Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đặc sắc tản văn Y Phương luận án thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.62 KB, 97 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM









SÙNG THỊ HƯƠNG





ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG








LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN










Thái Ngun, năm 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />


ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM









SÙNG THỊ HƯƠNG




ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG





CHUN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ:
60.22.01.21




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh





Thái Ngun, năm 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />
i


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu “Đặc sắc tản văn Y Phương” dưới

sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tơi. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đều được tác giả
trích dẫn rõ ràng.
Tơi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm Luận văn và Nhà trường về
sự cam đoan này.
Thái Ngun, tháng 8, năm 2013
Tác giả



Sùng Thị Hương




Xác nhận
của người hướng dẫn khoa học






PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh




Xác nhận
của khoa chun mơn







TS. Cao Thị Hảo


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />
ii


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành cơng trình nghiên cứu này.
Tơi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Ngun; Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Ban chủ nhiệm Khoa Sau đại học
và các cán bộ Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Ngun
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu khoa học cũng
như hồn thành cơng trình nghiên cứu này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… đã khích lệ,
động viên và giúp đỡ tơi trong suốt thời gian hồn thành luận văn.
Tác giả luận văn


Sùng Thị Hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />
iii




MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4

4. Mục đích nghiên cứu 5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5

6. Phương pháp nghiên cứu 5

7. Đóng góp của luận văn 6

8. Cấu trúc luận văn 6

Chương 1. VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM
HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG 7

1.1. Vài nét về tản văn 7


1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xi hiện đại 7

1.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Y Phương. 15

1.2. Tản văn của Y Phương 19

1.21. Bản sắc văn hóa Tày - miền thương nhớ sâu thẳm nhất trong Tản văn
của Y Phương 19

1.2.2. Những kỉ niệm thân thương với người thân, bạn bè gắn bó cùng q
hương miền núi 23

1.2.3. Những trải nghiệm trong cuộc đời của Y Phương. 25

Chương 2. ĐẶC SẮC NỘI DUNG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG 28

2.1. Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người miền núi trong cái nhìn hồi niệm. 28

2.1.1. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa dữ dội trong tản văn của Y Phương 28

2.1.2. Hình ảnh con người miền núi trong tản văn của Y Phương. 32

2.2. Cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương 37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />
iv

2.2.1. Cảm hứng ngợi ca và khát vọng bảo tồn bản sắc văn hóa Tày trước
“mặt trái” của cơ chế thị trường và q trình đơ thị hóa 37


2.2.2. Cảm hứng chiêm nghiệm - triết lí về lẽ sống ở đời, về mối quan hệ giữa
văn hóa và nhân cách, về số phận của con người. 41

Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG 49

3.1. Kết cấu tự do, linh hoạt với sự kết hợp nhiều phương thức, phương tiện
nghệ thuật 49

3.1.1. Kết cấu liên tưởng - đồng hiện trong dòng hồi niệm của nhân vật
người trần thuật. 50

3.1.2. Kết cấu “Vòng sóng đồng tâm” 53
3.2. Kiểu nhân vật người trần thuật ngẫm ngợi, chiêm nghiệm và tự biểu hiện 56

3.2.1. Kiểu nhân vật người trần thuật “tha hương – hồi cố” mà chiêm nghiệm
về q hương 56

3.2.2. Kiểu nhân vật người trần thuật thi sĩ đi tìm chất thơ mang đặc trưng
miền núi trong hồi ức 59

3.3. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương 63

3.3.1. Bút pháp chấm phá khắc hoạ bức tranh thiên nhiên và xã hội miền núi
hiện về trong hồi ức 64

3.3.2. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương với chân dung con
người miền núi hiện về trong hồi ức 65

3.4. Cấu trúc câu đặc biệt và hệ thống từ láy mới mẻ đầy sáng tạo trong tản văn

của Y Phương 69

3.4.1. Cấu trúc câu đặc biệt trong tản văn của Y Phương 69
3.4.2. Hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ, đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương 77

KẾT LUẬN 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO 89



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bộ phận văn học thiểu số có bản sắc
văn hóa riêng và có đóng góp to lớn vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà.
Trong bộ phận văn học thiểu số Việt Nam hiện đại, nhà thơ Y Phương có một vị trí
đặc biệt. Ơng khơng chỉ là một nhà thơ tài năng từng đạt nhiều giải thưởng cao của
thơ ca Việt Nam hiện đại mà còn là tác giả của những tản văn đặc sắc, chiếm được
tình u và sự mến mộ của đơng đảo độc giả. Hai tập tản văn của Y Phương “Tháng
giêng - tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu” đã mang lại cho
tên tuổi Y phương một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới.
Thể loại tản văn ở Việt Nam ngày càng có một vị trí đặc biệt trong hệ thống
các thể loại văn học của nền văn học Việt Nam hiện đại. Đã có rất nhiều tác giả
thành cơng với thể loại văn học vừa mang đặc trưng của tác phẩm ký văn học vừa

giầu chất thơ này. Ví dụ như: Nguyễn Tn, Hồng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn,
Nguyễn Ngọc Tư và Y Phương với sự kết tinh bản sắc văn hóa Tày độc đáo, có sự
giao thoa - tiếp biến với bản sắc văn hóa Việt đã mang lại một “hương sắc riêng”
khơng thể lẫn với tản văn của các nhà văn khác.
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận hợp thành của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu sáng tác của Y Phương nói chung, tản
văn của Y Phương nói riêng khơng chỉ góp phần nhận diện thành tựu văn học, cá
tính sáng tạo độc đáo, và đóng góp của Y Phương vào thành tựu chung của nền văn
học thiểu số Việt Nam hiện đại, mà còn qua đó chỉ ra hành trình vận động, phát
triển ở phương diện cấu trúc thể loại của thể tản văn trong hệ thống thể loại văn học
Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu tản văn của Y Phương, chúng ta nhận ra bản sắc văn hóa Tày
đặc sắc như một “tầng vỉa” nằm sâu thẳm trong mạch nguồn cảm hứng của Y
Phương. Bằng tác phẩm của mình, Y Phương khơng chỉ biểu hiện tình u và
lòng tự hào, ý thức bảo lưu, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình mà còn
gián tiếp chứng minh cho một chân lí: - Khơng có một nghệ sĩ lớn nào ở bất cứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

