Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.55 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 02:
“NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ ĐẠO GIA”
SVTH : Hoàng Lan Huệ
STT : 34
Nhóm : 03
Lớp : Cao học Đêm 01- K20
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về
bản thân con người và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học ra
đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ
VIII - VI TCN mà sơ khai là nền triết học Hy Lạp cổ đại, Ấn Độ và Trung Hoa.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ
lên xã hội phong kiến. Đất nước Trung Hoa đầy biến động đã điều kiện cho nhiều
hệ thống triết học ra đời, phát triển, góp phần đưa ra những phương cách giải quyết
khác nhau cho những vẫn đề thực tiễn chính trị- đạo đức- xã hội mà thời đại đặt ra.
Trong số sáu học phái triết học lớn của triết học Trung Quốc cổ- trung đại phải kể
đến hai trường phái triết học đã giữ vai trò rất lớn trong đời sống tư tưởng của nhân
dân Trung Quốc, đó là Nho gia và Đạo gia. Trong quá trình phát triển của mình, hai
trường phái triết học này luôn có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau và do đó, bên
cạnh những nét khác biệt của mỗi trường phái, chúng lại có những nét tương đồng
với nhau.
3
Vậy những sự tương đồng và khác biệt giữa hai trường phái này là gì, những yếu tố


nào đã tác động tạo nên những đặc điểm giống và khác nhau giữa hai trường phái
đó và những trường phái triết học này đã có những ảnh hưởng gì đến đời sống tư
tưởng, tâm linh của người Việt Nam- một dân tộc vô cùng gần gũi với nhân dân
Trung Quốc,… Tất cả những vấn đề này sẽ được giải quyết trong Bài tiều luận
thông qua ba chương:
Chương I- Sự tương đồng giữa Nho gia và Đạo gia
Chương II- Sự khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Chương III- Những ảnh hưởng của Nho gia và Đạo gia đến xã hội Việt Nam
Chương I- SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
1. Nét tương đồng trong lịch sử hình thành và phát triển
Về không gian, Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn ra đời và phát
triển gắn liền với sự những thay đổi của đất nước Trung Hoa rộng lớn. Chính sự đa
dạng về dân tộc, văn hóa, lối sống, ngôn ngữ, tâm linh,…ở các vùng miền khác
nhau đã dẫn đến những cuộc tranh chấp, xung đột kéo dài triền miên. Nhưng cũng
chính xã hội đầy biến động ấy đã tạo nên một nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ với sự
phát triển nhanh của chữ viết, sự ra đời của hàng loạt các tác phẩm tiểu thuyết, thơ
ca, sử ký,… và tác động không biên giới của bốn phát minh kỹ thuật vĩ đại của
người Trung Hoa.
Một xã hội với nhiều biến động và một nền văn hóa phát triển lừng lẫy là những
tiền đề rất lớn thúc đẩy các nhà tư tưởng của các trường phái, đặc biệt là hai trường
phái Nho gia và Đạo gia ra đời. Hai trường phái đã không chỉ hấp thu những tinh
hoa văn hóa thời đại để bổ sung cho những học thuyết của mình mà còn góp phần
bồi dưỡng thêm đời sống tinh thần và làm chỗ dựa tư tưởng cho quần chúng nhân
dân trong thời đại lúc bấy giờ.
4
Về thời gian, Nho gia và Đạo gia được hình thành và phát triển trong thời Đông
Chu. Trong thời kỳ này, đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã làm nảy
sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ mới đang lấn át và
xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi vào tình trạng rối ren,

các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Chính sự tranh giành quyền lực, địa vị
xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến
tranh khốc liệt.
Do đó có thể nói, xã hội loạn lạc đã tạo ra một thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của
nhiều học thuyết. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập,
nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục
tình trạng rối ren của xã hội. Trong những học thuyết ấy, tư tưởng triết học có tính
hệ thống là Nho gia và Đạo gia do đó đã ra đời cùng nhằm đưa ra những phương
cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức- xã hội mà
thời đại đặt ra.
2. Nét tương đồng trong quan điểm
2.1 Về khởi nguyên vũ trụ
Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ Đạo. Đạo để chỉ
cái nguyên lí tuyệt đối của vũ trụ đã có từ trước khi khai thiên lập địa, không sinh,
không diệt, không tăng, không giảm. Đạo có thể quan niệm dưới 2 phương diện: vô
và hữu . Về phương diện vô, Đạo được coi là nguyên lí của trời đất, nguyên lí vô
hình. Còn theo phương diện hữu thì Đạo được xem là nguyên lí hữu hình, là mẹ
sinh ra vạn vật “Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu”.
Đối với Nho gia, Khổng Tử coi đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ
gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Xuất phát từ khai
thác lý luận âm dương – ngũ hành, Đổng Trọng Thư là người đã đưa ra thuyết “trời
5
sinh vạn vật” và “thiên nhân cảm ứng” để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải
thích vạn vật, con người và xã hội.
Đối với Đạo gia, Lão Tử cho rằng Đạo vừa dùng để chỉ bản nguyên vô hình, phi
cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín và huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy
luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đạo sinh ra vạn
vật, vạn vật nhờ Đạo mà được sinh ra và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với
Đạo.
Bên cạnh đó, cả hai trường phái triết học này đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ

