đồng

11
bào các dân tộc đã có những mô hình làm ăn giỏi ở hầu hết các tỉnh miền núi,
trung du và đồng bằng Nam Bộ, làm cho bộ mặt nông thôn vùng núi có nhiều
thay đổi. Tất nhiên, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ trí thức.
Trí thức ngời dân tộc thiểu số trên đất nớc ta ngoài những yếu tố cơ
bản chung của đội ngũ trí thức Việt Nam còn có đặc điểm riêng, do điều
kiện sống, điều kiện làm việc, kinh tế - xã hội và môi trờng công tác ở
vùng núi, vùng sâu vùng xa đặc biệt khó khăn làm cho khả năng lao động
sáng tạo của họ bị hạn chế; Đảng, Nhà nớc cần có sự quan tâm đào tạo
thoả đáng để trí thức ngời dân tộc thiểu số ngày càng phát triển đáp ứng sự
nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ đổi mới.
2. Đặc điểm tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nớc nói chung và vùng
dân tộc thiểu số nói riêng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - x hội đất nớc thời kỳ CNH, HĐH

Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Châu á. Điều kiện địa
lý tự nhiên có đờng bờ biển dài, địa hình 3/4 diện tích đất liền là núi và cao
nguyên, khí hậu nhiệt đới gió mùa khá thuận lợi cho phát triển đa dạng các ngành
kinh tế cũng nh hình thành nhiều nét văn hoá đặc sắc, phong phú và mang đậm
bản sắc Việt Nam.
Lịch sử phát triển của đất nớc Việt Nam đã minh chứng cho sự tồn tại, phát
triển của đặc trng kinh tế nông nghiệp lúa nớc là chủ yếu cũng nh của truyền
thống văn hoá - xã hội phơng Đông. ở mỗi thời kỳ lịch sử, sự phát triển kinh tế -
xã hội và văn hoá có những đặc trng riêng và có những bớc tiến triển nhất định.
Sau thắng lợi ở hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, đất
nớc Việt Nam lại phải đối mặt với khó khăn trong nớc có dấu hiệu của một cuộc
khủng hoảng toàn diện cả về kinh tế - xã hội lẫn mô hình vận động phát triển, sự
bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch trong và ngoài nớc.
Trớc bối cảnh đó, Đảng ta tỏ rõ đ
ợc bản lĩnh và vai trò lãnh đạo của mình,
khởi xớng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Sự nghiệp đổi mới hơn hai mơi năm
qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới
ở nớc ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: Đất nớc đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân đang đợc
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc đợc củng cố
và tăng cờng. Chính trị - xã hội ổn định [8]
Về kinh tế
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đợc tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của


8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội X, NXB CTQG HN 2006, tr 15.



12
đời sống xã hội. Trong đó, việc nắm bắt những biểu hiện mới trong thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội và nhận thức xu thế khách quan của nền kinh tế để hoạch
định đờng lối, chính sách phát triển thích hợp, đóng vai trò hết sức quan trọng.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định mục tiêu tổng quát 2006-2010: Đẩy
nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế, đạt đợc bớc chuyển biến quan trọng về nâng
cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đa nớc ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để
đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại vào năm
2020[9].
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt đợc nhiều kết quả
và thành tựu đáng kể, làm thay đổi tình hình đất nớc. Đặc biệt là việc Việt Nam
gia nhập WTO tạo cho nớc ta khả năng tiếp cận thị trờng rộng hơn; tiếp tục đổi
mới, chấp nhận cạnh tranh quốc tế với các nguyên tắc đối xử quốc gia bình đẳng
hơn; vị thế về mặt pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam đợc giải quyết thoả
đáng; luồng vốn nớc ngoài vào Việt Nam tăng lên rõ rệt, đầu t trong nớc cũng
tăng lên và chất lợng đầu t cũng cao hơn. Có thể khái quát đặc điểm tình hình
phát triển kinh tế - xã hội đất nớc thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
- Công cuộc đổi mới đã đa nớc ta từng bớc thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Trớc đây, nền kinh tế Việt Nam thời bao cấp mang
nặng tính tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ cha
phát triển. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), công cuộc đổi mới đợc triển khai
đã đ
a nớc ta từng bớc ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lạm
phát đợc đẩy lùi, tốc độ tăng trởng kinh tế khá, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ,
đời sống nhân dân đợc cải thiện. Tuy nhiên, những đổi mới trong nền kinh tế còn
chậm, tốc độ tăng trởng một số ngành còn cha thật vững chắc; đời sống nhân
dân nhiều vùng còn khó khăn, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị còn khá cao, sự phân hoá giàu nghèo đang có xu hớng tăng.

