Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận triết học Đề tài: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.71 KB, 35 trang )

1



1.1. Nét tương đồng trong lịch sử hình thành và phát triển 4
1.2. Nét tương đồng về quan điểm 5
1.2.1 Khởi nguyên vũ trụ 5
1.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan 6
1.2.3. Những tư tưởng biện chứng 6
1.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội 7
1.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế 8
 !"#
2.1. Nét khác biệt trong lịch sử hình thành và phát triển 9
2.2. Nét khác biệt trong quan điểm 11
2.2.1. Khởi nguyên vũ trụ 11
2.2.2. Thế giới quan - Nhân sinh quan 12
2.2.3. Những tư tưởng biện chứng 15
2.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội 17
2.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế 19
$%&'(
()*+",
3.1. Nho gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt Nam 20
3.2. Đạo gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt Nam 21
(-.
/0
"$
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
2

Triết học ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông và phương Tây
vào khoảng thế kỷ VIII - thế kỷ VI trước Công Nguyên. Đã có rất nhiều cách định


nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản
giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những
quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài
người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách
có hệ thống dưới dạng duy lý.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô
lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các
nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra
những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có
tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ
phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức
phong kiến phương Đông. Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái Triết học khá hoàn chỉnh.
Trong số các trường phái triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho
giáo. Người theo Nho giáo được gọi là nhà nho, là người đã đọc thấu sách thánh
hiền được thiên hạ trọng dụng, dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân thường
đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc tri thức
chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
3
thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là Nho học hay
“Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Một trường phái Triết học lớn nữa của Trung Quốc là Đạo giáo.
Đạo giáo tức là giáo lí về Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, là
tôn giáo đặc hữu chính thống của nước này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của
Đạo giáo có thể xuất hiện ở thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, khi tác phẩm Đạo đức
kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo
gia .
Đạo giáo là một trong tam giáo tồn tại thời Trung Quốc cổ đại, song song với

Nho giáo và Phật giáo. Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh
vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y học, hóa
học, vật lý, địa lý, lịch sử,…
Hai trường phái Triết Học này đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết
học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng
của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam.
Chính vì thế, việc tìm hiểu, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học
của Nho gia – Đạo gia và những ảnh hưởng của của nó đến xã hội Việt Nam là một
việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của Triết học Phương Đông, qua đó hiểu
biết thêm về sự phát triển tư tưởng của Việt Nam.
Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia
và Đạo gia” cho tiểu luận môn Triết học.
Nội dung đề tài tiểu luận gồm ba chương:

 !"
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
4
$%&'(
()*+"

11 2    3  4  5  6     / 
37
Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn, được hình thành và phát
triển trong thời Xuân thu, Chiến quốc. Ra đời trên cơ sở kinh tế xã hội Đông Chu, so
sánh với Triết học phương Tây và Ấn Độ cùng thời. Triết học Nho gia và Đạo gia có
các đặc điểm chung nổi bật như sau:
Thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn.
Thứ hai, chú trọng đến chính trị đạo đức.
Thứ ba, nhấn mạnh đến sự hài hòa và thống nhất giữa tự nhiên và xã hội.
Thứ tư là tư duy trực giác.

Triết học Nho gia và Đạo gia ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu
nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của
các nhà tư tưởng là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã
hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện
pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất
lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến
trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến
phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, triết học Nho gia và Đạo
gia còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến
dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế
nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
5
của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau
này không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền
triết học Trung Hoa.
12897
11:;<=>?@A=BCDEF
 9?G==<HIBJKLM:
Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ đạo.
Đạo để chỉ cái nguyên lí Tuyệt Đối của Vũ Trụ đã có từ trước khi khai thiên lập
địa, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Đạo có thể quan niệm dưới hai
phương diện: Vô và Hữu. Vô thì Đạo là nguyên lí của trời Đất, nguyên lí vô hình.
Hữu, thì Đạo là nguyên lí hữu hình, là Mẹ sinh ra Vạn Vật “Vô danh thiên Địa chi
thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu”.
 9?G==<HIBJNIOPQ=>
Cả 2 trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ thuyết “Âm
dương”.
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ

thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong
từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất,
trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu
của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa
đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất
cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát
triển của sự vật.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
6
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý
nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm
mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
1 :R><S<T?G=U:N=V<=:T?G=
 Quan điểm về con người:
Cả hai trường phái đều lấy triết học nhân sinh làm hạt nhân.
Tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng
tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu: hướng vào nội tâm - luôn
cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội
xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn
đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát
triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại).
 Hòa hợp và trọng truyền thống:
Ta có thể tóm tắt tư tưởng của hai trường phái vào hai đặc điểm cá biệt: hòa
hợp và trọng truyền thống. Trong cả Nho giáo lẫn Ðạo học, ta đều thấy ý tưởng về
hòa hợp tự nhiên cùng tính tương liên của mọi sự vật, và minh triết đến từ sự thừa
nhận trạng thái đó, đồng thời sống hòa hợp dưới ánh sáng khôn ngoan của nó.

Nhìn từ viễn cảnh hiện đại, ta thấy Nho giáo lẫn Ðạo học đều có vẻ là tôn giáo,
tuy thế, xét theo nguyên ngữ, cả hai chỉ được đề cập tới một cách đơn giản là “giáo”
với ý nghĩa giáo hóa, dạy bảo cách sống sao phải đạo làm người. Tuy cả hai có triển
khai các thành tố tôn giáo và siêu hình nhưng rõ ràng chúng bắt nguồn từ các hệ
thống triết học, được các tôn sư và các cá nhân đi theo làm thành các “học phái”.
1.:W=>DPDP;=>X<H=Y:Z=>
Cả 2 trường phái Nho gia và Đạo gia đều không có sự phân biệt rạch ròi giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
7
học thuyết triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất
quán.
Chẳng hạn, trong phái Nho gia, thế giới quan của Khổng Tử dao động, giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu
thần. Một mặt ông xem trời (thiên) là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự nhiên,
ông nói “Trời nói lên tất cả? Bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra”. Nhưng mặt khác,
ông lại cho rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận mệnh của xã hội và con
người, “sống chết có mệnh, giàu snag tại trời”. Ông chủ trương thờ phụng quỷ thần,
kính trọng quỷ thần, nhưng lại xa lánh quỉ thần “quỉ thần thì đáng kính, nhưng có
chớ gần”.
Còn Đạo gia thì thể hiện quan điểm biện chứng của mình trong tư tưởng về
Đạo, nơi cội nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn
vật, mà nguồn gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập;
cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với
chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Tuy nhiên vẫn có yếu tố duy tâm trong tư tưởng của mình, thể hiện ở chỗ đề
cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng “Không
cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”.
19?G=K<[IBJY:\=:DE]^_`:a<
Đây là nền triết học đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính trị- đạo đức. Bởi