bắt nguồn từ âm dương. Lý luận âm dương- ngũ hành đã được Đổng Trọng Thư
phát triển theo tinh thần Nho giáo và lợi ích chính trị của giai cấp phong kiến lúc
bấy giờ. Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không
gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng
như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương mâu thuẫn, thống nhất và giao
hòa lẫn nhau, trong âm có dương và trong dương có âm; âm và dương tác động,
chuyển hóa lẫn nhau, dương cực thì âm sinh, dương tiến thì âm lùi, dương thịnh thì
âm suy,… Và Thái cực là cội nguồn của mọi sự biến hóa trong vũ trụ, nó thống nhất
trong mình hai lực lượng đối lập âm và dương.
Có thể lý giải điểm tương đồng của hai trường phái này về quan điểm khởi
nguyên vũ trụ như sau:
Do trình độ nhận thức thời Trung Hoa cổ- trung đại còn nhiều hạn chế, họ không
thể cắt nghĩa được sự hình thành vũ trụ, nguyên nhân nào đã dẫn đến những cuộc
xung đột triền miên và họ tìm mọi cách để có thể lý giải thế giới, mặc dù đó chỉ là
dựa trên cảm tính và niềm tin.
Để lý giải nguyên nhân xảy ra các xung đột làm xã hội loạn lạc và làm cách nào để
giải quyết những xung đột ấy, họ tìm cách tìm ra một điểm chung và lấy cái đó làm
chuẩn để có thể tập hợp
6
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ, cũng như
vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai cái lực lượng
đối lập nhau là âm và dương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự
không điều hòa được hai lực lượng ấy. Mặt khác, tư tưởng triết học Trung Quốc
thời kỳ này đều có mầm mống từ thần thoại thời Tam Đại với các biểu tượng như
đế, thượng đế, quỷ thần,…và các tư tưởng này đã hòa quyện và chi phối mạnh đời
sống tinh thần của người Trung Quốc, chúng không chỉ dùng để bói toán mà còn để
lý giải vũ trụ, xã hội và con người.
2.2 Về Thế giới quan- Nhân sinh quan
Nho gia và Đạo gia coi bản tính nhân loại đều có một tính gốc. Đối với Nho gia,
tính gốc đó là tính thiện và tính ác. Con người có tính người, tính người do trời phú,

sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng do trong cuộc
sống, với những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường, tập quán, tập tục không giống
nhau nên người này khác xa với người kia. Và từ đó hình thành nên những con
người có tính thiện và tính ác. Còn đối với Đạo gia, tính gốc là khuynh hướng “vô
vi” và “hữu vi”. “Vô vi” là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không
giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự thiên.
Do đó, “vô vi” là khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể
với Đạo.
Nho gia và Đạo gia coi Đạo liên quan đến sự phát triển, tiến hóa của trời đất muôn
vật và Đức gắn chặt với Đạo. Theo Nho gia, Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá
của vạn vật trời đất và đường đi lối lại đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành
mạnh, tốt đẹp là Đạo. Việc noi theo Đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong
cuộc sống thì có được Đức trong sang, quý báu ở trong tâm. Còn theo Đạo gia, Đạo
là bản nguyên của vũ trụ, sáng tạo ra vạn vật, là phép tắc và quy luật biến hóa tự
thân của vạn vật. Đức được dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của Đạo, là cái hình
7
thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận
biết vạn vật.
Quan điểm về con người, cả Nho gia và Đạo gia đều coi con người là chủ thể của
đối tượng nghiên cứu. Nội dung của hai trường phái này tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất,
hài hòa giữa con người và xã hội. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của hai trường
phái này mà còn là đặc điểm chung của tất cả các trường phái triết học, đặc biệt là
triết học phương Đông. Triết học của hai trường phái này nói riêng và triết học
phương Đông nói chung là triết học “hướng nội”- hướng vào nội tâm - luôn cố gắng
tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh,
ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém
phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển về kinh
tế, khoa học của phương Đông so với văn minh Phương Tây- nơi có nền triết học
“hướng ngoại”.