- Nền kinh tế có sự chuyển dịch cơ cấu theo ngành, cụ thể là chuyển dịch cơ
cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự chuyển dịch này thể hiện rõ thông qua sự
thay đổi của cơ cấu tổng sản phẩm trong nớc (GDP). Tỷ trọng của nông - lâm -
ng nghiệp tăng dần đến năm 1988 sau đó giảm dần. Tỷ trọng công nghiệp giảm
cho đến năm 1990 do những xáo trộn trong quá trình sắp xếp lại cơ cấu và hiện
nay đang tăng dần. Khu vực dịch vụ tăng khá nhanh, từ năm 1992 đã vợt tỷ trọng
của khu vực nông-lâm-ng nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành
kinh tế biểu hiện ở quá trình phát triển của công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ,
công nghiệp thực phẩm
- Nền kinh tế có sự chuyển dịch cơ cấu theo lãnh thổ tơng ứng với sự


9 . Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội X, NXB CTQG HN 2006, tr 185.

13
chuyển dịch cơ cấu ngành. Hiện nay, đang phát triển vùng nông nghiệp sản xuất
hàng hoá, khu vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất Nớc ta đã hình thành 3
vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc, Trung, Nam. Đây cũng chính là những vùng
trọng điểm đầu t, đợc u tiên phát triển, có tầm quan trọng chiến lợc nhằm đạt
đợc hiệu quả cao về kinh tế - xã hội.
- Cơ cấu lao động đã có những chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng
trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao
động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3% Tỷ trọng lao động đã qua
đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005 và lên 29% năm 2010.
- Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hớng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
- Vốn đầu t toàn xã hội tăng lên nhanh, gồm cả vốn đầu t nớc ngoài và
vốn trong nớc tập trung cho những mục tiêu: kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng,

phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các vùng khó khăn.
- Thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đợc xây dựng
bớc đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo môi trờng và điều kiện cần thiết cho
sự phát triển kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại đợc mở rộng, xuất khẩu,
nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 2000-2005 đạt 130,2
tỷ USD. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chuyển biến theo hớng tích cực.
- Vốn đầu t nớc ngoài duy trì đều đặn và tăng khá nhanh cả vốn ODA
(vốn hỗ trợ phát triển chính thức) và vốn FDI (vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài).
Vốn ODA từ 1993-2005 với tổng giá trị ký kết hiệp định đạt 24,7 tỷ USD và giải
ngân đợc 15,8 tỷ USD.
Tình hình xã hội:
Nhìn chung, tình hình văn hoá và xã hội tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống các
tầng lớp nhân dân đợc cải thiện.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, mức sống dân c đã đợc
cải thiện rõ rệt. Công tác xoá đói giảm nghèo đợc đẩy mạnh bằng nhiều hình
thức, đã thu đợc nhiều kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 19,5% năm 2004.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đợc chú trọng. Mạng lới
y tế, đặc biệt là y tế cơ sở đợc củng cố và phát triển, hầu hết các xã phờng đều
có trạm y tế và trên 65% trạm có bác sĩ. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dới 1 tuổi còn
18%o, trẻ dới 5 tuổi bị suy dinh dỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dới
25% năm 2005. Tuổi thọ bình quân dân số nớc ta nâng lên 71,5 tuổi năm 2005.
Kiềm chế tốc độ phát triển dân số, năm 2003 tốc độ tăng dân số là 1,47%, năm
2005 l 1,35%.

14
Hoạt động văn hoá - thông tin phát triển đa dạng góp phần nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân, làm tăng hiệu quả công tác giáo dục chính trị, t

