Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.16 KB, 28 trang )




 
!"#$%&'(
)*+,
-./
01/
2), (*3
 (45
6), (65
7 (289:;
 (<=
>?@$A?B?CAD4E:;88
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
65
 FG#HA
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh
62 Trần Đăng Minh


63 Đoàn Thanh Nam
64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
Trương Bảo Long Trang 2
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa

IJ5

 ! "
## $%
&'( )# $*+,
-..**/-
01-!23
345 /-/63
7897
 :K
Trương Bảo Long Trang 3
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
IJ
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.

Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
Trương Bảo Long Trang 4
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “L"MNADO>ADG#P?CQ
R$S"D$TUV$W"?FQXYZQ[OY$G#V$W"?FQV\AD0\&QQ[OY$” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu

− Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại
và Trung Hoa cổ đại
+ Các đặc điểm tương đồng
+ Các điểm khác biệt
Trương Bảo Long Trang 5
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
*8( 7,
0]./
01/
88 ./
888 $!\P$SA^_Q?%`VUOa$G#Z?C""V$bAQcU"V$W"?FQXYZQ[OY$
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
88: ?TADOdQO$beQNRfAQcU"V$W"?FQXYZQ[OY$
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu
nô lệ nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng
cố vai trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân

chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần
– hữu thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
Trương Bảo Long Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu
và sử dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý,
bảo vệ quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện
chứng nhưng chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà
khoa học tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra
những kết luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan.
Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ
mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự
nhiên sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình
thành, bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
88g CQ"VMaADZ?C$"V$W"?FQXYZ"$H\R$b\
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi

thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
Trương Bảo Long Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh
ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,

không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
Trương Bảo Long Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy
lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.
a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản

chất của thế giới.
Trương Bảo Long Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức
của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của

Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
Trương Bảo Long Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học  duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư
tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là
nhà nhị nguyên luận.
8: 01/
8:8 $!\P$SA^_Q?%`VUOa$G#Z?C""V$bAQcU"V$W"?FQV\AD0\&QQ[OY$
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông

Trương Bảo Long Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu
(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
8:: CQOdQO$beQNRfAQcU"V$W"?FQV\AD0\&QQ[OY$
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.

Trương Bảo Long Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
8:g CQ"VMaADZ?C$"V$W"?FQV\AD0\&QQ[OY$"$H\R$b\
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
Trương Bảo Long Trang 13

Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết
“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
Trương Bảo Long Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa

độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
Trương Bảo Long Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
*:( )
*+,-]
./
/
:8 )*+-]
U @A?OUh$i$SAQcU:A!A"V$W"?FQ(
Triết học phương Tây chụi ảnh hưởng lớn của triết học Hy Lạp cổ đại.
Triết học Tây phương là một từ dùng để chỉ tư duy triết học ở thế giới phương
Tây, trái với triết học Đông phương và nhiều loại triết học bản địa khác.
Về phương diện lịch sử, từ này chỉ tư duy triết học của văn minh Tây
phương, bắt đầu với triết học Hy Lạp ở Hy Lạp cổ đại. Bản thân từ triết học
(philosophy) bắt nguồn từ Hy Lạp: philosophia (φιλοσοφία), theo nghĩa đen,
"tình yêu trí tuệ" (philein = "yêu thích" + sophia = "trí tuệ", với ý nghĩa kiến thức
và sự sẵn lòng hành động theo đó). Từ Hy Lạp cổ cho trí tuệ có lẽ có liên quan
với những ý tưởng của những khẳng định về kiến thức phổ thế trong toán học,
thiên văn, triết học tự nhiên, âm nhạc, và nhiều môn học khác được nhắc đến
trong các tác phẩm của Plato và Aristotle, cùng với nhiều triết gia cổ đại và trung
đại khác.
Thường thì sự khởi đầu của "Triết học tây phương" được đánh dấu bởi
một sự phát triển không phải về phương pháp hay kỹ thuật, mà là mục tiêu. "Triết
học Tây phương" được xác định bởi mục đích của nó về việc phát triển một cái
nhìn chính thể của vũ trụ. Sự khởi đầu của việc tìm kiếm mẫu hoạt động của vũ
trị là những gì phân biệt người Hy Lạp với những bậc tiền bối Babylon của họ,