2

loại hình nghệ thuật nào lại khơng được ni dưỡng và lớn lên từ “dòng sữa”
ngọt ngào là truyền thống văn hóa mang tính dân tộc của anh ta. Chính truyền
thống văn hóa đặc sắc của từng dân tộc sẽ trở thành “hộ chiếu” văn hóa để mỗi
nhà văn đi ra thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh “tồn cầu hóa” hơm nay, đứng
trước cuộc “xâm lăng” văn hóa từ các quốc gia phát triển tràn vào các quốc gia
chậm phát triển và đang phát triển, chúng ta càng thấm thía và hiểu sâu sắc hơn
một châm ngơn tưởng chừng rất giản dị mà hệ trọng, liên quan đến sự sống còn
của mỗi dân tộc mất văn hóa là mất tất cả! Tản văn của Y Phương cũng đã góp
một tiếng chng báo động về tình trạng mai một về văn hóa dân tộc, đã và
đang diễn ra trên khắp đất nước ta và từ sự tha hóa về văn hóa ấy sẽ dẫn đến

một hệ quả tất yếu là sự mất mát trong nhân cách con người. Tản văn của Y
Phương đã phản ảnh thực trạng ấy, và qua đó đã gửi gắm những thơng điệp văn
hóa khẩn khiết tới bạn đọc cả nước.
Đã có một số bái báo giới thiệu và phân tích, đánh giá về tản văn Y
Phương, nhưng đó mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu có tính sơ lược về tản
văn của nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc này. Một cơng trình nghiên cứu tồn diện,
sâu sắc về tản văn của Y Phương vẫn còn vắng bóng. Đây là lí do khiến chúng
tơi thực hiện đề tài “Đặc sắc tản văn của Y Phương”. Nếu cơng trình nghiên
cứu được thực hiện thành cơng, chúng tơi hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo
bổ ích cho cơng tác dạy và học chun đề văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại trong trường đại học, hệ cử nhân và thạc sĩ văn học nói riêng, và cho
những ai u mến muốn tìm hiểu nghiên cứu về sáng tác của các nhà văn dân
tộc thiểu số Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ của Y Phương sớm thu hút sự quan tâm của bạn đọc và đặc biệt của giới
lí luận phê bình, nghiên cứu văn học. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài báo,
luận văn thạc sĩ tìm hiểu và đánh giá về thơ của Y Phương - nhà thơ được tơn vinh
là một trong những gương mặt thơ Tày sáng giá nhất của thơ Việt Nam hiện đại.
Nhưng với tản văn của Y Phương, do thời gian cơng bố tác phẩm còn rất mới mẻ,
số lượng các cơng trình nghiên cứu về nó còn rất khiêm tốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

3

Bài viết “Dấu ấn văn hóa Tày qua Tản văn của Y Phương” của tác giả Trần
Cơng Văn là bài viết khơng dài nhưng đã bao qt một vấn đề lớn: những biểu hiện
của bản sắc văn hóa Tày trong Tản văn của Y Phương. Tác giả đã triển khai ba vấn
đề trong bài viết của mình: Văn hóa ẩm thực của người Tày trong Tản văn của
Y Phương; văn hóa tâm linh của người Tày trong Tản văn của Y Phương; khát
vọng bảo tồn văn hóa dân tộc trong Tản văn của Y Phương. Trong từng tiểu

mục kể trên, Trần Cơng Văn đã phân tích, chứng minh các ví dụ cụ thể trong
Tản văn của Y Phương để đi tới một kết luận khoa học: “dấu ấn văn hóa Tày
trong Tản văn Y Phương khơng chỉ biểu hiện ở ẩm thực, lễ tết, tâm linh mà còn
in đậm trong phương thức thể hiện, từ ngơn ngữ, giọng điệu cho đến hình ảnh
đều mang dáng dấp, lối tư duy của người vùng cao ( ). Tháng giêng - tháng
giêng một vòng dao quắm của Y Phương nhẹ nhàng mà tinh tế, giản dị mà sâu
sắc, chứa chan tình nhân ái, hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái
thiện, cái rất thực, rất tự nhiên mang hồn cốt của người Tày [51].
Khơng bao qt một vấn đề lớn rồi luận giải kĩ lưỡng như bài viết của Trần
Cơng Văn, tác giả Tuy Hòa trong bài viết “Một sự cơng nhận dành cho thể loại Tản
văn” Nguồn: (tonvinhvanhoa.doc.vn), chỉ khái lược về Tản văn của Y Phương như
một bài điểm sách được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2010 [52].
Tuy vậy, trong bài viết ngắn này, Tuy Hòa đã chỉ ra một vài nét đặc sắc của
Tản văn Y Phương: có một khơng gian văn hóa Tày độc đáo của vùng núi Cao
Bằng; mạch nguồn cảm hứng của Tản văn Y Phương là nỗi nhớ q hương của một
người con xa xứ “Chuyển về Hà Nội sinh sống, Y Phương như một cánh chim khắc
khoải đêm ngày nhớ nhung gió chuyển, mây bay” [52]; chất thơ trong Tản văn Y
Phương “Tản văn của Y Phương khơng chinh phục người đọc bằng ánh mắt sắc sảo,
mà bằng cái nhìn âu yếm. Có lúc Y Phương cao hứng, tung tẩy ý tứ theo bút pháp
nhà thơ”. Điều đáng tiếc là trong bài viết này, tác giả khẳng định nhiều mà ít chứng
minh cho các kết luận khoa học của mình.
Trong bài viết “Tản văn - thể loại khơng dành cho người viết trẻ?” (Nguồn:
phongdiep.net), tác giả Nguyễn Hồng Nga dành nhiều cơng sức để giới thuyết về
thể loại tản văn, giới thiệu một số tác giả trẻ đã thành cơng với thể loại văn học này,
và trong đó tác giả đã dành cho tản văn của Y Phương lời chào đón trân trọng: “chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

4

kể riêng trong một vài năm gần đây, người đọc đã đón nhận nhiều tập tản văn của

thế hệ nhà văn đã định hình tên tuổi chào đời. Đó là Y Phương, một nhà thơ Tày đã
đến và chinh phục những người u tản văn với Tháng giêng - tháng giêng một
vòng dao quắm”[53]. Quả thực, nếu xét ở cương vị nhà thơ, Y Phương là một nhà
thơ khơng còn trẻ và đã thành danh trên thi đàn Việt Nam hiện đại, nhưng ơng lại là
một nhà văn trẻ khi đột ngột xuất hiện bằng hai tập tản văn được người đọc u
mến và tìm đọc.
Tìm hiểu, đánh giá tồn diện cả hai tập Tản văn của Y Phương với cái
nhìn sâu sắc, nhà phê bình Văn học Dân tộc Thiểu số Việt Nam hiện đại Lâm
Tiến, với bài viết “Vẫn cứ xanh một màu rừng” đã mang lại cho chúng ta ấn
tượng sâu đậm nhất. Trong bài viết này, Lâm Tiến đã đề cập đến nhiều nét đặc
sắc của Tản văn Y Phương, nhưng nổi bật nhất là: qua tản văn Y Phương đã vẽ
“chân dung tâm hồn” mình chân thật nhất: “ít ai viết tản văn mà lại thể hiện
con người mình rõ ràng và thực đến vậy” [34]. Đó là hình ảnh q hương và
con người vùng cao Co Xàu đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó là chiều sâu
văn hóa Tày trong tản văn Y Phương: “Mỗi tản văn của Y Phương như một lát
cắt, một tầng vỉa làm lộ dần chiều sâu văn hóa của q hương, của dân tộc ( ),
Y Phương viết tản văn với một tầm nhìn chủ động, áp đảo, với một màu xanh
của rừng khơng thể nào pha lẫn” [34]
Như vậy, qua khảo sát, tìm tòi, chúng tơi mới chỉ thấy có một số bài viết
bước đầu tìm hiểu, đánh giá về Tản văn của Y Phương, điều đó khơng tương xứng
với giá trị đặc sắc của hai tập tản văn này. Bởi vậy, chúng tơi lựa chọn đề tài “Đặc
sắc tản văn của Y Phương” để thực hiện luận văn của mình. Là một người con của
đồng bào dân tộc thiểu số vùng cực Bắc, chúng tơi đã tìm thấy bóng dáng q
hương và con người dân tộc mình ít nhiều qua Tản văn của Y Phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
trong hai tập tản văn của Y Phương. “Kungfu người Co Xàu” – NXB. Hội Nhà văn,
2010, “Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm” – NXB. Phụ Nữ, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />


5

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát, phân tích, đánh giá hai tập tản văn của Y Phương là
“Tháng giêng – tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu”. Ngồi
ra chúng tơi còn mở rộng so sánh tản văn Y Phương với tản văn của những nhà văn
khác như tản văn của Hồng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Nguyễn Ngọc Tư
Những cơng trình nghiên cứu về văn hóa Tày cũng được sử dụng làm tư liệu
nhằm góp phần làm nổi bật đối tượng nghiên cứu của luận văn.
4. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá những đặc sắc ở một số phương
diện nội dung và nghệ thuật của Tản văn Y Phương chúng tơi chỉ ra những mạch
nguồn cảm hứng và bản sắc văn hóa Tày đậm nét trong từng trang viết của Y
Phương, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo cùng đóng góp của Y Phương cho văn
xi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng, và cho nền văn học Việt Nam
hiện đại nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thống kê, phân tích, đánh giá lí thuyết về tản văn nói chung, từ đó “soi
chiếu” vào tản văn của Y Phương. Từ cơ sở lý thuyết ấy, chúng tơi khảo sát, đánh
giá một số phương diện đặc sắc nhất như cảm hứng nghệ thuật, kết cấu, nhân vật
người trần thuật, ngơn ngữ, bức tranh thiên nhiên xã hội và hình ảnh con người
miền núi trong tản văn Y Phương, qua đó khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị
nghệ thuật đặc săc của mảng sáng tác độc đáo này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi vận dụng một cách tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học ).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.

- Phương pháp thống kê – phân loại.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

6

7. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có tính tồn diện về tản văn của
Y Phương. Thơng qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá một số nét đặc sắc ở cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật của tản văn Y Phương, chúng tơi khơng chỉ
khẳng định tài năng, tâm huyết và cá tính sáng tạo của nhà văn mà còn từ đó khẳng
định thành tựu của văn học thiểu số Việt Nam hiện đại. Chúng tơi muốn góp phần
làm sáng tỏ hơn những đặc trưng thể loại của tản văn trong đời sống thể loại văn
học Việt Nam đương đại.
8. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và phần thư mục tại liệu tham khảo, luận văn
có cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về tản văn và những mạch nguồn cảm hứng trong tản văn
của Y Phương.
Chương 2: Đặc sắc nội dung tản văn của Y Phương.
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật tản văn của Y Phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

7

Chương 1
VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN
CẢM HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG

1.1. Vài nét về tản văn

1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xi hiện đại
1.1.1.1. Khái niệm tản văn.
Ở Việt Nam cách gọi tản văn đến nay còn chưa được thống nhất về mặt nội
hàm của khái niệm. Còn nhiều ý kiến khác nhau khi định danh về thể loại văn học
này. Khái niệm tản văn ở Trung Quốc được dùng với ba cấp độ: tản văn theo nghĩa
là văn xi; tản văn theo nghĩa là những thể loại ngồi truyện, thơ và kịch; tản văn
là một thể loại văn học.
Đầu thế kỉ XX, trong quan niệm của nhiều người, tản văn vẫn được hiểu theo
nghĩa là văn xi, “là lối văn khơng đối nhau và khơng có vần” [8,118]. Hầu như tất
cả các thể loại văn xi đều có chung cách gọi là tản văn để phân biệt với văn vần,
theo cách hiểu này trong tản văn bao gồm cả Tựa, Truyện, Ký, Bi, Luận (theo cách
chia của Bùi Kỷ); luận thuyết, văn sách, sử ký, tiểu thuyết, biện thuyết, kịch bản,
giáo khoa, thơ từ (theo cách chia của Nguyễn Ứng). Hiện nay cách hiểu này khơng
còn thơng dụng nữa [8].
Ở một số Từ điển, ngồi cách hiểu là “văn xi” thì tản văn còn được hiểu là
các loại văn gồm các thể ký và các thể văn khác ngồi truyện, thơ và kịch [8]
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tản văn được dùng để chỉ một thể loại văn
học xác định. Trong các cuốn Từ điển Thuật ngữ Văn học, Năm bài giảng thể loại
tản văn được dùng như một thuật ngữ chỉ tên thể loại văn học.
Xét thực tiễn sáng tác của văn xi Việt Nam hiện đại, qua những tác phẩm
được gọi tên là tản văn của những cây bút có tên tuổi như Tản Đà, Nguyễn Tn,
Xn Diệu, Chế Lan Viên, Hồng Phủ Ngọc Tường, Mai Văn Tạo, Nguyễn Khắc
Phê, Hồng Minh Thắng, Thảo Hảo Chúng ta thấy khái niệm tản văn khơng chỉ
được hiểu là văn xi như trước mà đã được dùng để chỉ những sáng tác văn xi
ngắn, bộc bạch trực tiếp cảm xúc, tỉnh cảm, tư tưởng của người viết, trực tiếp bày tỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