tởng, phổ biến pháp luật. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá, gia đình văn hoá
phát triển sâu rộng. Hoạt động thể dục thể thao tiếp tục phát triển. Việc chăm sóc
ngời có công với cách mạng đợc duy trì và mở rộng. Công tác phòng chống tệ
nạn xã hội đợc đẩy mạnh và có hiệu quả.
Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực đã có nhiều
thay đổi quan trọng. Hệ thống trờng tiểu học và trung học cơ sở thành lập đến tận
các xã, phờng. Đổi mới trong giáo dục đợc triển khai từ giáo dục mầm non đến
giáo dục đại học. Giáo dục dân lập, bán công đợc thành lập. Hiện nay, cả nớc đã
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Quy mô giáo dục tiếp tục đợc mở rộng,
trình độ dân trí đợc nâng lên rõ rệt. Đầu t cho giáo dục và đào tạo tăng lên đáng
kể, đặc biệt là ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (năm 2005, chi cho giáo
dục và đào tạo chiếm 18% tổng chi ngân sách).
Khoa học và công nghệ đã chuyển sang tập trung nghiên cứu ứng dụng phục
vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội: cung cấp t liệu, luận cứ khoa học phục vụ
hoạch định chủ trơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và phát huy các giá trị
văn hoá dân tộc; tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lợng, có sức cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trờng.
2.2. Đặc điểm tình hình phát triển kinh tế-x hội vùng núi, vùng DTTS hiện nay
Vùng núi, vùng dân tộc thiểu số chiếm một diện tích lớn (3/4 diện tích cả
nớc) trải rộng trên lãnh thổ 37 tỉnh trong đó có 14 tỉnh hoàn toàn thuộc miền núi.
Có diện tích tự nhiên 23 nghìn km
2
, chiếm 75% đất đai cả nớc, có dân số 24 triệu
ngời, chiếm 30% dân số chung của cả nớc. Có gần 4 nghìn km đờng biên giới
với các nớc Trung Quốc, Lào, Campuchia; là địa bàn trọng yếu về chính trị,
kinh tế, an ninh, quốc phòng, văn hoá - xã hội của nớc ta.
Những đặc điểm chủ yếu:
+ Vùng núi, vùng dân tộc thiểu số là nơi có địa hình phức tạp, chia cắt bởi
các dãy núi và sông suối; ngay trong một không gian không lớn, địa hình cao thấp
cũng rất khác nhau; do địa hình, điều kiện tự nhiên nh vậy hình thành nên nhiều

tiểu vùng khí hậu - sinh thái đặc thù cho pháp phát triển các loại cây trồng, vật
nuôi đa dạng.
+ Quỹ đất đã sử dụng và có thể sử dụng cho nông, lâm, nghiệp là một tiềm
năng rất lớn của vùng núi, vùng DTTS. Đất nông nghiệp có trên 5 triệu ha nhng
mới sử dụng đợc khoảng 65%, trong đó có thể trồng cây công nghiệp dài ngày,
cây ăn quả vài triệu ha. Đất đỏ ba zan ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ thích
hợp với cây cao su, điều, cà phê còn khoảng 13 triệu ha đất trống, đồi núi trọc
và mặt nớc lớn cha đợc khai thác. Đơng nhiên, diện tích trên đều thuộc
loại đất dốc, ở vị trí không thuận lợi, đòi hỏi đầu t cho khai thác lớn.
+ Vùng núi, vùng dân tộc thiểu số là địa bàn phân bố phần lớn các khoáng

15
sản của nớc ta nổi bật là than, apatít, sắt, chì, đồng, vàng, đá quý phục vụ phát
triển công nghiệp trong cả nớc. Hiện nay, nhiều loại khoáng sản đã đợc khai
thác, nhng khai thác kém hiệu quả, lãng phí. Thậm chí ở một số nơi khai thác bừa
bãi gây tác hại xấu đến môi trờng sinh thái nhân văn.
+ Nơi đây còn là địa bàn có trữ năng thuỷ điện lớn đóng vai trò chủ yếu
không chỉ đối với cung cấp nguồn điện cho miền núi mà còn đối với cả nớc; là
điều kiện quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc.
+ Vùng núi vùng dân tộc thiểu số có nhiều cửa khẩu giao lu với Trung
Quốc, Lào, Campuchia - ở các nớc đó cũng đang trong quá trình phát triển. Điều
đó đã tạo cho cả vùng một tiềm năng, giao lu hợp tác thơng mại với nớc ngoài -
là một xu thế mới để phát triển ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hớng, trong những năm gần đây, kinh
tế trên địa bàn vùng núi, vùng dân tộc thiểu số đã có bớc phát triển mới: sự
nghiệp trồng rừng, trồng cây ăn quả, chăn nuôi, khai thác khoáng sản, năng lợng
có phát triển đã góp phần đáng kể vào nông sản hàng hoá - xuất khẩu. Xu hớng
sản xuất gắn với thị trờng. Hình thành và phát triển vùng sản xuất tập trung cây
công nghiệp, cây ăn quả Nhiều hộ gia đình dân tộc thiểu số vơn lên làm ăn giỏi
bằng kinh tế trang trại đồi rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tỷ lệ hộ nghèo ở các