những người đã sáng tạo rất nhiều kỹ thuật thiên văn mà cuối cùng được người
Hy Lạp sử dụng; và những tài liệu của họ đã làm nền tảng cho ý tưởng của người
Hy Lạp. Mục tiêu của người Babylon, không phải khoa học hay phương pháp
Trương Bảo Long Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
(vượt xa kỹ thuật và phương pháp của người Hy Lạp thời kỳ đầu về nhiều mặt),
đã khiến họ không được coi là một phần của xu hướng "Khoa học Tây phương".
Tương tự như triết học Hy Lạp cổ đại ở Phương Tây. Triết học Trung
Hoa cổ đại là đại diện cho nền triết học phương Đông, đặc biệt là ở Đông Á và
Việt Nam là nước chụi ảnh hưởng khá nhiều bởi triết học Trung Hoa cổ đại do
lịch sử hình thành và sự đô hộ của Trung Hoa. Về tín Ngưỡng :con rồng là một
hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Nhưng Rồng cũng là một biểu tượng xuất hiện thường xuyên ở Trung Hoa, nhất
là vào các triều đại phong kiến hơn 2000 năm trước, Rồng là tượng trưng cho
quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (bệ Rồng, mình Rồng), là linh vật
đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh "Long – Lân – Quy - Phụng" của Trung
Hoa, vậy Rồng có phải bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa?
Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với
mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên" Về sự
tích "Con Rồng Cháu Tiên" thì hẳn là người Việt ai cũng biết.
Đó là về mặt huyền thoại, còn xét trên khía cạnh lịch sử thì người Việt
vốn sống tại vùng sông nước nên từ thời xa xưa họ đã tôn sùng cá sấu như một
con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này
vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa loài cá sấu
lên thành một loài vật linh thiêng mà người Trung Hoa sau này gọi là "Giao
Long", một cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng
và cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con Rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt
trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người
Trung Hoa đã tạo ra con Rồng Trung Hoa của họ.
R 0\UAO$HjeG!"M"MkADR$SAQ?lAD(

Tư tưởng biện chứng của cả hai nền triết học đều là tư tương biện chứng
khách quan tự phát, đều chưa được xây dựng thành một hệ thống, phản ánh tính
Trương Bảo Long Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
chất biện chứng của tự nhiên xã hội. Có sự tương đồng rõ nét trong tư tưởng biện
chứng của Lão Tử và của Heraclít, cả hai ông đều thể hiện quan điểm của mình
về tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tuy nhiên, tư tưởng biện
chứng của triết học Trung Quốc (thể hiện ở tư tưởng của Lão Tử) còn mang tính
máy móc, đơn giản, vạn vật chỉ vận động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn
tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển. Ngược lại,
tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp có sự phát triển cao hơn : thể hiện tư
tưởng biện chứng trong lĩnh vực tư duy ( tư tưởng của Pácmênít và Platông), vạn
vật vận động theo quy luật nhân quả và có sự phát triển, tiến hoá (tư tưởng của
Đềmôcrít).
Trong kho tàng văn hoá cổ đại, thần thoại Hy Lạp là một đỉnh cao xán lạn.
Ngay từ khi mới xuất hiện, thần thoại Hy Lạp không chỉ là nguồn cảm hứng bất
tận cho văn học, thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc…, mà còn trở thành cội
nguồn lý luận cho sự hình thành tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ
đại. Chính vai trò này đã góp phần đem lại cho thần thoại Hy Lạp vị thế của một
di sản văn hoá nhân loại cho đến tận ngày nay. Trong bài viết này, chúng tôi cố
gắng làm rõ vai trò đó của thần thoại Hy Lạp.
Như chúng ta đều biết, Thần thoại Hy Lạp là những truyền thuyết về các
vị thần và những người anh hùng của đất nước Hy Lạp cổ đại. Thoạt đầu, thần
thoại Hy Lạp là những câu chuyện thơ truyền khẩu qua nhiều thế hệ. Những câu
chuyện đó tồn tại đến ngày nay nhờ sự ghi chép của nhiều thế hệ người Hy Lạp
sau này mà đôi khi chúng còn được bổ sung thêm bằng những lời giải thích về
các ý nghĩa biểu tượng hoặc các hàm ý khác mang tính hiện đại hoặc cổ điển.
Trong các truyền thuyết, câu chuyện và trường ca, tất cả các vị thần của
Hy Lạp cổ đại đều được miêu tả giống như hình dáng con người, ngoại trừ một
số sinh vật nửa người nửa thú như các nhân sư. Mỗi vị thần có một hình dáng,