8

chính kiến, bàn luận về vấn đề xã hội nhân sinh, có cốt truyện rõ ràng hoặc cốt

truyện “mờ” nhưng xoay quanh tên gọi tản văn vẫn còn có những ý kiến khác
nhau chưa phải đã thống nhất. Bởi vậy, chúng tơi cố gắng đưa ra cách hiểu của
mình về thể loại tản văn như sau: tản văn là những tác phẩm văn xi ngắn gọn,
hàm xúc có hoặc khơng có cốt truyện. Tản văn biểu hiện rõ nét “cái tơi” tác giả bởi
mỗi tản văn sẽ vẽ lên một chân dung tâm hồn tự họa của người viết. Kết cấu của tản
văn phóng khống, khơng có tính quy phạm chặt chẽ bởi được xây dựng theo dòng
cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ với những liên tưởng bất ngờ, hồi ức gần và xa cùng sự
luận giải các vấn đề nhân sinh - xã hội đậm tính chủ quan của người cầm bút. Với
một nội dung như thế tản văn có phương thức biểu hiện tự do, giọng điệu đa thanh
và ngơn ngữ đa sắc thái, kết hợp linh hoạt các bút pháp nghệ thuật khác nhau (tự sự,
trữ tình, huyền ảo ), dung nạp cả chất thơ và chất văn xi. Có thể nói tản văn là
một thể loại văn học nằm ở giữa truyện ngắn và ký văn học. Bởi vậy, chúng tơi
chọn khái niệm về tản văn trong Từ điển Thuật ngữ Văn học để từ đó có cơ sở triển
khai đề tài của mình: “Tản văn là loại văn xi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình,
tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của
tản văn mang tính chất chấm phá, khơng nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp,
nhân vật hồn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân.
Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã
hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác
giả.”[49,293]
1.1.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của tản văn
Thứ nhất Tản văn là những tác phẩm văn xi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc
khơng có cốt truyện.
Tản văn là những tác phẩm văn xi thường có dung lượng khơng lớn, phổ
biến là những bài văn ngắn ngọn, hàm xúc, có thể là những tiểu phẩm được trình
bày dưới dạng một mẩu truyện nhỏ nhằm vẽ lại một vài nét chân dung của ai đó,
hoặc kể lại một vài kỷ niệm từng ám ảnh trong ký ức, hay trở về theo dòng hồi
niệm, hoặc miêu tả một ấn tượng sâu đậm nào đó dành cho một sự vật, sự kiện, con
người có thực trong cuộc đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />


9

Sự ngắn gọn của tản văn trước hết có được là do tản văn thường xây
dựng kết cấu xoay quanh một tín hiệu thẩm mĩ trung tâm nào đó (Ví dụ như
một hình ảnh, sự kiện, một tình huống, một nhân vật ), trong tản văn “Ăn cháo
Tiều” của Lý Lan, hình ảnh bát cháo trắng ăn với củ cải muối là một tập qn
quen thuộc của người Hoa gốc Triều Châu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung
tâm, mọi cảm xúc và suy tư của người viết đều được khêu gợi từ tín hiệu này,
để cuối cùng nỗi thương nhớ cố hương là tư tưởng nghệ thuật, là cảm hứng
chính của tản văn này. Trong tản văn “Chim Huyền Hạc” của Hồng Phủ Ngọc
Tường, nhà văn đã chọn hình ảnh chim Huyền Hạc là tín hiệu thẩm mĩ trung
tâm - là biểu tượng cho nhân cách cao đẹp và khát vọng khơng thành của người
chí sĩ. [28]
Như vậy, cấu trúc của tản văn thường chọn “hạt nhân” là một tín hiệu thẩm
mĩ trung tâm - một biểu tượng, một hình ảnh có tính tượng trưng để rồi xoay quanh
nó mà “dệt” những trường liên tưởng, đan cài cảm xúc và suy tư. Chính lí do này
khiến tản văn có quy mơ nhỏ gọn, khơng dàn trải và thường đạt được sự hàm xúc. Ở
đặc trưng này, tản văn có nét tương đồng với thơ.
Tản văn có thể có hoặc khơng có cốt truyện. Ví dụ như: trong tập
“Kungfu người Co Xàu” của Y Phương, tản văn “Tiếng ve cay đắng”, “Trảy
khu tư”, “Nhúng xuống thành phố” khơng có cốt truyện, nhưng tản văn “Bắt
khách” lại có cốt truyện tương đối rõ ràng, tuy nhiên cốt truyện trong tản văn
khơng có vai trò và ý nghĩa như cốt truyện trong truyện ngắn và tiểu thuyết. Nó
chỉ là cái cớ để người viết trực tiếp bộc bạch tâm trạng và suy nghĩ của mình về
một vấn đề nhân sinh nào đó. Trong tản văn, hình ảnh và chi tiết nghệ thuật
mới là yếu tố quan trọng nhất, là hạt nhân cơ bản nhất. Người đọc có thể qn
đi cốt truyện nhưng sẽ còn ám ảnh mãi với những hình ảnh, những chi tiết nghệ
thuật có giá trị như những “thi nhãn” trong thơ. Đọc tản văn “Uống rượu trong
lòng tháp Mỹ Sơn” của Thanh Thảo chúng ta bâng khng mãi với hình ảnh

một viên gạch Chăm [28]. Đọc tản văn “Tập hát Quan họ” của Nguyễn Phan
Hách, người đọc khơng thể khơng bâng khng với sự âm vang, lan tỏa từ một
câu hát “h tình” xứ Kinh Bắc.[28]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

10

Thứ hai Tản văn bộc lộ rõ nét “cái tơi” của tác giả.
Nếu như trong truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, “cái tơi” của tác giả ln “giấu
mình” để cho câu chuyện tự nói lên tất cả, nếu như trong thơ “cái tơi” thường tự bộc
lộ rõ nét về mình nhưng chỉ là bộc lộ thế giới tâm trạng của anh ta (còn các yếu tố
về tiểu sử, nghề nghiệp, gia đình, tính cách của anh ta ln bị xóa mờ), thì tản văn
là thể loại duy nhất cho ta biết tỉ mỉ, chân xác về “cái tơi” tác giả của nó, ở cả
phương diện tâm hồn, tư tưởng, đến các chi tiết xác thực về đời tư của tác giả.
Ngun tắc tự biểu hiện đã khiến tác giả của tản văn lấy ngay “cuộc sống của chính
mình theo cách hiêu rộng nhất của từ này, làm “chất liệu” để xây dựng tác phẩm.
Đặc điểm này khiến tản văn vừa gần gũi với ký văn học, vừa gần gũi với thơ, chẳng
hạn qua tản văn “Tờ hoa” của Nguyễn Tn, chúng ta như nhìn thấy chính chân
dung tự họa của nhà văn ở cả hai phương diện đời sống tâm hồn và đời sống sinh
hoạt thường ngày của ơng, hay trong tản văn “Tắc kè nhớ núi” của Y Phương, trước
hết người đọc hiểu biết rõ q trình đi học của nhà văn cùng số bạn bè và thày cơ có
thật của Y Phương, như nhà giáo làm thơ Nguyễn Đức DZụ rồi người bạn Nguyễn
Tuấn, nhà thơ Trần Hùng v v
Thứ ba Tản văn viết về người thật, việc thật và sử dụng hư cấu có hạn chế
trong nhưng phạm vi và mức độ nhất định.
Do tản văn thường viết về nhưng kỉ niệm máu thịt, những ấn tượng sâu đậm
của chính tác giả trong dòng hồi niệm về một q khứ đã qua của chính cuộc đời
mình: viết về q hương, về người thân, về những nét đẹp văn hóa của dân tộc mà
bản thân thường chiêm nghiệm Đặc biệt, tản văn miêu tả thế giới và con người
qua “đơi mắt”, “trái tim”, “trí tuệ” đậm tính chủ quan của chính người viết - người

viết trở thành nhân vật người trần thuật chiếm vị trí trung tâm trong tác phẩm, tham
gia trực tiếp vào câu chuyện. Đặc trưng này khiến tản văn rất gần gũi với tác phẩm
ký văn học ở ngun tắc viết về người thật, việc thật, chẳng hạn như tản văn:
“Hương sắc ơ mơi” của Mai Văn Tạo đã khắc họa hình tượng trung tâm - cũng là tín
hiệu thẩm mĩ trung tâm là cây ơ mơi, một lồi cây khơng có gì đặc biệt: “Quả dài
thậm thượt, sần sùi, gút mắc, cong cong, đen đúa, cứng đờ như thanh gỗ”[28], và
đây cũng khơng phải là loại cây có giá trị kinh tế khiến người ta phải lo chăm bón
nâng niu. Nhưng hoa ơ mơi lại là hình ảnh có thật, là vẻ đẹp riêng của vùng sơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