vùng núi, vùng dân tộc thiểu số trên cả nớc đã giảm mạnh từ 55% năm 1998
xuống còn dới 20% năm 2008. Các ngành nghề truyền thống của các dân tộc
đợc khôi phục. Một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và du
lịch văn hoá đang có xu hớng phát triển ở các vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
+ Sự nghiệp phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực
cho các dân tộc thiểu số đã có nhiều thay đổi. Hệ thống trờng học đã cơ bản hoàn
thành, phần lớn các xã và trung tâm cụm xã đã có trờng tiểu học, trung học cơ sở,
các huyện có tr
ờng trung học phổ thông. Hệ thống trờng Dân tộc nội trú của các
tỉnh u tiên nuôi dạy, tạo nguồn cán bộ cho các dân tộc thiểu số ở địa phơng.
+ Mạng lới y tế chăm sóc và nâng cao chất lợng sức khoẻ cộng đồng, chất
lợng dân số vùng núi, vùng DTTS đợc củng cố và phát triển. Hiện nay, tất cả các
huyện có trung tâm y tế, hơn 95% các xã có trạm y tế, các hộ nghèo đợc cấp thẻ
bảo hiểm y tế, chơng trình tiêm chủng mở rộng đợc thực hiện rộng khắp
+ Văn hoá các dân tộc đợc giữ gìn và phát huy trong chiến lợc xây dựng
và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng bào các
dân tộc tích cực hởng ứng các phong trào, cuộc vận động nh: Ngày văn hoá các
dân tộc, Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá góp phần gìn giữ, làm giàu thêm các
giá trị cao đẹp của văn hoá các dân tộc.
Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá đợc củng cố về tổ chức, số lợng và
chất lợng. Hơn 85% các địa phơng vùng núi, vùng dân tộc thiểu số đợc phủ
sóng phát thanh và truyền hình. Các tỉnh, huyện có chơng trình phát thanh, truyền
hình, báo chí, các ấn phẩm phổ biến chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc

16
bằng tiếng dân tộc. Giao lu văn hoá giữa các dân tộc đợc tăng cờng để hiểu biết
lẫn nhau. Các hình thức sinh hoạt văn hoá, di sản văn hoá của các dân tộc đợc tôn
vinh, đợc công nhận là di sản văn hoá thế giới: Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn;
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên
Duy trì nền văn hoá các dân tộc, bảo đảm tiếng nói, chữ viết dân tộc song

song tồn tại cùng tiếng Việt. Sự phát triển của con em các DTTS sống ở núi cao,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đợc Đảng và Nhà nớc ta đặc biệt quan
tâm. Song phần lớn con em đồng bào một số DTTS vẫn mù chữ do không đợc đến
lớp đến trờng (vì không đủ ăn, phải đi nơng rẫy, trờng lớp xa không có điều kiện
đi học và học tập cha thành nhu cầu cấp bách của nhân dân các DTTS )
Do vậy, sự chênh lệch về học vấn giữa các vùng khá rõ rệt. Cho đến nay
trình độ học vấn của c dân các dân tộc thiểu số sống ở vùng núi, vùng dân tộc
thiểu số trong cả nớc vẫn thấp hơn nhiều so với các tỉnh ở trung du và đồng bằng.
+ Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ dân trí còn thấp nên việc
thực hiện các chủ trơng, chính sách của Đảng, Nhà nớc ở vùng núi, vùng dân tộc
thiểu số còn nhiều hạn chế. ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nhiều hủ tục lạc
hậu vẫn còn tồn tại nh: nạn cờ bạc, hút thuốc phiện, bói toán, mê tín dị đoan, đặc
biệt là sinh đẻ không có kế hoạch. Ngời dân ở vùng núi, vùng DTTS quan niệm
nhiều con hơn nhiều của, một mặt con hơn mời mặt của và truyền thống gia
đình đông con, mỗi gia đình có 5-6 con không phải là hiếm, tỷ lệ sinh con của các
dân tộc nh sau: Êđê 3,37; Xơ đăng 2,7; Sán chay 2,6; Cơ ho 3,3; Chăm 2,9;
Mnông 3,2; Xtiêng 3,0; Thổ 2,9; Tà ôi 2,9; Kháng 9,1; Chơ ro 4,1; Xinh mun 5,0;
Hà nhì 3,4; La chí 3,1; Si la 3,5; Pu péo 6,1; Rơ măm 4,4 tỷ lệ số con đông phần
nào đã ảnh hởng rất lớn đến đời sống kinh tế và chất lợng cuộc sống đồng bào;
dồng thời cũng ảnh h
ởng rất lớn đến nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn cho đội
ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ những đặc điểm kinh tế, văn hoá - xã hội và những mặt thuận lợi khó
khăn chủ yếu ở vùng núi, vùng DTTS tác động rất lớn đến mặt hình thành và xây
dựng phát triển của đội ngũ trí thức ngời DTTS trong hiện tại cũng nh trong
tơng lai. Đồng thời, những điều kiện ấy đã tạo cho đội ngũ trí thức những nét đặc
thù ngoài đặc điểm chung của trí thức Việt Nam thì đội ngũ trí thức vùng DTTS
còn có đặc điểm mang sắc thái riêng:
Một là; Trí thức ngời DTTS thờng sống đan xen với các DTTS và dân tộc đa số.
Hai là; Trí thức ngời DTTS thờng sống ở các đô thị, thị tứ, thị trấn vùng DTTS.