một nguồn gốc, một sở thích, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ
quản lý; tuy nhiên, việc miêu tả các vị thần này thường xuất phát từ các dị bản
Trương Bảo Long Trang 18
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
khác nhau, nên không phải lúc nào hình ảnh các thần cũng trùng khớp. Khi các vị
thần được vinh danh trong thơ ca hoặc khi được con người sử dụng như một biểu
tượng trong lúc cầu nguyện thì thần thường được gắn với một trách nhiệm nào đó
để phân biệt với các hình ảnh khác của thần.(*)
Trong thế giới của các vị thần, trách nhiệm của một vị thần có thể phản
ánh một khía cạnh đặc biệt nào đó trong vị trí hay vai trò của vị thần ấy. Ví dụ,
Apollo - vị Thần thơ ca được coi là người bảo trợ cho nghệ thuật: thơ, ca, nhạc,
họa; thần đứng đầu các tiên nữ thơ ca là Muse. Và trách nhiệm của một vị thần
cũng có thể được sử dụng để phân biệt một khía cạnh đặc biệt nào đó của một vị
thần này so với một vị thần khác.
Trong thần thoại Hy Lạp, các vị thần được miêu tả là những người thuộc
cùng một gia đình đa thế hệ. Mười hai vị thần trên đỉnh Ôlimpia là các vị thần
quen thuộc nhất với tôn giáo và nghệ thuật Hy Lạp và được miêu tả trong các sử
thi có hình dáng của con người trong "Thời đại của các anh hùng". Cuộc sống
thần thánh và những lời răn dạy của các vị thần này được coi là những bài học
mà tổ tiên người Hy Lạp đã phải học để có được các kỹ năng sống cần thiết, có
lòng kính trọng thần thánh, biết đề cao đức hạnh và trừng phạt tội lỗi. Các vị thần
nửa người, nửa thần cũng được coi là các "anh hùng" và cho đến khi đất nước Hy
Lạp thiết lập được thể chế dân chủ, người Hy Lạp vẫn coi các vị thần này là tổ
tiên của họ, là những người có công đầu trong việc dựng nước, tạo lập cuộc sống
và mang lại những chiến công hiển hách cho dân tộc Hy Lạp.
Về triết học Trung Quốc cổ đại thì theo Lão Tử, toàn thể vũ trụ bị chi phối
bởi 2 quy luật chung, đó là: luật bình quân và luật phản phục. Luật bình quân là
luôn luôn giữ cho sự vật được thăng bằng theo một trật tự điều hòa tự nhiên. Luật
phản phục nghĩa là vạn vật biến hóa nối tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn đều
đặn, nhịp nhàng, bất tận. Ví dụ như 4 mùa xuân, hạ, thu, đông thay đổi qua lại;