Một đặc điểm nữa, Nho gia và Đạo gia đều có chung hai đặc điểm cá biệt: hòa hợp
và trọng truyền thống. Trong cả Nho gia lẫn Ðạo gia, ta đều thấy ý tưởng về sự
hòa hợp tự nhiên cùng tính tương liên của mọi sự vật và sự minh triết của con người
đến từ sự thừa nhận trạng thái đó, đồng thời sống hòa hợp dưới ánh sáng khôn
ngoan của nó. Khổng Tử đặt cơ sở lập luận trên sự quan sát các xã hội thực tế và
trên sự chấp nhận những truyền thống được lưu truyền trong chúng. Ngài thừa nhận
rằng không lời giảng dạy nào do ngài nói ra có nguồn gốc từ ngài. Ngài “thuật nhi
bất tác: chỉ kể lại chứ không đặt ra”. Ngài tự xem mình chỉ là kẻ trình bày chi tiết
các lời giảng cổ truyền, đặc biệt những gì được thu thập trong quá khứ và phản ánh
sinh hoạt thời sơ Chu. Nhìn từ viễn cảnh hiện đại, ta thấy Nho gia lẫn Đạo gia đều
có vẻ là tôn giáo, tuy nhiên, xét theo nguyên ngữ, cả hai chỉ được đề cập tới một
cách đơn giản là “giáo” với ý nghĩa giáo hóa, dạy bảo cách sống sao phải đạo làm
người, phù hợp với truyền thống đạo đức làm người. Tuy cả hai có triển khai các
8
thành tố tôn giáo và siêu hình nhưng rõ ràng chúng bắt nguồn và hấp thu từ các hệ
thống triết học trước, được các tôn sư và các cá nhân đi theo làm thành các học
phái.
Về tư tưởng thực chứng luận, Khổng Tử và Nho gia nói chung ít quan tâm đến
vấn đề lý giải thế giới, nguồn gốc của vũ trụ. Tuy nhiên để tìm chỗ dựa vững chắc
cho lý luận đạo đức của mình, Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa
theo một trật tự không gì cưỡng lại được. Chúng ta có thể bắt gặp tư tưởng này
trong Đạo gia với quan niệm của Lão Tử về Đạo: Đạo vừa mang tính khách quan
(vô vi), vừa mang tính phổ biến. Một đặc điểm nữa là cả Nho gia và Đạo gia đều
theo chủ nghĩa duy tâm. Mạnh Tử đã hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho Gia
trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận. Còn tư tưởng triết học của Tuân
tử của trường phái Nho gia lại thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đối với Đạo Gia,
trường phái này đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão
tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà
biết đạo trời”.
2.3 Về chính trị - xã hội

Quan điểm chính trị và xã hội của Đạo gia và Nho gia hoàn toàn khác xa nhau.
Trong khi Đạo gia khuyên con người phải sống theo lẽ tự nhiên thì Nho gia khuyên
con người phải sống theo lễ và mệnh trời. Tuy nhiên cũng có một nét tương đồng
nhỏ về phong cách sống, đều hướng con người đến bản tính thiện, sống hợp với
Đạo và hợp với lòng người. Nho gia khuyên con người sống phải chừng mực, điều
gì mà mình không muốn cũng đừng nên áp dụng cho người khác. Trong khi đó, Đạo
gia khuyên con người sống không giả tạo, từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm
mất đức.
Mặt khác, một đặc điểm chung khác giữa các trường phái này là đều đưa ra các học
thuyết nhằm hướng đến tập trung giải quyết những vấn đề thực tiễn mà
9
thời đại đặt ra, đó là giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội rối ren, loạn lạc
và đưa con người đến một lối giải thoát theo các cách khác nhau. Hai trường phái
triết học này đã phản ánh quan niệm nhân sinh của một bộ phận trong xã hội lúc bấy
giờ nên do đó, nó đã có một chỗ đứng nhất định trong đời sống trong xã hội đương
thời. Đối với Nho gia, nó đã thỏa mãn phần nào tư tưởng, tình cảm của của tầng lớp
thống trị trong xã hội, đối với Đạo gia, nó phù hợp với quan niệm nhân sinh của
tầng lớp quý tốc sa sút trong cuộc chiến triền miên trong thời Đông Chu.
Bên cạnh đó, theo hai trường phái triết học này thì người trị vì thiên hạ đều là
những người có phẩm chất tốt đẹp và đáng quý. Những phạm trù đạo đức của
trường phái này như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,…thể hiện những nguyên tắc cơ
bản của đạo đức Nho giáo- đạo đức hướng đến xây dựng mẫu người quân tử. Theo
Khổng Tử, người ham học gần với đức trí, người ham làm gần với đức nhân, người
biết hổ gần với đức dũng. Ai biết ba điều ấy ắt biết phép tu thân. Biết phép tu thân
ấy biết phép trị nhân. Biết phép trị nhân tất biết phép tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Còn theo Lão Tử, bậc thánh nhân là những người có bản tính tự nhiên tốt đẹp vốn
có và trị vì thiên hạ bằng những lẽ tự nhiên của đạo vô vi.
Một điều quan trọng nữa là xã hội mà cả hai trường phái này đều hướng đến xây
dựng là một xã hội của quá khứ và không có thực. Khổng Tử mong muốn một xã
hội thái bình ổn định, có trật tự, kỷ cương, mọi người được chăm sóc bình đẳng và