Ba là; Trí thức ngời DTTS hiểu biết truyền thống văn hoá dân tộc mình
đồng thời hiểu biết truyền thống văn hoá Việt Nam.
3. Vai trò của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số
Đất nớc ta đã bớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Là nớc đi sau lại muốn rút ngắn khoảng cách phát triển thì phải tăng tốc. Nhng
điều kiện tăng tốc là gì? Thế giới đã tổng kết và thấy rằng thứ nhiên liệu dùng để

17
tăng tốc là trí tuệ. Thiếu tài nguyên trí tuệ chúng ta sẽ không có sự phát triển
trong thời đại ngày nay. Nhng tài nguyên đó lại nằm trong mỗi con ngời, mà
đặc biệt là nằm trong tầng lớp trí thức. Cuộc chạy đua vào thế kỷ XXI đang ở vòng
đua giáo dục - vòng đua nâng cao dân trí, làm phong phú tài nguyên trí tuệ và hình
thành đội ngũ nhân tài. Những nớc phát triển muộn đều ráng sức tạo ra kho
tàng trí tuệ của mình. Còn những nớc đã bứt lên hàng đầu cuộc đua cũng hiểu
rằng chỉ có trí tuệ mới giữ đợc lợi thế trong cuộc cạnh tranh.
Mấy trăm năm trớc ở nớc ta, Lê Quý Đôn đã có sự tổng kết tài tình: Phi
công bất phú, phi thơng bất hoạt, phi nông bất ổn, phi trí bất hng. Sự hng
thịnh của quốc gia phụ thuộc rất lớn vào thái độ của tầng lớp trí thức đối với thể
chế xã hội và con đờng phát triển của quốc gia đã đợc vạch ra. Ông cha ta đã
hiểu rõ điều này, từ đó hình thành nên truyền thống tôn s trọng đạo, chiêu hiền
đãi sĩ, trọng dụng nhân tài. Bia đá Quốc Tử Giám ghi rằng: Các bậc hiền nhân tài
giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chính thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nớc tăng
tiến mạnh mẽ và phồn vinh. Khi yếu tố này yếu kém thì quyền lực đất nớc bị suy
giảm Những ngời tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nớc.
Đảng ta khẳng định vai trò của trí thức ngày càng quan trọng, bởi vì: Trí
tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia . Cuộc đấu tranh giành độc lập,
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc không thể thiếu sự tham gia của lực lợng trí thức. T
tởng đó tập trung ở chính sách của Đảng đối với trí thức công bố ngày 21-10-
1957: Trí thức là vốn quý của dân tộc, không có trí thức hợp tác với công - nông
thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây đựng đất nớc Việt Nam

mới không thể hoàn thành đợc. Tầng lớp trí thức là đại biểu tập trung trí tuệ của
dân tộc; những trí thức tiến bộ, những nhà lý luận cách mạng vô sản đã góp phần
thức tỉnh phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đ
a họ
đến trình độ tự giác về lý tởng. Trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, với t cách
là lực lợng có học vấn cao, trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào sự nghiệp
nâng cao dân trí, đồng thời là bộ phận chủ yếu của nguồn lực khoa học kỹ thuật,
phát triển lực lợng sản xuất lên chất lợng mới.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là một đòi hỏi tất yếu
trong giai đoạn hiện nay. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta
phải tiếp thu một cách thông minh những trí thức của nhân loại, tận dụng lợi thế
của nớc đi sau bằng cách rút kinh nghiệm của các nớc đi trớc để phát triển kinh
tế gắn với việc giải quyết những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Tất cả những điều đó cần đến sự t vấn của các chuyên gia, sự đóng góp thực tế có
trách nhiệm và lơng tâm của giới trí thức, cần có sự hợp tác nghiên cứu sáng tạo
của đông đảo nhà khoa học. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin
thờng nhắc nhở những ngời cộng sản phải tạo điều kiện cho trí thức làm việc
theo nguyện vọng, sở trờng, tài năng và Ngời chủ trơng trả lơng cao cho các
chuyên gia T sản và coi đó là khoản học phí để có đợc học vấn, kỹ thuật, kinh
nghiệm. Trong công cuộc đổi mới đất nớc. Đảng ta đã định hớng chiến lợc