đây là thời kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đã đặc biệt quan tâm,
suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khác phục
hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Ngay cả những học thuyết mà theo tôn chỉ mục đích của nó là xa rời chính trị nhưng
thực tế Đạo gia của Lão Tử và Trang Tử vẫn bàn về chính trị và đạo đức.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
8
Học thuyết “Âm dương – Ngũ hành” vốn là học thuyết chủ trương luận và
những vấn đề nguyên lý biến đổi của trời đất, vạn vật cũng được vận dụng để lý giải
những vấn đề chính trị, đạo đức của xã hội, con người.
Mặc dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung các học thuyết triết học Nho gia
và Đạo gia tập trung vào các vấn đề: (1) làm thế nào để thống nhất đất nước; (2) làm
thế nào để ổn định xã hội và (3) các chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ.
Tuỳ theo lập trường chính trị khác nhau và lợi ích giai cấp khác nhau mà có
cách giải đáp khác nhau về một vấn đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa
phong phú và vừa sâu sắc của triết học Nho gia và Đạo gia. Chẳng hạn, vấn đề triết
lý về bản tính con người. Khổng Tử và Mạnh Tử theo xu hướng khẳng định bản tính
thiện của con người. Ngược lại, Tuân Tử và Hàn Phi Tử lại chủ trương biện luận về
bản tính bất thiện của con người; còn Lão Tử, Trang Tử lại đưa ra luận thuyết về
bản tính tự nhiên của con người. Với những quan niệm khác nhau về bản tính người
như thế lại là điểm xuất phát cho một tư duy triết lý về những phương cách coi trọng
giáo dục hay pháp trị trong đạo trị quốc của các học thuyết này.
10 9?G=K<[IDEM=>b:PQ=>Y:NI_cD:R
Con người sống và hành động dựa trên các nguyên tắc cơ bản, hợp với lòng
người theo một quan niệm nhân sinh vững chắc. Cả hai trường phái đều hướng con
người đến cái thiện, khuyên con người sống tốt để có gia đình hạnh phúc và góp
phần cho một xã hội ổn định.
Nho gia nguyên thủy cho rằng Nền tảng của gia đình - xã hội là những quan hệ
đạo đức – chính trị, đặc biệt là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Các quan hệ
này được nho gia gọi là đạo. khi các quan hệ này chính danh thì xã hội ổn định, gia

đình yên vui và ngược lại. Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh
tử về đạo làm người quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất
nước
Đạo gia thì giáo huấn con người theo thuyết “vô vi”: sống và hành động theo lẽ
tự nhiên, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
9
tính của tự nhiên, là từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Nghệ thuật
sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung. Đề cao và
coi trọng người quân tử.
 !"
1 2 !"3456/ 
37
:M><dM
Nho giáo được hình thành từ thời Xuân Thu Chiến Quốc do
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) sáng lập ra.
Khi học thuyết Khổng Tử mới xuất hiện không trở thành tư
tưởng chủ yếu ngay mà mãi đến thế kỷ thứ 2 trước công nguyên,
Trung Quốc lúc đó đã là một nhà nước theo thế độ tập quyền trung
ương lớn mạnh và thống nhất. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp
thống trị và các đại sĩ phu thời Hán, Khổng Tử và tư tưởng Nho gia
của ông mới trở thành tư tưởng chính thống
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra
các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử

đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần
(trước đời Tần), :e=>><dM hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành
hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
:e=>c
10
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu
trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều
mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
LM><dM
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến
cuối thời Chiến Quốc. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ
những quan điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh
Dịch…
Lão Tử (khoảng 580- 500 TCN)- người nước Sở là người sáng lập
ra Đạo gia. Học thuyết Đạo gia của ông được ông trình bày trong cuốn
Đạo đức kinh.
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được
thừa nhận và tôn vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của
Trang Tử được sánh ngang với Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo
luận giải, ông phải sinh trước Mạnh Tử (372 - 298 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392
TCN). Tư tưởng của ông được diễn đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những
người ủng hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ thuyết của ông là quý sự sống,

trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không chịu mất một
sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
`Mc
11
Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN), học thuyết của Lão Tử mới lại
được người đời chú ý. Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai bộ
kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có nhiều
điểm lấy từ Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng thuận.
Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang Tử
đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên
nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực
đoan thành một thứ tương đối luận.
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ II TCN), tư tưởng của Lão Tử
cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa
đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng của Lão –
Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo
rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa.
2 !"397
1:;<=>?@A=BCDEF
Khổng Tử thì ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên ông quan
điểm về trời - đất - quỹ - thần không rõ ràng. Tuy nhiên đề tìm chỗ dựa vững chắc
cho lý luận đạo đức của mình, Khổng Tử và Mạnh Tử đều xây dựng thuyết “Thiên
mệnh”. Xuất phát từ vũ trụ quan của Kinh dịch, Khổng Tử cho rằng vạn vật không
ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng của
trật tự đó là thiên mệnh.
Theo Khổng Tử, Đạo Trời là thiên lý biến hoá của vũ trụ, luôn luôn không
ngừng, tác động đến con người (Kinh Dịch). Làm người phải biết được đạo trời
trong tương quan hoà hợp: Con người sinh ra đời là do khí hạo nhiên của trời đất mà
có. Sự tế tự trời đất là để tỏ cái lòng kính trọng và biết ơn, chớ không thể coi là sự