mọi cái đều là của chung còn Lão gia lại muốn đưa xã hội trở về thời đại nguyên
thủy chất phác, không có đấu tranh và giành giật, cuộc sống êm đềm, dửng dưng, tự
tại và thoát tục.
2.4 Về phương châm xử thế
Theo hai trường phái triết học này, con người sống và hành động dựa trên các
nguyên tắc cơ bản, hợp với lòng người theo một quan niệm nhân sinh vững
chắc. Cả hai trường phái đều hướng con người đến cái thiện, khuyên con người
10
sống tốt để có gia đình ấm êm, hạnh phúc và góp phần cho xây dựng một xã hội ổn
định. Nho gia nguyên thủy cho rằng nền tảng của gia đình – xã hội là những quan
hệ đạo đức – chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Các
quan hệ này được nho gia gọi là Đạo. khi các quan hệ này chính danh thì xã hội ổn
định, gia đình yên vui và ngược lại. Đạo gia thì giáo huấn con người theo thuyết vô
vi: sống và hành động theo lẽ tự nhiên, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính
của mình và ngược với bản tính của tự nhiên, là từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không
làm mất đức. Từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người
là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung.
Mặt khác, cả hai trường phái này đều đề cao và coi trọng người quân tử. Người
quân tử là những người có phẩm chất tốt đẹp, cao quý và đáng được tôn trọng và
noi theo. Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn
của người quân tử.
11
Chương II- SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
1. Nét khác biệt trong lịch sử hình thành và phát triển
Đối với Nho gia: Nho gia phát triển trong thời Xuân Thu, khi đất nước rối ren, loạn
lạc với hơn 400 cuộc chiến lớn nhỏ nhằm thôn tính lẫn nhau. Sự phát triển của Nho
gia gắn liền với những thay đổi trong lịch sử Trung Hoa thời kỳ này:
Thời Tây Chu, cơ sở của Nho giáo được hình thành với sự đóng góp của Chu Công
Đán, còn gọi là Chu Công.
Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (551-479 TCN) phát triển tư tưởng

của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà
người đời sau coi ông là người sáng lập ra học thuyết Nho giáo.
Thời Chiến Quốc (480-221 TCN), do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị
chia thành 8 phái, trong đó phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất.
Mạnh Tử (372 - 298 TCN) đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho
gia nguyên thủy. Ông đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành
sách Mạnh Tử. Ông đã khép lại một giai đoạn hình thành Nho gia. Vì vậy, Nho gia
Khổng- Mạnh còn được gọi là Nho gia Nho gia nguyên thủy hay Nho gia tiên Tần.
Đến thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm
công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng
chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho
giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy
là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ
trị" để che đậy "pháp trị”
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, Nho giáo hấp thụ một
số tư tưởng của hai học thuyết này để phát triển tiếp tục.
12
Sang thời nhà Tống, Nho giáo mới thật sự phát triển rất mạnh với thuyết cách vật
trí tri (cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ)
Trong thời Minh-Thanh, Nho giáo không có phát triển mới nổi bật mà ngày càng
khắt khe và bảo thủ.
Sang thế kỷ XIX, Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi và không còn sức sống nữa.
Đối với Đạo gia: Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối
thời Chiến Quốc. Khi đó, những cải cách hiệu quả đã làm cho nhà Tần ngày càng
lớn mạnh, giang sơn được thống nhất, nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
đầu tiên của xã hội Trung Quốc được ra đời. Cùng với những thay đổi của xã hội
đương thời, Đạo gia đã có những biến chuyển nhất định:
Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo gia có thể ở thế kỉ thứ 4 trước công
nguyên khi tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Theo truyền thuyết, Lão
Tử (khoảng 580- 500 TCN)- người nước Sở là người sáng lập ra Đạo gia.

Ngoài Lão Tử là người sáng lập thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa
nhận và tôn vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của
Trang Tử được sánh ngang với Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận
giải, ông phải sinh trước Mạnh Tử (372 - 298 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392
TCN). Tư tưởng của ông được diễn đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những
người ủng hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ thuyết của ông là quý sự sống,
trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không chịu mất một
sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN), học thuyết của Lão Tử mới lại được
người đời chú ý. Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai bộ kinh
điển của Đạo gia. Trên cơ sở phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang Tử
13
đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên
nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực
đoan thành một thứ tương đối luận.
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ II TCN), tư tưởng của Lão Tử cộng
với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo
gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng của Lão – Trang
đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo rất thích
hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa.
Nếu lấy cuộc Cách Mạng Tam Dân Tân Hợi 1911 làm mốc điểm thì Đạo giáo đã
trải qua năm giai đoạn, đó là:
1) Khởi nguyên Đạo giáo: Từ thời cổ đại đến đời Đông Hán (Triều đại Hán
Thuận Đế, 125-144 TCN).
2) Đạo giáo sơ kỳ: Từ đời Hán Thuận Đế đến cuối đời Đông Hán (144-220
TCN).
3) Phát triển và chuyển hóa Đạo giáo. Từ đầu đời Tam Quốc đến cuối đời Ngũ
Đại (220-960).
4) Phân nhánh Đạo giáo thành các tông phái. Từ đầu đời Tống đến cuối đời