11

nước An Giang khiến cho tác giả say mê, ám ảnh trước vẻ đẹp dân dã của lồi hoa
nở vào dịp cuối xn này: “Nở đỏ bờ kênh, gò đất, làm đẹp xóm làng, làm vui bờ
kênh vắng vẻ”[28]. So sánh vẻ đẹp của hoa ơ mơi với vẻ đẹp của hoa đào, người
con của sơng nước An Giang ấy bộc bạch tâm tư tình cảm của mình với bao kỷ
niệm gắn bó cùng lồi hoa thân thuộc của q hương.
Trong tản văn “Sử thi buồn” của Hồng Phủ Ngọc Tường, ngun tắc tơn
trọng “người thật, việc thật” trong tản văn khơng phải là “chụp ảnh” ngun xi hiện
thực, mà là cái cớ để từ đó người viết mở rộng trường liên tưởng của mình về q
khứ mờ xa, đào sâu nhằm phát hiện nhưng ý nghĩa văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính
trị từ những “người thật việc thật” ấy. Trong “Sử thi buồn”, hình ảnh sơng Hương
trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung tâm, để từ đó, nhà văn mở rộng trường liên tưởng
tới sơng Hồng Hà trong thơ Lý Bạch, đến những người bạn văn chương của nhà
thơ từng xao xuyến với sơng Hương như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Qn, để cuối
cùng nhà văn mở rộng suy tư khi liên tưởng dòng sơng Hương với dòng sơng lịch
sử - dòng sơng văn hóa đã chảy qua kinh thành Huế mà phù sa trầm tích lại là bao
tác phẩm văn chương nghệ thuật đã ra đời trên mảnh đất đế đơ này: “Có một chiều
sương sa, sơng Hương mịt mù như cả con sơng Ngân Hà đang xuống trần và trơi
qua trước mắt tơi. Chợt hiện ra một vệt lửa lung linh tiến dần về phía tơi ( ) tơi giật

mình kêu lên con thuyền Phan Bội Châu ”[54]
Nếu như truyện ngắn, tiểu thuyết sử dụng hư cấu tự do thì cả tản văn và ký
văn học, dù vẫn tơn trọng ngun tắc tái hiện “người thật việc thật”, nhưng vẫn sử
dụng hư cấu có hạn chế trong những phạm vi và ở những mức độ nhất định. Hư cấu
có hạn chế được sử dụng trong tản văn ở một số phương diện sau đây:
Sự thật trong đời sống như một tảng đá hoa cương xù xì thơ nhám, người viết
tản văn như một nghệ sĩ điêu khắc phải biến tảng đá xù xì kia thành một pho tượng
tuyệt mĩ. Cũng chỉ là đá hoa cương kia thơi, nhưng người viết tản văn đã phải “đục
đẽo” loại bỏ những gì thừa thãi, khơng cần thiết, sửa sang, gọt rũa, để biến khối đã
thành pho tượng. Cơng việc ấy đã là hư cấu nghệ thuật rồi. Trong tản văn “Ở Đà Tẻ
tơi có một que tăm”, Y Phương kể chuyện về một người cháu gái gọi nhà văn là cậu
ruột tên là Hồng Thị Đăm nhà văn khơng kể lại tồn bộ số phận của người cháu gái
này mà chỉ nhấn mạnh đến qng đời xa xứ của người cháu gái và niềm vui gặp gỡ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

12

đến trào nước mắt: “Cháu tơi như một cây phong lá đỏ, ở gần nhà ơng bà. Cây
phong hớn hở chạy như lao ra, ơm chầm lấy tơi. Nó thì cười hết cỡ, còn tơi thì khóc.
Khóc mà khơng thành tiếng. Khóc thầm trong ruột” [13]
Hư cấu có hạn chế trong tản văn còn được sử dụng để tái hiện lại những bức
tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội đã một đi khơng trở lại cùng thời gian. Nhà
văn chỉ có thể làm sống lại những hình ảnh chỉ còn trong kí ức bằng hư cấu. Đây là
“Tết q” hiện về trong hồi ức của Trọng Bảo và cũng nhờ bức tranh vẽ bằng hồi
niệm ấy, thế hệ trẻ hơm nay mới biết tết q ngày xưa có những gì mà làm bao
người đọc lại nhói lòng đến vậy: “Ngày tết năm xưa có bao nhiêu trò chơi như bịt
mắt đập niêu, đi xe đạp đốt pháo, kéo co, đánh vật, chơi cờ tướng Tiếng trống
mùa xn hội làng nghe náo nức. Bây giờ về q ”[55]
Hư cấu có hạn chế trong tản văn được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả
nhất so với kí văn học. Ở đây, “người thật việc thật” được chọn làm “tâm điểm” để

từ đó mở ra bao nhiêu vòng sóng “đồng tâm” - Những dòng sóng liên tưởng, tưởng
tượng có sự hòa nhuyễn của cả cảm xúc và suy tư, để từ hiện tại trở về q khứ
nghìn năm trước hay mơ tới tương lai trăm năm sau. Từ một bát phở Việt mà
Nguyễn Tn suy ngẫm và tơn vinh giá trị của văn hóa ẩm thực Việt.[28]. Từ một
bát cháo ăn liền đựng trong một chiếc cốc giấy, tác giả Lưu Dung trong tản văn
“Bát cháo của cha” cũng trở về với q khứ 57 năm trước, sử dụng hư cấu để tái
hiện chân dung người cha cùng bát cháo nghèo. [28]
Trong tản văn, hư cấu có hạn chế còn được sử dụng khi đặt sự vật, sự việc
và con người vào những trường liên tưởng có tính “lạ hóa”, nhằm tạo ra những vẻ
đẹp mới, giá trị mới cho những đối tượng khơng mới, để sự vật, sự việc quen
thuộc ấy vẫn là nó mà khơng chỉ là nó, độc đáo hấp dẫn và mới mẻ lạ thường.
Chúng ta hãy nghe Y Phương miêu tả nước mắt của người chị xa q trong tản
văn “Chị em”: “Khơng thấy bóng dáng người anh chị em ruột thịt. Khơng biết
nói tiếng Tày cùng ai. Vậy nên nước mắt tan chảy dưới làn da mặt. Nước mắt
khơng sao thốt nổi ra ngồi. Nước mắt ngấm qua từng chân tóc. Làm cho chúng
khơ ròn như nướng”[13]. Hoặc là hư cấu được sử dụng trong tản văn “Rơm” của
Tạ Duy Anh: nhân vật trần thuật xưng “tơi” nhớ lại một đêm nằm trong ổ rơm
mà nghe tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước: “Tơi cuộn tròn trong ổ rơm nghe tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