xin xỏ, bói toán (“Ai thuận theo lẽ trời thì còn, ai nghịch theo lẽ trời thì mất”). Điều
này thể hiện khuynh hướng duy tâm trong học thuyết Nho giáo.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
12
Tuy nhiên khi nói về khởi nguyên vũ trụ thì tính biện chứng duy vật của học
thuyết Nho giáo được thể hiện qua học thuyết “Âm dương, ngũ hành”. Sự biến hóa
trong vũ trụ là do nhất động, nhất tịnh của Thái cực mà ra.
Còn đối với Đạo giáo thì Lão tử cho rằng vạn vật được sinh ra từ Đạo. Đạo
sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh ra vạn vật. Đạo từ trạng thái hỗn độn
biến thành một khí (đạo sinh nhất), từ một khí biến thành hai khí Âm Dương (nhất
sinh nhị), hai khí Âm dương đối lập sinh ra 3 lực lượng: Thiên - Địa – Nhân. Ba lực
lượng đó sinh ra vạn vật. Đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật
của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Đạo ở đây được hiểu là quy luật,
tồn tại khách quan. Đạo không có màu sắc, không có âm thanh, không có hình thể,
cho nên chúng ta không nhìn thấy, không nghe thấy, không nắm bắt được, nhưng nó
là cơ sở sinh ra và làm biến đổi vạn vật trong vũ trụ. Vì Đạo không nhìn thấy, cho
nên có khi gọi là “Vô”, là cái vô hình. Cái vô hình sinh ra vạn vật là cái hữu hình.
:R><S<T?G=U:N=V<=:T?G=
 :R><S<T?G=
Thế giới quan của Khổng tử thì dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần.
Duy vật ở chỗ ông xem sự biến đổi của trời như một quy luật, là trật tự của vạn
vật: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa thay đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Đứng bên bờ
sông nhìn dòng nước chảy, Khổng Tử tự hỏi: “Trôi chảy mãi thế ư? Ngày đêm
không ngừng lại”.
Duy tâm ở chỗ ông cho Trời là một lực lượng vô hình quyết định số phận của
mỗi người và sự thịnh sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá nhân, sự sống
chết, phú quý hay nghẻo hèn là do Thiên mệnh qui định, phú quý không phải cầu là
có được, do vậy bất tất phải cầu. Ông tin ở Mệnh trời “Thiên mệnh”, sống chết có
mệnh, giàu sang tại trời. Sống theo mệnh Trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm

những điều nhân, điều thiện thì có thể biến nguy thành an.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
13
Trong triết học của Lão Tử quan niệm biện chứng về thế giới gắn với quan
niệm về đạo- đức. Nhờ đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô.
Cái vô sinh ra cái hữu, cái hữu sinh ra vạn vật, được thể hiện qua thuyết “Vô vi”.
Lão tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập
chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau. Trong vạn vật, các mặt đối lập không chỉ thống
nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau tạo ra sự thay đổi, biến
hóa không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Đây là một tư tưởng đi trước thời đại gắn
với những ngành khoa học hiện đại ngày nay đã chứng thực : vật lý, khoa học vũ
trụ, phép biện chứng về mâu thuẫn của triết học. Tuy nhiên, theo Lão Tử, sự đấu
tranh chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất hiện cái mới, mà là theo
vòng tuần hoàn khép kín.
 :N=V<=:T?G=
Quan điểm con người của Nho giáo theo tư tưởng f:gbD:Rhi tức con
người sống và làm theo chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội
(tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức ).
Bên cạnh đó, thuyết “W?B<” của Nho giáo cho rắng con người sống và hành
động không theo tự nhiên, là đem áp đặt ý chí của mình vào sự vật
Ngoài ra quan niệm "Nhân nghĩa" là quan niệm trọng tâm của Nho giáo nguyên
thủy. “Nhân nghĩa”, theo cách hiểu thông thường thì "nhân là lòng thương người",
"nghĩa" là dạ thủy chung; bất nhân là ác, bất nghĩa là bạc; mọi đức khác của con
người đều từ nhân nghĩa mà ra cũng như muôn vật muôn loài trên trời, dưới đất đều
do âm dương và nhu cương mà ra.
Trong kinh điển Nho gia, ta thấy năm quan hệ lớn, bao quát gọi là "ngũ luân" đã
được khái quát là: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em (hoặc trưởng ấu), bầu
bạn. Khi nói đến những đức thường xuyên phải trau dồi, căn cứ hai chữ "ngũ
thường" trong Kinh Lễ, nhiều danh nho đã nêu lên năm đức (gọi là ngũ thường):
Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
14
Theo Khổng Tử thì để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải
đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. (quân =
kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân",
những người thấp kém về điạ vị xã hội). Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng
mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người
quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân
xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
Đối lập tư tưởng “Hữu vi” của Khổng tử (Hữu vi là sống và hành động
không theo tự nhiên, là đem áp đặt ý chí của mình vào sự vật) là tư tưởng “Vô vi”
của Đạo gia. Lão Tử phản đối chủ trương hữu vi.
Khi xuất phát từ nguyên lý Đạo pháp tự nhiên và mở rộng quan niệm về đạo
vào lĩnh vực đời sống xã hội, Lão Tử xây dựng thuyết “Vô vi” đề trình bày quan
điểm của mình về các vấn đề nhân sinh và chính trị- xã hội.
 fjB<hlà sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo,
không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là từ bỏ
tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. chỉ khi nào từ bỏ tư lợi thì mới nhận
thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được.
Trái với tư tưởng “:gbD:R” của Nho giáo, Đạo giáo với tư tưởng “)?kDD:R”
cho rằng con người cần phải “thuận theo tự nhiên”, không được làm trái quy luật tự
nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích tầm thường của
mình, không được gò ép trái với bản tính của mình và ngược lại với bản tính của tự
nhiên, chỉ làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân
không biết, không muốn.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia
đòi hỏi con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí…
Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không
ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3

15
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung,
tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không
tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố
kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản
nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Đạo gia chủ trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo,
không cần mở mang trí tuệ, cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như
thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài động vật bậc
cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người.
.PDP;=>X<H=Y:Z=>
9?G=K<[IX<H=Y:Z=>YlG:M><Gđược thể hiện việc Khổng Tử coi sự
biến đổi của Trời là một qui luật, là trật tự của vạn vật. Những tư tưởng triết học bản
thể luận và những tư tưởng biến dịch của vũ trụ có thể xem Khổng Tử đứng trên
quan điểm triết học của Kinh Dịch. Theo tư tưởng của kinh này thì uyên nguyên của
vũ trụ, của vạn vật là thái cực. Thái cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân
thành lưỡng nghi. Sự tương tác giữa hai thế lực âm- dương mà sinh ra tứ tượng. Tứ
tượng tương thôi sinh ra bát quái và bát quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có
gốc rễ ở sự biến đổi âm -dương.
Trong triết học của Khổng Tử các phạm trù “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, “trí”,
“tín” có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm nhập vào
nhau vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó luôn cố gắng giải đáp những vấn đề
đặt ra của lịch sử và đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của
ông.
Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên trong triết học của
Khổng Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn giằng co, đan xen giữa những yếu tố
duy vật, vô thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những
quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng bị giằng xé của ông trước biến chuyển của
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
16