Nguyên (960-1368).
5) Đạo giáo thăng trầm trong đời Minh và Thanh (1368-1911).
2. Nét khác biệt trong quan điểm
2.1 Về khởi nguyên vũ trụ
Đối với Nho gia, Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch. Theo tư
tưởng của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ, của vạn vật là thái cực. Thái cực
chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi. Sự tương tác giữa hai
thế lực âm- dương mà sinh ra tứ tượng. Tứ tượng tương thôi sinh ra bát quái và bát
quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có gốc rễ ở sự biến đổi âm - dương. Sự biến
hóa trong Vũ Trụ là do nhứt động nhứt tịnh của Thái Cực mà ra. Vạn vật đã phát
hiện ra là thực có, thì nên theo cái thực ấy mà hành động sinh tồn.
14
Theo Nho gia, đứng trên quan niệm về âm dương thì âm dương sinh ra ngũ hành
(Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), từ đó sinh ra mọi biến đổi trong tự nhiên và xã hội.
Đối với Đạo gia, Lão Tử quan niệm khởi nguyên vũ trụ là Đạo. Trong chương 25,
sách “Đạo đức kinh” ông viết, tạm dịch là “Có một vật hỗn độn mà thành trước cả
trời đất. Nó yên lặng, trống không, đứng một mình mà không thay đổi, vận hành
khắp cả mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không
biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mang tên lớn vô cùng”. Theo ông,
vạn vật đều có nguồn gốc từ đạo. Đạo ở đây được hiểu là quy luật tồn tại khách
quan, không có màu sắc, không nhìn thấy.
Theo Đạo gia, đứng trên quan niệm về âm dương thì âm dương sinh ra ba lực
(Thiên, Địa, Nhân), từ đó sinh ra vạn vật.
2.2 Về Thế giới quan – Nhân sinh quan
Về thế giới quan:
Theo Nho gia, con người sống và hành động không phải theo tự nhiên mà cần đem
áp đặt ý chí của mình vào sự vật. Con người sống và làm theo chuẩn mực cho mọi
sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội (tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức ).
Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân".
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ

đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ
được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Trong Nho gia, có sự dao động giữa lập trường duy vật và lập trường duy tâm vì có
khi tin có mệnh trời: “tử sinh có mệnh” (sống chết tại ở trời, không cãi được mệnh
trời) nhưng có khi lại không tin có mệnh trời: cho rằng trời là lực lượng tự nhiên
không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con người.
15
Theo quan niệm của Nho giáo, con người không chỉ là con người xã hội (tiểu nhân
và quân tử) mà còn là con người siêu xuất xã hội. Con người siêu xuất ấy gọi là
Thánh Nhân. Thánh Nhân là người đạt Đạo, là Trời được nhân cách hóa (tức là đã
Phối Thiên 配天).
Theo Đạo gia, con người nên sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thần phác, không
làm trái với tự nhiên, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và
ngược với bản tính của tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm
cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết,
không muốn. Lão Tử rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là: từ ái, cần kiệm,
khiêm nhường, khoan dung. Lão Tử dựa hoàn toàn vào nền văn minh nông nghiệp.
Quan niệm biện chứng về thế giới của Đạo gia gắn với quan niệm về đạo- đức. Nhờ
Đức mà Đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu.
Cái hữu sinh ra vạn vật.
Lão Tử chưa nhìn thấy chỗ chưa đủ của triết học phương Đông. Đó là triết học
phương Đông mới chỉ nêu ra được là con người đồng nhất với trời đất về mặt cấu
trúc vật chất vật lý vô cơ. Mà chưa nêu ra được con người còn là một cấu trúc vật
chất sinh vật xã hội, đó là con người còn là tổng hòa các mối quan hệ với điều kiện
tự nhiên và xã hội mà con người sinh sống.
Về tư tưởng biện chứng:
Theo Nho gia:
Khổng Tử tìm cách kết hợp nền văn minh nông nghiệp với văn minh gốc du mục.
Phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản.
Về tín ngưỡng: Nho gia luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là Trời và

Người tương quan với nhau.
16
Về thực hành: Nho gia lấy hành động thực nghiệm làm trọng.
Về trí thức: Nho gia lấy trực giác để soi rọi tìm hiểu sự vật
Theo Đạo gia:
Lão Tử xây dựng học thuyết dựa hoàn toàn vào nền văn minh nông nghiệp.
Lão Tử có khuynh hướng "phản nhân văn", thiên về triết lý siêu hình, nên Lão Tử
được coi là một triết gia rất lý trí và bình thản.
Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: Quy luật quân bình và
quy luật phản phục. Luật bình quân luôn giữ cho sự vật được thăng bằng theo một
trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất cập. Quy luật phản phục là sự
phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại phương hướng cũ. Bất cứ sự vật nào
cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập, chúng ràng buộc và bao hàm lẫn nhau.
Trong vạn vật, các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà chúng còn xung đột, đấu
tranh, chuyển hóa lẫn nhau nhưng không làm xuất hiện cái mới mà là theo vòng
tuần hoàn khép kín, quay trở về gốc.
2.3 Về chính trị - xã hội
Về phương thức thoát khỏi xã hội rối ren, loạn lạc:
Đối với Nho gia, đứng đầu là Khổng tử, gồm cả Mạnh Tử sau này, thì một mặt
mong muốn trở lại với quy phạm hành vi nguyên thủy, như duy trì quy tắc tôn pháp
dưới chế độ phong kiến nhà Chu; đồng thời mặt khác lại sáng tạo nấc thang giá trị
mới. Mong được xã hội công nhận, như cổ súy, đề cao đức tính Nhân Ái luân lý
Trung Hiếu
Đối với Đạo gia, đứng đầu là Lão Tử, gồm cả Trang Tử sau này, thì bài bác, chống
phá trật tự xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngoài vòng xã
hội đó, bằng hành vi tiêu cực, như đi ẩn náu, mai danh lánh nạn chẳng hạn.
17
Về đường lối trị nước an dân:
Đối với Nho gia, các học thuyết đưa ra nhằm xây dựng một đất nước lớn mạnh và
chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng. Người quân tử phải hành đạo, tức là phải