13

thì thầm từ kiếp trước: Rơm hy vọng cho tương lai” [ 55]. Tiếng nói của rơm thật
kỳ diệu, có được nhờ hư cấu nghệ thuật (bởi nếu chỉ tả người thật, việc thật thì
làm sao nghe được tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước đã gợi liên tưởng đến những
câu thơ có suy tư gần gũi với ý tưởng của Tạ Duy Anh:

“Hạt gạo ni hết thảy chúng ta no
Riêng hơi ấm nồng nàn như lửa
Từ những cọng rơm xơ xác gầy gò

Cái vị ngọt nên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”
(Nguyễn Duy - Hơi ấm ổ rơm)
Đặc biệt hư cấu có hạn chế được người viết tản văn sử dụng để tái hiện tâm
trạng vốn mơ hồ của nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong tản văn “Sử thi
buồn”, Hồng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng hư cấu có hạn chế để tái hiện chân dung
và tâm trạng bà Trần Thị Nữ - người chèo đò cho cụ Phan Bội Châu suốt 15 năm ở
Huế: “Hơn 40 năm sau ngày cụ Phan qua đời, tơi được gặp bà Trần Thị Nữ, người
chèo đò cho cụ Phan suốt 15 năm ở Huế. Được biết trong bấy nhiêu năm, bà đã như
qn hết chuyện đời, chỉ giữ lại một tấm lòng cơ trung với nhà u nước vĩ đại. Bà
kể lại với mọi người đến thăm vơ vàn những kỷ niệm về cụ Phan, và nhiều đêm như
người mộng du bà quanh quẩn giữa cây lá trong vườn, ngâm vang “Hải ngoại huyết
thư” trong tiếng đại bác dội vào thành phố”.[54]
Thứ tư Tản văn sử dụng phương thức nghệ thuật tự do linh hoạt - đa bút pháp.
Như chúng tơi đã trình bày ở trên, trong tản văn, chúng ta bắt gặp chất thơ
cùng sự cơ đọng hàm xúc, những hình ảnh mang tình biểu tượng rất giống với đặc
trưng của tác phẩm trữ tình, sự dồn nén dung lượng hiện thực tối đa vào phạm vi
câu chữ ngắn ngọn, cùng ý tứ, cốt truyện của truyện ngắn, viết về “người thật, việc
thật” và ngun tắc tự biểu hiện của cái “tơi” tác giả giống như tác phẩm ký văn
học Với thế mạnh này, tản văn là thể loại có thể dung hòa mọi phương thức nghệ
thuật như tự sự, trữ tình, ký, nghị luận chính trị xã hội. Và tương ứng với phương
thức nghệ thuật tự do linh hoạt này là sự đa dạng của các bút pháp nghệ thuật. Đây
là một nhận định có tính khái qt chung cho thể loại tản văn. Còn ở mỗi tản văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

14

riêng lẻ thường chỉ sử dụng một bút pháp nghệ thuật, tơ đậm một sắc thái thẩm mĩ
mà thơi. Chẳng hạn như một số tản văn của Phùng Tất Đắc, nghèo chất thơ nhưng
lại giàu chất văn xi, gắn với sự xù xì, thơ nhám của đời thường đa tạp. Ơng dùng

bút pháp của thể văn nghị luận chính trị, xã hội để mổ xẻ, phân tích, lí giải về những
“ung nhọt” của xã hội Việt Nam trước 1945. Trong tản văn “Lời người bán cám”,
nhà văn tái hiện một cảnh tượng bi thảm xuất hiện ở một chợ thuộc tỉnh Nam:
“Nhân khi ngồi trong một hàng bán cám ở tỉnh Nam, tơi thấy mấy người nhà q
đang cúi lom khom trên mấy nong cám, lấy tay vốc một chút bỏ vào mồm, nếm ra
vẻ ngon lành lắm”. Thì ra đó là những người đói ăn giả vờ đi mua cám, lấy cớ nếm
cám để kiếm chút thức ăn cho qua cơn đói khát. Từ việc nếm cám kể trên, nhà văn
bàn luận tới số phận khốn khổ của người dân q Việt Nam trong giai đoạn lịch sử
đầy máu và nước mắt này: “Thời buổi văn mình vật chất mà có người cơ cực về vật
chất còn hơn lồi cầm thú”[28]. Để rồi sau khi phân tích, luận giải về thảm cảnh
trên, nhà văn kín đáo mỉa mai các chính sách hà khắc của thực dân phong kiên đã
đẩy đồng bào ta đến bước đường cùng.
Ngược lại với bút pháp hiện thực, cùng những yếu tố của thể văn nghị
luận chính trị xã hội xuất hiện trong tản văn của Phùng Tất Đắc, chúng ta gặp
chất thơ và bút pháp trữ tình trong tản văn của Hồng Phủ Ngọc Tường:
“Sương mù là một nét phong vận riêng của sơng Hương, xuất hiện khoảng cuối
xn đến đầu hạ vào tinh mơ, cuối chiều và những đêm trăng lạnh; cũng nhiều
khi ghé lại bất ngờ như một gã lãng du. Nhiều tháng dài thành phố hư ảo trong
sương, dòng sơng mịt mù trơi trong cơn mê dại, chỉ còn ánh lửa thuyền chài lay
động ý thức giữa cõi thực và cõi mộng”[54]
Còn đây là bút pháp tả thực với giọng điệu bơng đùa, suồng sã rất gần gũi
với thể ký “bám sát” người thật việc thật: “Truyện tranh vào Việt Nam từ năm
1992, cuốn Doremon của nhà xuất bản Kim Đồng. Chú Nguyễn Thắng Vu một lần
tình cờ đi cơng tác ở Nhật, bất ngờ “chộp” được một bộ Doremon, thế là chú đem
về Việt Nam in rồi bán thật thà hơn đếm. Mà chú ấy là giám đốc nhà xuất bản Kim
Đồng mới gớm, cũng may chú Thắng ngây thơ như thế, thì mình mới có Doremon
mà đọc, chứ chú mà đàm phán bản quyền thì chắc giá bản quyền sẽ làm chú ngất
lên ngất xuống, mà mình sẽ chắng có đếch truyện gì mà đọc” [56]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />


15

Nếu như hàng loạt tản văn của Băng Sơn đều giàu chất thơ và sử dụng bút pháp
trữ tình như “Quả thu”, “Hoa xn”, “Chim thành phố” thì tản văn của Nguyễn Ngọc
Tư lại gần gũi với truyện ngắn và ký: “Sư tử khơng ăn cỏ” có sự “pha trộn” trong bút
pháp vừa tự sự vừa trữ tình, vừa có chút trào phúng: “Ờ, bản chất siêu nhân là đánh
nhau, khơng thì năm anh em đó thành lập ban nhạc chớ làm siêu nhân chi? Mà kẻ xấu
lộng hành vậy siêu nhân khơng đánh thì ai đánh???”[55]. Như vậy, dù thể loại tản văn
ở nước ngồi và ở Việt Nam vẫn còn những định nghĩa khác nhau, và điều đó là tất yếu
bởi thực tiến sáng tác của tản văn thì phong phú sinh động và đang biến đổi khơng
ngừng trong sự giao thoa - tiếp biến với các thể loại văn học khác, mà lý thuyết được
sử dụng để định danh tản văn thì ít nhiều vẫn có sự hạn hẹp, tính quy phạm, cùng sự
“chậm chạp” của nó. Tuy nhiên, qua khảo sát hàng loạt tản văn xuất hiện ở Việt Nam
từ đầu thế kỷ XX đến nay, qua một loạt tên tuổi tiêu biểu đã “vang bóng một thời” như
Tản Đà, Nguyễn Tn, Phùng Tất Đắc, Chế Lan Viên, Xn Diệu, đến những cây bút
viết tản văn tiêu biểu gần đây như Băng Sơn, Hồng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc
Tư, Y Phương Chúng tơi mạnh dạn đưa ra cách hiểu còn hạn hẹp của mình về khái
niệm tản văn và khắc họa một số đặc trưng cơ bản của thể loại văn học có cấu trúc thể
loại chưa hồn kết này. Chúng ta sẽ bắt gặp một số đặc trưng của truyện ngắn, ký, thơ,
văn nghị luận trong tản văn. Bởi vậy mà có sự “chung sống hòa bình” của rất nhiều
phương thức nghệ thuật khác nhau, bút pháp nghệ thuật khác nhau trong thể loại văn
học tưởng chừng rất nhỏ bé và khiêm tốn này.
1.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Y Phương.
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước. Ơng sinh 24/12/1948 tại
Trùng Khánh - Cao Bằng hiện đang sinh sống tại Hà Nội. Ơng nhập ngũ năm 1968,
sau đó ơng học trường Điện Ảnh Việt Nam khóa 1976 - 1979 rồi chuyển ngành
(1981). Y Phương theo học trường viết văn Nguyễn Du khóa 1983 - 1985. Ơng từng
đảm nhiệm chức Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thơng tin tỉnh Cao Bằng, là chủ tịch
hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, từng là ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam
khóa 6, và hiện đang cơng tác tại Hội nhà văn Việt Nam.

Y Phương bắt đầu làm thơ và có sáng tác đăng báo từ khi còn là một chiến sĩ bộ
đội đặc cơng. Ơng đến với thơ, và gắn bó với thơ như một dun nghiệp và lẽ sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

16

Ơng là một nhà thơ xuất sắc với sự nghiệp văn chương đáng khâm phục, là
tác giả của sáu tập thơ và hai tập tản văn, và đã đạt nhiều giải thưởng về văn học
nghệ thuật.
Các tác phẩm tiêu biểu:
 Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986)
 Lời chúc (thơ, 1987)
 Đàn then (thơ, 1996)
 Thơ Y Phương (thơ, 2000)
 Thất tàng lồm (Ngược sóng, thơ song ngữ Tày - Việt, 2006)
 Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm (Tản văn), 2009
 Kungfu người Co Xàu (chân dung và tản văn 2010)
Giải thưởng:
Giải A Hội nhà văn Việt Nam, 1987 (Tiếng hát tháng giêng - thơ)
Giải A Hội nhà văn Việt Nam, 1992 (Lời chúc - thơ)
Giải B (khơng có giải A) Bộ quốc phòng, 2000 (Chín tháng - Trường ca)
Giải Nhất cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Qn đội năm 1984 (Chùm thơ:
Phòng tuyến Khau Liêu, Tên Làng, Nói với con)
Và nhiều giải thưởng khác của Tuần báo Văn nghệ.
Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật (3 tập thơ Tiếng hát tháng
giêng, Chín tháng, Lời chúc)
Hồn thơ Y Phương là sự kết tinh từ khả năng nghệ thuật thiên phú, từ một
q trình lao động nghệ thuật gian khổ và đã trở thành lẽ sống, từ vốn văn hóa sâu
rộng được khởi nguồn từ nền văn hóa Tày đặc sắc. Và sâu thẳm hơn cả là một tình
u lớn dành cho q hương đất nước của Y Phương.

* Vài nét về thơ của Y Phương
Y Phương là một gương mặt xuất sắc của nền thơ Tày hiện đại, bên cạnh
Dương Thuấn, Mai Liễu. Thơ ơng đã có một vị trí danh dự trên thi đàn Việt
Nam đương đại. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài báo, luận văn tìm
hiểu về thơ của Y Phương. Chúng tơi muốn khái lược một số nhận xét về thơ Y
Phương của một số nhà nghiên cứu - phê bình văn học, nhà thơ, nhà văn nổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

17

tiếng, để từ đó có thêm hiểu biết tồn diện về cá tính sáng tạo độc đáo của Y
Phương - một “chìa khóa” quan trọng để “mở cánh cửa” ngơi nhà nghệ thuật
gồm cả thơ và tản văn của nhà thơ này.
Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã ví tập thơ “Tiếng hát tháng Giêng” của Y
Phương như “đóa hoa đầu mùa” hứa hẹn một mùa hoa rực rỡ sẽ xuất hiện sau đó:
“câu thơ anh tự do phóng khống như một bản nhạc của núi rừng ( ) Y Phương là
nhà thơ, một nhà thơ miền núi mới mẻ, thơ anh vừa dân tộc, nhưng có cái gì hiện
đại, hơm nay và mai sau” [12,246]. Sau nhận xét này của Tế Hanh, nhà thơ Phạm
Hổ cũng dành cho “Tiếng hát tháng Giêng” của Y Phương những tình cảm u
mến, trân trọng: “đọc thơ hay tơi thường bàng hồng và sửng sốt ( ) tơi đã trân
trọng và u q thơ anh ngay từ đầu” [12,248].
Nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn lại chỉ ra những triết lý nhân sinh
khơng “đại ngơn” mà trầm lắng, ẩn kín vì được chắt lọc từ “những vị đời anh từng
nếm trải trên những bước đường ấy” [12,259]. Chu Văn Sơn còn phát hiện ra “chất
suy tư” và giọng điệu trữ tình chủ đạo trong thơ của Y Phương: “cái điềm tĩnh của
suy tư, khơng phải lối sơi nổi giãi bày cảm xúc, kể lể lại sự kiện cho đã, cho thỏa
mãn cái tơi, tất cả đã lắng vào suy tư, suy tư lắng vào những câu gọn, chắc ngỡ chỉ
thuần duy lí, ngỡ khước từ tất cả những vần nhạc thơng thường” [15,268]. Đặc biệt,
Chu Văn Sơn nhấn mạnh sự kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố truyền thống và hiện đại
trong thơ của Y Phương: “Yếu tố hiện đại đã tìm thấy một cơ chế kết hợp hợp lí nào