thời cuộc.Tính không nhất quán ấy của ông đã là cơ sở để các thế hệ sau khai thác,
xuyên tạc theo khuynh hướng duy tâm, tôn giáo thần bí.
9?G=K<[IX<H=Y:Z=>YlGLM><G được thể hiện ngay trong tư tưởng về
Đạo, nơi cội nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn
vật, mà nguồn gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập;
cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với
chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy
luật căn bản chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
 Luật quân bình (luật bù trừ):
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung
trong trời đất; là trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật
vận động biến đổi theo một trật tự điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất
cập.
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng
phẳng tất cả. Nước ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như
biển mênh mông rộng lớn, không gì không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có
gì mềm yếu hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh thì không gì hơn được nó, không
lấy gì thay thế được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ,
thì vạn vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót
lên thì không đứng vững, xoạc chân ra thì không bước được…”.
 Luật phản phục:
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính
nó; sự vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ
đi ngược lại để trở thành tính chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu thao hai nghĩa.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
17
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều
đặn, nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày,

trăng tròn lại khuyết, trăng khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi
đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi
động”), “đến chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng
đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về với gốc. Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự
trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và
không thể cưỡng lại. “Đạo pháp tự nhiên” là vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự
nhiên – nhất định sẽ thất bại.
9?G=K<[IY:\=:DE]^_`:a<
:M><G
Theo quan điểm “PSYmS=” của Nho gia thì Người quân tử phải hành đạo, tức
là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa
thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất
thiên hạ). Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải
lương và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực.
Bên cạnh đó, thuyết “W?B<” trong quan điểm trị nước của Nho gia là đem áp
đặt ý chí của mình vào sự vật. Theo Nho gia thì trị quốc áp đặt theo “đức trị” hay
“nhân trị”.
“Đức trị”: Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Khổng Tử coi
XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, đó là Ngũ luân và Tam
cương. Quan điểm này được thể hiện qua các phạm trù cơ bản trong học thuyết của
Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-Lễ-Chính danh.
“Nhân trị”: Giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo cho nhân dân.
Đường lối “nhân trị” của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp, phản
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
18
đối đấu tranh. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo
cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui,
nghèo mà không oán trách.

Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và
duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực.
Khía cạnh xã hội của con người bị hiểu một cách hạn chế và duy tâm.
LM><G
Mẫu hình xã hội lý tưởng của Đạo gia là “PSY=:niON=\D”. Lão tử cho rằng
“Dù khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự
chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo
mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời
thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục
của mình. Ở nước này có thể nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong
những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, chương
80). Xã hội được cai trị bằng cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã được
cai trị… Con người sống tự nhiên thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng, không
cần đến cả tri thức, văn hóa hay bất cứ sự tiến bộ xã hội nào…
Ngoài ra, Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo thuyết “jB<”, chống lại
chủ trương “Hữu vi” của Nho gia, cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp
luật, vì coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con
người. Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc
thống trị là bọn ăn bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân
chúng. Bọn họ chẳng “Vô vi”
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà
dân tự giàu. Ta vô dục mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ
mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những
gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
19
Tư tưởng “BjB<” của Đạo gia chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân,
“không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì
có đại ngụy” (sđd, chương 18). Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí
xảo càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn

nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà
theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48).
09?G=K<[IDEM=>b:PQ=>Y:NI_cD:R
:M><G
Quan niệm về chính danh: xây dựng xã hội chính danh để mỗi người mỗi đẳng
cấp xác định rõ danh phận của mình mà thực hiện. Chính danh là mỗi sự vật phải
được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh
không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận
ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử -
Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Nho gia cho rằng on người cần thực hiện chuẩn mực “Trung, Hiếu, Nghĩa, Trí,
Dũng”
Có khuynh hướng về đạo nhập thế, dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật khiến cho ta
ăn ở phải đạo làm người.
Những người Nho học thì chuyên về mặt thực tế, ít chú trọng về mặt lý tưởng.
LM><G
Xây dựng xã hội bình đẳng, không phân biệt người với ta, không làm thiệt hại
ai và sống không được vị kỷ, vì lợi ích riêng của bản thân mình.
Con người cần có 3 đức: “Từ, Kiệm, Khiêm”.
Đạo giáo có khuynh hướng về đạo xuất thế, lấy đạo làm chủ thể cả vũ trụ dạy
ta nên lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng.
Những người tu theo Đạo giáo, chỉ biết xuất thế lo tu độc thiện kỳ thân.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
20
$%&'(
()*+"
.1 +()*+o'"
p"
.11$=::P;=>YlG:M><dMDEPSYdY:IL=>D:d=>dI
Nho giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu có ảnh hưởng sâu sắc đến truyền

thống giáo dục, tư tưởng nhân dân ta tư xưa đến nay.
Nho giáo trong xã hội phong kiến : Tư chỗ không được ưa thích trong nhân
dân Việt Nam Nho giáo dần dần chiếm giữ vị trí quan trọng trong hệ thống xã hội
phong kiến.
a/ Tích cực
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn năm qua,
Nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học-Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà
nước, pháp luật, đặc biệt là giáo dục.
Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người, đặc biệt là về văn
học, sử học, triết học.
Hiếu học là đặc điểm của nho giáo và chính đặc điểm này đã trở thành
truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội ngày càng rộng rãi hơn,
bền chặt hơn, có tôn ti trật tự hơn.
b/ Tiêu cực
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
21
Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương
nghiệp,quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà mà quyên đi sự trao đổi mua bán, kiềm
hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính
trị.
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị
cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Quan điểm coi thường người phụ nữ của Nho giáo đã kềm hãm sự phát triển
và đóng góp của người phụ nữ.
Xem nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai
khiến.
.1$=::P;=>YlG:M><dMDEM=>D:q<rsVG?YdY:IL=>D:d=>dI

Nho giáo được Việt Nam hóa, tri thức của Nho giáo đóng góp đáng kể vào
việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư
tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Các nhân tố tích cực của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh giữ gìn và phát huy
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bên cạnh việc loại bỏ các quan điểm
lạc hậu của Nho giáo.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo vẫn còn tồn tại trong xã hội ngày
nay. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa đến
ngày nay và càng được trân trọng.
. +()*+o'"
p"
.1:W=>t=::P;=>D\Y:YuY
Trong khi Nho giáo vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội, và với
Hán Nho, nó đã thực sự trở thành một vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo giáo, trên cơ
sở thuyết vô vi, lại mang sẵn trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị. Vì
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
22
vậy, cũng giống như ở Trung Hoa, vào Việt Nam, Đạo giáo (phù thủy) đã được
người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị. Ngay khi thâm nhập nó đã là
vũ khí chống lại phong kiến phương Bắc rồi. Phong trào nông dân khởi nghĩa ở các
tỉnh Nam Trung Hoa vào thế kỷ II đều có liên hệ với các cuộc khởi nghĩa nông dân
hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Vào thời kỳ phong kiến dân tộc ở Việt Nam, Đạo
giáo thường được dùng để thu hút nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống
lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương.
Đạo giáo còn hòa trộn với các tôn giáo khác như Phật giáo. Chử Đồng Tử là
người vừa tu đắc đạo thành Phật, vừa được coi là tổ sư của Đạo giáo Việt Nam.
Đạo giáo còn ảnh hưởng đến các nhà Nho, các nhà nho khi gặp chuyện bất bình
trong chốn quan trường thì hay lui về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên, sống cuộc
sống an bình thanh thản, đó là cách tu của Đạo giáo.
Thời chống Pháp, để đối phó với kẻ địch có ưu thế về súng đạn, nhiều cuộc