làm quan, làm chính trị. Bên cạnh đó, Nho gia đòi hỏi người trị vì thiên hạ phải là
bậc Thánh nhân quân tử, sang ngời các phẩm chất đạo đức- nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
dũng,… và Nho gia luôn coi trọng giáo dục, lấy giáo dục làm cứu cánh để chấn
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội.
Đối với Đạo gia, các học thuyết đưa ra nhằm chỉ để xây dựng một nước nhỏ, đưa xã
hội về thời đại nguyên thủy chất phác. Lão Tử chủ trương hạn chế quyền lực của
Nhà nước và hoạt động của dân đến mức tối đa, để cho dân sống chất phác thời
nguyên thủy, duy trì tình trạng nước nhỏ, dân ít. Bên cạnh đó, theo Lão Tử, bậc
Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xóa bỏ
hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con
người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó.
Về Thuyết áp dụng:
Theo Nho gia:
Các học thuyết của Nho gia theo thuyết Hữu vi, tức là đem áp đặt ý chí của mình
vào sự vật. Ở Nho gia, trị quốc áp đặt theo “đức trị” hay “nhân trị”. “Đức trị” là coi
trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp
các mối quan hệ giữa người với người, đó là Ngũ luân và Tam cương. Các phạm trù
cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử là Nhân- Nghĩa- Lễ- Chính danh. Theo
đường lối “Nhân trị”, Khổng Tử khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn
trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận, lấy
nghèo làm vui, nghèo mà không oán trách. Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn,
ưa dùng bạo lực là mầm mống của loạn.
18
Theo Đạo gia:
Các học thuyết của Đạo gia theo thuyết Vô vi, tức là không dùng luật pháp, không
cần giáo dục nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,… Chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến
thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa. Điều đó có nghĩa
là sống và hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không làm trái với tự
nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm cho dân no bụng, xương cốt
mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết, không muốn. Với quan niệm này,

trong đời sống xã hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác, nếu không tôn trọng
người hiền thì dân không tranh nhau, nếu không coi trọng của cải quý báu thì dân
không có trộm cắp,…
Về vấn đề giai cấp:
Đối với Nho gia, Nho gia đề cao chính danh, phải có danh vị. Chính danh là mỗi sự
vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình.
"Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận tất việc không thành"
(sách Luận ngữ). Quan niệm về giai cấp trong Nho gia rất rõ ràng, quân tử ra quân
tử và tiểu nhân ra tiểu nhân. Tuy nhiên, “Đạo nhân” chỉ là đạo của người quân tử,
của giai cấp thống trị mà thôi. Và đứng trên quan niệm hữu vi, thì xã hội muốn trật
tự, kỷ cương thì phải có sự tác động của giai cấp thống trị.
Đối với Đạo gia, thì vấn đề giai cấp lại không được đặt nặng, Đạo gia để mọi thứ
thuận theo lẽ tự nhiên. Vua ít can thiệp vào việc của dân, để dân thuận theo tự nhiên
mà sống. Học thuyết của Lão Tử đề cao lẽ tự nhiên, không ham muốn, không tham
vọng.
2.4 Về phương châm xử thế
Nho gia quan niệm về các mối quan hệ chính danh. Nho gia cho rằng, nền tảng của
gia đình- xã hội là những quan hệ đạo đức- chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua- tôi,
19
cha- con, chồng- vợ. Khi các mối quan hệ này chính danh thì xã hội ổn định, gia
đình yên vui. Chính danh giúp cho mỗi người xác định rõ danh phận, đẳng cấp của
mình để từ đó mà có trách nhiệm, quyền lực khác nhau. Con người cần thực hiện
chuẩn mực: Trung, Hiếu, Nghĩa, Trí, Dũng. Có khuynh hướng về đạo nhập thế, dạy
ta biết cách xử kỷ tiếp vật khiến cho ta ăn ở phải đạo làm người. Những người Nho
học thì chuyên về mặt thực tế, ít chú trọng về mặt lý tưởng.
Đối với Đạo gia, thì hướng đến xây dựng xã hội bình đẳng, không phân biệt người
với ta, không làm thiệt hại ai. Con người cần có 3 đức: Từ, Kiệm, Khiêm và có
khuynh hướng về đạo xuất thế, lấy đạo làm chủ thể, cả vũ trụ dạy ta nên lấy thanh
tĩnh vô vi nơi yên lặng. Những người tu theo Đạo giáo, chỉ biết xuất thế lo tu độc
thiện kỳ thân.