18
khoa học và công nghệ trong thời kỳ từ nay đến năm 2020. Vai trò của trí thức
Việt Nam là: Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh, kế thừa văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của
nhân loại, đi sâu điều tra nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi mới đất
nớc không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đờng đi lên
CNXH của Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện đờng lối chủ trơng chính sách của Đảng và Nhà nớc nhằm xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng

thời đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ
trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng-an
ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nớc. Coi trọng nghiên
cứu cơ bản, làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài, tiến tới sáng tạo
ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của
đất nớc trong thế kỷ XXI.
Trong hoàn cảnh mới, chúng ta phải nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng
phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của nớc nhà; đào tạo, bồi dỡng sử dụng
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong hoàn cảnh ấy đòi hỏi chúng ta
phải kiện toàn hệ thống tổ chức, tăng cờng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trong bớc hình
thành nền khoa học công nghệ hiện đại của Việt Nam, có khả năng giải quyết các vấn
đề lớn, vấn đề then chốt nảy sinh trong qúa trình. Đó là trách nhiệm lớn lao, nặng nề
của đội ngũ trí thức Việt Nam trong đó có đội ngũ trí thức ngời DTTS. Sự hiện diện
của đội ngũ trí thức ngời DTTS đã góp phần hoàn chỉnh bức tranh cơ cấu tầng lớp trí
thức Việt Nam trong bức tranh toàn diện về cơ cấu xã hội, dân tộc ở nớc ta.
Cho đến nay, đội ngũ trí thức Việt Nam có trên 1.477.752 ngời (cao đẳng,
đại học và sau đại học) và hơn 40.000 trí thức Việt kiều sống ở nớc ngoài trong
đó trí thức ngời DTTS có trên 176 ngời có trình độ trên đại học và hơn 13.000
ng
ời có trình độ đại học, cao đẳng và 78.000 ngời trình độ trung học chuyên
nghiệp (tỷ lệ quá ít, so với trí thức cả nớc chỉ khoảng 6,16 %). Số lợng trí thức
ngời dân tộc thiểu số phân bố không đều ngay ở các DTTS, có 5 dân tộc có số
lợng trí thức từ 1.500 đến 10.000 ngời nh (Tày, Mờng, Hoa, Nùng, Thái), 9
dân tộc có số lợng trí thức từ 150 đến 500 ngời (nh Khơme, Dao, Êđê, Sán Dìu,
Sán Chay, HMông, Thổ) và hơn 20 dân tộc chỉ có vài chục ngời trí thức, có 10
dân tộc cha có con em tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Nếu chúng ta đem so sánh trí thức ngời dân tộc thiểu số với trí thức ngời
Kinh thì số lợng trí thức ngời dân tộc thiểu số ít ỏi, song nh trên đã nói, sự hiện
diện của đội ngũ trí thức ngời DTTS góp phần hoàn chỉnh bức tranh về tầng lớp
trí thức, thể hiện dới dạng thu nhỏ bức tranh về thành phần dân tộc của nớc ta.

*Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, đội ngũ trí
thức ngời dân tộc thiểu số với vai trò:
Một là, đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số là một nguồn lực quan trọng

19
cho sự phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
Khái niệm nguồn lực trớc đây ít đợc nhắc đến, nhng ngày nay đã
đợc in trong văn kiện của Đảng và Nhà nớc. Nguồn lực là toàn bộ những yếu tố
đã có và có khả năng góp phần trực tiếp thúc đẩy các qua trình cải tiến xã hội theo
con đờng đã đợc lựa chọn tự giác của dân tộc quốc gia. Xác định đúng nguồn
lực và biến nó thành các yếu tố hiện thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội vùng
núi, vùng dân tộc thiểu số là một qúa trình phát huy bản lĩnh khoa học và nghệ
thuật lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nớc ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
Trên con đờng đi lên của vùng núi, vùng DTTS, trí thức ngời dân tộc là
một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ trí thức ngời
dân tộc thiểu số vừa là bộ phận quan trọng của nguồn lực con ngời, vừa là bộ
phận chủ chốt của tiềm lực khoa học - kỹ thuật ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số
và vì thế đó là: Nguồn lực quan trọng nhất. Đảng và Bác Hồ luôn khẳng định trí
thức là vốn quý của dân tộc, vì vậy đã hết sức tạo điều kiện cho trí thức công tác và
học tập, phát huy tài năng của mình để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số ở các vùng núi, vùng dân tộc thiểu số
thực sự có vai trò to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Họ là
ngời tuyên truyền và đa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm dần xoá
đi ranh giới cách biệt giữa vùng núi, vùng sâu, vùng xa với đồng bằng. Đồng thời,
họ góp phần thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ giữa các dân
tộc tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đờng văn minh tiến bộ, gắn
bó với sự phát triên chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Với t duy mới, chất xám là tài nguyên quý báu của mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia, là điều kiện cho sự giàu có và phát triển ở mỗi vùng, đặc biệt là vùng DTTS,
nơi mà nền kinh tế còn kém phát triển và nhiều tiềm năng cha đợc khai thác.