khởi nghĩa đã tích cực sử dụng ma thuật làm vũ khí tinh thần: Mạc Đĩnh Phúc (cháu
18 đời của nhà Mạc) khởi nghĩa năm 1895 ở các tỉnh miền biển Bắc Bộ, tuyên
truyền là mình có phép làm cho Pháp quay trở lại bắn Pháp. Võ Trứ (quê ở Bình
Định) và Trần Cao (quê ở Quảng Nam) lãnh đạo nghĩa quân người Kinh và người
Thượng đeo bùa mang cung tên, dao rựa đánh giặc. Nguyễn Hữu Trí đóng trụ sở ở
núi Tà Lơn (Nam Bộ), tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông là con vua
Hàm Nghi và có nhiều phép màu, nhất là phép làm cho súng địch không nổ…
.:W=>t=::P;=>D<A?YuY
Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín
ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới.
Thuyết "Vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm,
nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo
nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
23
Những hiện tượng như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú…đã gây ảnh
hưởng không tốt đến đời sống tinh thần người Việt, , làm cho một bộ phận người bất
lương lợi dụng điều này để chuộc lợi từ những người nhẹ dạ, cả tin.
(-
Nho gia và Đạo gia từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh
hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam, đã góp phần xây dựng một xã hội
thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
Qua phân tích “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” đã cho
chúng ta thấy được những đặc điểm, quan điểm triết học khác nhau của hai trường
phái lớn thời Trung hoa cổ đại thời bấy giờ. Cũng qua đó cho ta thấy được các giá trị
to lớn mà các tiền nhân đã để lại cho chúng ta đến hiện nay. Tuy nhiên khi ứng dụng
vào thực tiễn, ta nên chắt lọc những tinh túy, các giá trị quý báu của hai học thuyết
trên.
Điển hình như những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã cung cấp
cho chúng ta một số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không

ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý thức con người.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép,
máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà
phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó.
Nếu như Nho gia theo quan điểm duy tâm “Thiên mệnh” cho rằng mọi việc
đều phải tuân theo Đạo trời thì Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người
cần phải “thuận theo tự nhiên”, không được làm trái quy luật tự nhiên, không được
cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích tầm thường của mình. Điều này có tính
thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, với
thiên tai và dịch bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính
trị - xã hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”,
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
24
tạo dựng một nền “văn minh” không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ
vạn vật.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục của
Đạo gia đòi hỏi con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy
ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan
nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn
chạy trước ô tô”…
Nếu Nho gia luôn khuyên răng con người nên lấy hoc thức đi đầu, làm người
phải có “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thì Đạo gia dạy con người phải biết sống khiêm
tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến
động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật;
không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay
thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho
giáo vào Đạo giáo. Tuy chúng không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước

nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều
bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát
triển những tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối
quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục…
trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3
25
/
v733(&
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời Xuân
Thu, người sáng lập là Khổng tử (1551 tr CN-479 trCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho
gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác
nhau; duy tâm và duy vật trong đó dòng Nho gia Khổng- Mạnh có ảnh hưởng rộng
và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển của Nho giáo thường kể tới là Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung
dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu).
Những tư tưởng triết học bản thể luận và những tư tưởng biến dịch của vũ trụ
có thể xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch. Theo tư tưởng
của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ , của vạn vật là thái cực. Thái cực chứa
đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi. Sự tương tác giữa hai thế lực
âm- dương mà sinh ra tứ tượng. Tứ tượng tương thôi sinh ra bát quái và bát quái
sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có gốc rễ ở sự biến đổi âm -dương.
Những tư tưởng triết học về chính trị- đạo đức của Nho gia được khảo sát chủ
yếu trong sách “luận ngữ”. Ngoài racòn có thể bổ cứu thêm trong Ngũ kinh: “Thi,
Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như “Đại học”, “Trung dung”
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết về xã
hội, chính trị- đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.
Quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng
chủ yếu sau:
Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với

con người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ
nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ
Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia” Nhóm 3

×