Chương III- NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA
VÀ ĐẠO GIA ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM
1. Sự du nhập của các tư tưởng triết học vào Việt Nam
20
Thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu bằng sự xâm lược của nhà Hán năm 110 trước công
nguyên cho tới khi Ngô Quyền giành được độc lập vào năm 939. Trong thời gian
này, kẻ thù đã tìm mọi cách để Hán hoá dân tộc ta, về tư tưởng là truyền bá Nho
giáo. Những âm mưu thâm độc này đều bị nhân dân ta kiên quyết chống lại để bảo
vệ nền văn hiến của mình. Cùng với Nho giáo còn có Phật giáo và Đạo giáo cũng
được truyền vào nước ta. Sự tương tác của tam giáo này trên cơ sở những tư tưởng
triết học của dân tộc Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn quật cường của đất nước, đã
từng bước tạo nên tư tưởng triết học Việt Nam. "Cái quý giá” trong di sản ấy là
trình độ nhận thức vững chắc về tự nhiên và xã hội, về cuộc sống đấu tranh chống
thiên tai địch hoạ và mỗi tâm lý có bản sắc riêng thể hiện trong phong tục, nếp
sống và sự ứng xử giữa mọi người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng
cảm để bảo vệ Tổ quốc và lật đổ ách thống trị của ngoại bang nhất giải phóng dân
tộc như một ngọn lửa cháy trong di sản ấy.
Thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập thịnh vượng (thế kỷ X đến thế kỷ XV) là thời
kỳ mà dân tộc ta đã giành được độc lập, tự chủ bằng xương máu của mình. Những
thắng lợi vĩ đại của công cuộc dựng nước và giữ nước ấy được phản ánh sinh động
và rực rỡ trong đời sống ý thức của dân tộc, trong đó tư tưởng triết học về dân, về
con người, về dân tộc… hay nói chung hơn, những tư tưởng triết học về xã hội, về
thực tiễn giữ vai trò là trung tâm của nó và xuyên suốt về sau.
Triết học Việt Nam tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển gắn liền với hoạt động
thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc và đỉnh cao của sự phát triển ấy được
toả sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Chính những
tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam chỉ đạo hệ thống những luận
điểm cách mạng nổi tiếng của Người. Nó quyết định tính đúng đắn của đường lối
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch
ra, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".

21
2. Tác động của Nho gia đến hệ tư tưởng của Việt Nam
2.1 Ảnh hưởng của Nho gia trước Cách mạng tháng Tám
Nho giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu và có ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống
giáo dục, tư tưởng nhân dân ta tư xưa đến nay.
Nho giáo trong xã hội phong kiến: Tư chỗ không được ưa thích trong nhân dân Việt
Nam, Nho giáo dần dần chiếm giữ vị trí quan trọng trong hệ thống xã hội phong
kiến.
Nho gia có những tác động tích cực đến hệ tư tưởng Việt Nam lúc bấy giờ, đó
là:
Một là, Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng
các nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh.
Hai là, Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn năm qua,
Nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học- Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức
nhà nước, pháp luật, đặc biệt là giáo dục.
Ba là, giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người, đặc biệt là về văn
học, sử học, triết học.
Bốn là, hiếu học là đặc điểm của nho giáo và chính đặc điểm này đã trở thành
truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Năm là, Nho gia góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội ngày càng rộng rãi hơn,
bền chặt hơn, có tôn ti trật tự hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Nho gia cũng có những tác động tiêu cực đên xã hội
Việt Nam, đó là:
Một là, Nho gia Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp,
quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà mà quyên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm
tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
Hai là, Nho gia quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị
cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Ba là, quan điểm coi thường người phụ nữ của Nho giáo đã kềm hãm sự phát triển
và đóng góp của người phụ nữ.

22
Bốn là, xem nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai
khiến.
2.2 Ảnh hưởng của Nho gia sau Cách mạng tháng Tám
Nho giáo được Việt Nam hóa, tri thức của Nho giáo đóng góp đáng kể vào việc
củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng
ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Các nhân tố tích cực của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh giữ gìn và phát huy phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bên cạnh việc loại bỏ các quan điểm lạc
hậu của Nho giáo.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo vẫn còn tồn tại trong xã hội ngày nay.
Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa đến ngày
nay và càng được trân trọng.
3. Tác động của Đạo gia đến hệ tư tưởng của Việt Nam
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ II. Sách Đạo Tạng kinh ghi: “Sau
khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội (Trung Hoa) rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là
yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sỹ
luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”. Nhiều quan lại Trung Quốc sang ta cai
trị đều sính phương thuật (như Cao Biền đời Đường từng lùng tìm yểm huyệt, hy
vọng cắt đứt các long mạch để triệt nguồn nhân tài Việt Nam).
Đạo giáo chủ trương không tham gia vào đời sống xã hội (xuất thế) nhưng khi vào
đến Việt Nam thì Đạo giáo còn được dùng làm vũ khí chống áp bức (nhập thế). Ví
dụ, đời Hồ Quý Ly, có Trần Đức Huy dùng pháp thuật để thu hút đông đảo người
theo chống lại triều đình sau đó bị dẹp
Đạo gia đã có những tác động tích cực đến hệ tư tưởng của Việt Nam, đó là:
23
Trong khi Nho giáo vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội, và với Hán
Nho, nó đã thực sự trở thành một vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo giáo, trên cơ sở
thuyết vô vi, lại mang sẵn trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị. Vì
vậy, cũng giống như ở Trung Hoa, vào Việt Nam, Đạo giáo (phù thủy) đã được