Việc huy động chất xám cho sự phát triển có tầm quan trọng đặc biệt và với t

cách là nguồn lực phát triển thì trí thức ngời DTTS là lực lợng trực tiếp tham gia
lao động sáng tạo trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội vùng núi, vùng DTTS.
Hai là; Trong công cuộc đổi mới, đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số là
chủ thể của cách mạng khoa học - công nghệ ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
Trí thức ngời dân tộc thiểu số có trách nhiệm chủ yếu trong việc nghiên
cứu khoa học kỹ thuật, nghiên cứu khoa học về phân công lao động xã hội. Những
thành tựu mới của nghiên cứu khoa học của trí thức ngời dân tộc thiểu số đợc
kết tinh ở những sản phẩm nh: Các kế hoạch, dự án, phơng án và ở mức độ
khác là những phát minh, sáng chế, sáng kiến, giải pháp hữu ích nhằm phát triển
kinh tế - xã hội vùng núi, vùng dân tộc thiểu số.
Khi bàn về lao động của trí thức, Lênin chỉ ra rằng phơng thức lao động
của trí thức là lao động trí tuệ, cá nhân, sản phẩm lao động trực tiếp của học là
những trí thức khoa học sáng tạo. Lênin cũng chỉ cho chúng ta thấy lao động sáng
tạo của trí thức khác biệt so với lao động chân tay hoặc lao động trí óc giản đơn.

20
Ngời trí thức phải sáng tạo, tìm tòi tổng kết thực tiễn, tiếp cận chân lý. Do vậy,
thành tựu nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số giúp
Đảng, Nhà nớc hoạch định những chủ trơng, chính sách sát hợp với thực tiễn
ngay trên mảnh đất quê hơng họ.
Trong thời đại ngày nay khoa học và kỹ thuật càng gắn kết với nhau. Khoa
học không tách rời kỹ thuật, khoa học đi trớc dẫn đờng làm cơ sở cho kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật rất cần thiết cho vùng núi, vùng dân tộc thiểu số nới mà kinh tế
còn kém phát triển. Hoạt động khoa học của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu
số không chỉ làm thay đổi căn bản sản xuất truyền thống không chỉ làm thay đổi
căn bản hệ thống sản xuất truyền thống mà còn làm xuất hiện những ngành sản
xuất mới do những yêu cầu của đời sống xã hội đặt ra. Thực tiễn công cuộc đổi
mới đòi hỏi hoạt động khoa học của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số không

ngừng đáp ứng yêu cầu của vùng núi, vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời, công cuộc
đổi mới cũng tạo điều kiện cho trí thức ngời dân tộc thiểu số tham gia hoạt động
lao động sáng tạo. Trí thức ngời dân tộc thiểu số là những ngời tích cực tham gia
hoạt động tuyên truyền đa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đời sống ở
vùng núi, vùng dân tộc thiểu số. Hoạt động này của trí thức ngời dân tộc thiểu
số thể hiện tính tích cực xã hội và cải tạo xã hội một cách thực tế. Mác đã thờng
nói: Nếu để phát minh khoa học - kỹ thuật tự phát đi vào cuộc sống thì nó rất lâu
mới biến thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Tính hữu ích của lao động sáng tạo
trí tuệ của trí thức ngời dân tộc thiểu số phải đợc đo bằng kết quả của phong
trào quần chúng, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất cũng nhằm đạt năng
suất và hiệu quả cao. Trí thức ngời dân tộc thiểu số phải chuyển đợc sản phẩm
nghiên cứu khoa học vào sản xuất đại trà ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa của đồng
bào dân tộc thiểu số. Bớc chuyển ấy phải vợt qua những trở ngại lớn về tập tục,
truyền thống lạc hậu ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số. Tuy vậy, đội ngũ trí thức
ngời dân tộc thiểu số vừa thông thạo tiếng Kinh vừa thông thạo tiếng mẹ đẻ thì
việc tuyên truyền và ứng dụng khoa học - kỹ thuật đến các bản làng sẽ dễ hơn
nhiều so với ngời Kinh sống ở trên vùng dân tộc thiểu số.
Ba là; Trong các bớc đi lên của vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, vai trò
của trí thức ngời dân tộc thiểu số góp phần quan trọng thực hiện trí tuệ hoá lao
động nhằm nâng cao năng xuất lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ to lớn
của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số. Đảng ta khẳng định, cùng với khoa học
và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Do vậy, nét nổi bật trong công việc
nâng cao dân trí cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số là huy động tối đa con em
dân tộc thiểu số đến lớp đến trờng, xoá nạn mù chữ và tái mù chữ ở các bản, buôn
làng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Công việc này đòi hỏi
đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số, trong đó trực tiếp là đội ngũ giáo viên phổ
thông gồm con em dân tộc thiểu số, những giáo viên ở đồng bằng lên hỗ trợ và
giúp đỡ vùng núi, phải có sự cố gắng, nỗ lực rất cao mới có thể hoàn thành nhiệm