đó với yếu tố truyền thống, điều khiến cơ chế ấy khơng thể là gì khác hơn lòng thiết
tha với q hương xứ sở, dân tộc” [12,269].
Tập thơ “ Lời chúc”của Y Phương là tiếng hát mới của Y Phương, vẫn giọng
điệu ấy nhưng ngân xa và trầm sâu hơn: “khơng bằng lòng với cách diễn đạt cũ, cố
gắng tìm cách nhìn, cách nói mới với những chuyện vốn là mn thuở, có được
những bài, những câu như vậy trong tình hình thơ hiện nay thật q” [12,201]. Nhà
thơ Trúc Thơng lại phát hiện một năng lực văn hóa hiếm có của Y Phương: khơng
chỉ tái hiện bản sắc văn hóa Tày của mình mà còn tiếp tục khám phá về văn hóa dân
tộc mình: “Y Phương căng thẳng xun sâu vào những tầng vỉa vơ hình của đời
sống dân tộc anh ( ) Y Phương khơng u dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

18

dân tộc. Qua tất cả những cảnh, hướng sinh hoạt vật chất và tinh thần hiện thực,
những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng khơng sao nói hết và sự thật
cuộc đời Y Phương tiếp tục phát hiện về dân tộc mình” [12, 273].
Tập thơ “Đàn then” của Y Phương ra đời và tiếp tục nhận được sự u q
trân trọng của độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình văn học: “bằng bút pháp điêu
luyện, ngơn ngữ chọn lọc, giữ được sự tinh tế của tình cảm pha lẫn cái dung dị mộc
mạc đầy chất núi rừng” [12,287]
Nhà văn Tạ Duy Anh lại có cách ví von độc đáo để đánh giá về thơ Y
Phương: “như rượu ngon, thơ ơng càng để lâu càng ngấm thời gian, có điều
kiện để thanh lọc những tạp chất, trở nên tinh khiết; ơng biết nhấn xuống cái ồn
ào của bề mặt cuộc sống tìm đến cái tinh chất thơ ngọt ngào chắt ra từ tâm hồn
Y Phương, đúng hơn là nó tự trào ra khỏi tâm hồn ơng, lại được nấu từ thứ men
đắng của cuộc đời ơng” [12,291].
Đánh giá trường ca “Chín tháng” của Y Phương, nhà thơ Đỗ Trung Lai viết: “Y
phương là một giọng điệu riêng trộn lẫn hài hòa lối nghĩ, lối nói của dân tộc anh với
khả năng biểu cảm của tiếng Việt khơng bị rơi vào cảnh “xếp hàng một phía sau” trong

việc viết trường ca như nhiều người làm trường ca khác”[12, 302]. PGS.TS Trần Thị
Việt Trung đã đánh giá thơ Y Phương một cách tồn diện trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật, đặc biệt khẳng định sự kết hợp cả tinh thần dân tộc và tinh thần
hiện đại trong thơ ơng: “Có thể khẳng định Y Phương đã vươn tới sự hài hòa giữa tính
dân tộc và tính hiện đại trong sáng tác của mình” [37,217]. Có thể nói nhận định này
khơng chỉ đúng với thơ mà còn đúng với tản văn của Y Phương.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã chỉ ra cái “thần” của thơ Y Phương – cũng là
mặt mạnh nhất, đặc sắc nhất của thơ ơng: “bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất
mà còn he hé lộ thiên, lặng lẽ mà bùng nổ, nhẩn nha như chính cuộc đời ơng, con
người ơng. Gặp thống qua bằng tay xã giao, đọc thống qua bằng cặp mắt xa lạ sẽ
thấy anh này thơ nhàn nhạt, lạnh lẽo, tửng tưng, cứ nhấp nha nhấp nhổm những núi
cùng non. Nhưng nếu dùng tấm lòng để gặp, để đọc Y Phương và thơ anh sẽ khơng
còn thấy nhàn nhạt, lành lạnh nữa mà lại âm ấm, mằn mặn, mặn mòi như thể những
câu thơ của ơng như thể cũng biết ứa nước mắt vậy” [12, 302].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

19

Những câu thơ “biết ứa nước mắt” là cách nói hình ảnh của Trần Mạnh Hảo
nhằm khẳng định nét đặc sắc nhất của thơ Y Phương: tình u thương thành thực và
mãnh liệt dành cho con người, cho q hương, đất nước và dân tộc mình. Nếu thiếu
đi tình u thương thành thực và mãnh liệt ấy, mọi kĩ xảo ngơn từ là vơ nghĩa.
Có thể nói những nhận định về thơ của Y Phương đã gợi ý rất nhiều cho
chúng tơi khi tìm hiểu tản văn của Y Phương. Có thể ví phong cách nghệ thuật Y
Phương là một gốc cây vững chãi, đầy sức sống đã sinh ra hai nhánh cây mạnh
khỏe là thơ và tản văn của ơng. Tuy mang đặc trưng thể loại khác nhau nhưng giọt
máu nào chảy ra từ một trái tim chẳng đỏ thắm?! Những gì ơng khơng nói hết được
bằng thơ thì gửi vào tản văn (và ngược lại).
1.2. Tản văn của Y Phương
Với hai tập tản văn “Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm” (2009);

“Kungfu người Co Xàu” (2010), Y Phương đã in một dấu ấn mới, thành cơng mới
trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Chúng tơi thấy có những “mạch nguồn” cảm hứng sau đây trong Tản văn của
Y Phương.
1.21. Bản sắc văn hóa Tày - miền thương nhớ sâu thẳm nhất trong Tản văn của
Y Phương.
Có thể nói, cảm hứng nghệ thuật đóng vai trò trọng tâm trong Tản văn là cảm
hứng hồi niệm, là nỗi nhớ về những cảnh, những người, những sự kiện đã qua -
những đối tượng thẩm mĩ có khả năng lay động và ám ảnh mạnh mẽ trong hồi ức
của người viết. Rồi từ nỗi thương nhớ tưởng chừng rất riêng tư ấy, khi nó đạt tới
tính điển hình, người đọc sẽ ít nhiều tìm thấy bóng dáng tâm hồn và cuộc đời mình
trong đó. Và đó mới là những tản văn hay, đủ sức neo đậu lâu dài trong trái tim độc
giả. Tác giả có thể trực tiếp hoặc gián tiếp khái qt những triết lí nhân sinh, những
bài học đạo lí cho con người, hoặc chiêm nghiệm về một hiện tượng xã hội nào đó
rồi rút ra kinh nghiệm để người đọc cùng chia xẻ, tâm đắc. Tản văn của Y Phương
đã đạt được hiệu quả nghệ thuật ấy. Cảm hứng hồi niệm trong Tản văn của Y
Phương được khơi nguồn từ nhiều đối tượng thẩm mĩ. Nhưng đối tượng thẩm mĩ
trung tâm nhất là bản sắc văn hóa Tày. Nói bản sắc văn hóa Tày chứ khơng phải là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />

×