người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị. Ngay khi thâm nhập nó đã là
vũ khí chống lại phong kiến phương Bắc rồi. Phong trào nông dân khởi nghĩa ở các
tỉnh Nam Trung Hoa vào thế kỷ II đều có liên hệ với các cuộc khởi nghĩa nông dân
hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Vào thời kỳ phong kiến dân tộc ở Việt Nam, Đạo
giáo thường được dùng để thu hút nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống
lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương.
Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng truyền thống. đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm
thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người dân Việt
nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Từ xa xưa người Việt Nam từ
miền núi đến miền xuôi đã rất sùng bái ma thuật, phù phép; họ tin rằng các lá bùa,
những câu thần chú… có thể chữa bệnh, trị tà ma, có thể làm tăng sức mạnh, gươm
chém không đứt… Tương truyền Hùng Vương là người giỏi pháp thuật nên có uy
tín thu phục 15 bộ, lập nên nước Văn Lang. Ngay các nhà sư cũng phải học các
phép trị bệnh, trừ tà ma thì mới đưa Phật giáo thâm nhập vào dân chúng vốn có tín
ngưỡng ma thuật được. Đạo giáo phù thủy rất tương đồng với tín ngưỡng ma thuật
nên sự hòa trộn xảy ra rất mãnh liệt đến không thể phân biệt nổi đâu là Đạo giáo,
đâu là tín ngưỡng. Rất nhiều nhà nghiên cứu quy hết cho mọi tín ngưỡng Việt Nam
là Đạo giáo, còn đối với người dân thích đồng bóng, bùa chú, thì lại không biết
Đạo giáo là gì.
Đạo giáo còn hòa trộn với các tôn giáo khác như Phật giáo. Chử Đồng Tử là người
vừa tu đắc đạo thành Phật, vừa được coi là tổ sư của Đạo giáo Việt Nam. Đạo giáo
còn ảnh hưởng đến các nhà Nho, các nhà nho khi gặp chuyện bất bình trong chốn
quan trường thì hay lui về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên, sống cuộc sống an
24
bình thanh thản, đó là các tu của Đạo giáo. Các nhà Nho còn tổ chức phụ tiên (cầu
tiên) để hỏi trời đất về chuyện thời thế, tốt, xấu, Nhiều đàn phụ tiên nổi tiếng như
đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên),
Nhiều nhà Nho còn lập đàn phụng tiên ngay tại tư gia và nơi làm việc như Hoàng
giáp Nguyễn Thượng Hiền.
Tính linh hoạt và âm dương hòa hợp là những đặc tính của Đạo giáo Việt Nam.

Đạo giáo phù thủy thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc Hoàng), Thái
Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các
vị thánh của riêng mình. Câu tục ngữ, "Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ" là để chỉ
Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa). Việc
thờ đức Thánh Trần với tam phủ (nữ thần trời-đất-nước) và tứ phủ (nữ thần mây-
mưa-sấm-chớp) đi liền với tín ngưỡng đồng bóng. Người thờ đức Thánh Trần được
gọi là ông đồng, người thờ tam phủ, tứ phủ thì gọi là bà đồng. Các ông đồng, bà
đồng có thể cho người khác mượn thân xác mình, trạng thái này gọi là lên đồng.
Thời chống Pháp, để đối phó với kẻ địch có ưu thế về súng đạn, nhiều cuộc khởi
nghĩa đã tích cực sử dụng ma thuật làm vũ khí tinh thần: Mạc Đĩnh Phúc (cháu 18
đời của nhà Mạc) khởi nghĩa năm 1895 ở các tỉnh miền biển Bắc Bộ, tuyên truyền
là mình có phép làm cho Pháp quay trở lại bắn Pháp. Võ Trứ (quê ở Bình Định) và
Trần Cao (quê ở Quảng Nam) lãnh đạo nghĩa quân người Kinh và người Thượng
đeo bùa mang cung tên, dao rựa đánh giặc. Nguyễn Hữu Trí đóng trụ sở ở núi Tà
Lơn (Nam Bộ), tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông là con vua Hàm
Nghi và có nhiều phép màu, nhất là phép làm cho súng địch không nổ…
Tuy nhiên, Đạo gia cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến hệ tư tưởng Việt
Nam, đó là:
Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín
ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình Đạo
25

×