21
vụ. Nâng cao dân trí vùng đồng bào dân tộc thiểu số là thực hiện trí tuệ hoá lao
động; khi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho
lao động trí óc và lao động chân tay xích lại gần nhau cả về nội dung và tính chất,
phơng pháp lao động. Do đó, Đảng, Nhà nớc ta coi giáo dục là động lực quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dỡng nhân tài, đầu t tập trung vào con ngời là một đặc trng quan trọng
nhất của cách mạng khoa học - công nghệ mới.
ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, việc trí tuệ hoá lao động và nâng cao dân
trí đòi hỏi phải phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số và điều
đó liên quan chặt chẽ đến việc xây dựng đội ngũ trí thức ngời dân tộc thiểu số,
liên quan đến hiệu quả lao động sáng tạo của họ. Ngợc lại, chỉ có trên mặt bằng
dân trí nhất định mới có đủ điều kiện truyền bá tri thức, phát hiện năng khiếu, bồi
dỡng nhân tài, mới có thể tạo ra xu hớng phát triển tốt của đội ngũ trí thức ngời
dân tộc thiểu số sau này.
Nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số là nhằm mục đích trí
tuệ hoá lao động, làm cho sản phẩm lao động tăng lên dồi dào. Ngày nay, kinh tế
tri thức lại càng đòi hỏi trí tuệ hoá lao động. Hàm lợng chất xám kết tinh trong
mỗi sản phẩm vật chất tăng lên không ngừng. Qua đó, sản phẩm của xã hội đa
dạng hơn và chất lợng cao hơn, đồng thời chất lợng cuộc sống các dân tộc đợc
nâng lên không ngừng và sẽ rút dần đợc khoảng cách giữa vùng núi và vùng đồng
bằng. Chính điều đó đảm bảo cho sự thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nớc ta là bình đẳng - đoàn kết - tơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ đa
về miền núi tiến kịp miền xuôi.
Bốn là, Trí thức ngời DTTS có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền
văn hoá của các dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn hoá Việt Nam nói chung.
Dân tộc nào cũng có nền văn hoá riêng, bởi lẽ văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội. Trớc hết, trí thức ng
ời dân tộc thiểu số góp phần duy trì và phát triển
nền văn hoá dân tộc thiểu số. Qua các tác phẩm nghệ thuật của mình, các văn nghệ

sĩ dân tộc thiểu số luôn cố gắng nêu lên những khát vọng của nhân dân các dân
tộc thiểu số về chân, thiện, mỹ và hớng cho nền văn hoá của họ phát triển cùng
nhịp với văn hoá của cả nớc, của thời đại.
Nhân loại đã bớc vào thiên niên kỷ mới. Ngời ta dự đoán thế kỷ XXI vừa
có nhiều thuận lợi, thời cơ và cũng đầy thách thức. Giới trí thức, văn nghệ sĩ dân
tộc thiểu số có trách nhiệm càng lớn lao khi mà sự phát triển nh vũ bão của cách
mạng khoa học - công nghệ với những thành tựu kỳ diệu về mọi mặt, đa con
ngời đến nền văn minh mới, lực lợng sản xuất phát triển, khoa học - công nghệ
phát triển đột biến, các phơng tiện thông tin liên lạc hiện đạiphát triển cha
từng có. Sự phát triển đó của khoa học - công nghệ đã rút ngắn khoảng cách giữa
các châu lục và quốc gia. Xu thế toàn cầu hoá đã đa các nớc, các dân tộc xích lại
gần nhau. Do vậy, sự ảnh hởng và tác động lẫn nhau giữa các nền văn hoá, sự tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại đang trở thành cơ hội của mọi quốc gia, của các
dân tộc. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, các hoạt động văn
hoá văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú

×