trăng tròn rồi lại khuyết, khuyết lại tròn; thủy triều lên rồi lại xuống…
Trương Bảo Long Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Lão Tử cho rằng sự phát triển đến cực điểm thì trở thành mặt đối lập với
chính nó. Ví dụ họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa – gió to không
suốt sáng, mưa lớn không suốt ngày.
Nhu thắng cương, mềm thắng cứng. Trong thiên hạ cái cực mềm là nước,
nước chế ngự được cái cứng là đá (nước chảy đá mòn).Người lúc sống thì thân
hình mềm dẻo, lúc chết thì cứng đơ. Vạn vật cây cối khi sống thì mềm, lúc chết
thì cứng.Trong cuộc sống, lời nói khiêm tốn, dịu dàng bao giờ cũng được mến
chuộng. Người nóng tính, lời nói thô bạo thường bị phê phán và thường chuốc
lấy thất bại. Trương Tam Phong trước đây dựa theo nguyên lý này mà phát minh
ra môn võ Thái Cực Quyền lấy nhu thắng cương, chậm thắng nhanh.
Q 0\UAA$SeO!QUmQmAADMa$(
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng có điểm tưởng đồng với triết học Trung
Quốc cổ đại về việc đề cao con người.
Triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con
người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở
đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức,
giao tiếp và nhận thức. Platon cho rằng con người nhận thức chân lý bằng hồi
tưởng thông qua linh hồn để đạt tới ý niệm. Tách ra khỏi yếu tố thần linh thống
trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết gia Socrate. Ông đã
đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia có xu hướng hướng ngoại
thì Socrate quay về hướng nội, ông đã đề cập đến đạo đức con người.
Trong khi đó, triết học Trung Hoa lại quan niệm về con người như sau:
- Cho rằng con người có ý thức, về bản chất con người giống con vật. Khổng
Tử cho rằng: con người ta tính là thiện, không thiện là do xã hội.
- Quan hệ con người - con người: quan hệ cơ bản nhất là quan hệ sản xuất,
quan hệ này phụ thuộc giới tính, nghề nghiệp và sở thích (chỉ bàn đến chính trị,
đạo đức). Từ đó Nho giáo đã xây dựng ý thức cho quan hệ chính trị xã hội.

Trương Bảo Long Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Các quan hệ xã hội lúc đầu còn có hai chiều hướng nhưng về sau chỉ còn
một chiều: trên - dưới: trung hiếu tiết - ngũ thường - tam tòng - tứ đức.
Con người lý tưởng:
+ Kẻ sĩ: là người vui với nghèo, ham học hỏi, biết tiến biết lui.
+ Kẻ trượng phu: giữ được đạo, Khổng Tử có câu: "có thể làm tan một
đội quân lớn nhưng không làm lay chuyển được ý chí của một kẻ trượng phu"
+ Kẻ quân tử: là người lý tưởng khó thực hiện, là người tiêu biểu về mặt
chính trị và đạo đức, về chính trị người quân tử phải có nghĩa, kẻ quân tử xét xử
phải đúng đại, đạo. Về nhận thức ít bàn đến, về đạo làm người: sống phải đúng
đạo lấy đạo để phân xử giàu nghèo, tinh thần bình thản, thoải mái.
:: ),-]
::8 &$n\UA?SD$TUQmAADMa$G#Go"Vp
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên
nhân hợp nhất”. Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu mang tính hướng nội.
Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan và trong ý
niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có
đầy đủ trong ta”. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến
cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất:
trời có chín phương, con người có chín khiếu. Bát quái trong thuyết âm dương
là: Càn – khôn, chấn – tốn, cấn – đoài, khảm – ly tượng trưng cho 8 yếu tố vật
chất tạo thành vũ trụ đối lập nhau là: Trời – đất, sấm – gió, núi – hồ, nước – lửa;
tượng trưng cho quan hệ gia định: cha – mẹ, con trai cả – con trai giữa, con gái
giữa – con gái út, con trai út – con gái cả; tượng trưng cho tính khí con người:
tính kiên nghị - tính ghen tuông, tính phản trắc – tính lừng khừng, tính tháo vác –
tính hay chê, tính hay lo – tính hoạt bát…
Trương Bảo Long Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa

Triết học Hy Lạp cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là
chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Triết học
Hy Lạp đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại. Một số
trường phái nếu có đề cập đến con người thì cũng chỉ thông qua đó để cố giải
thích thế giới. Pytago cho rằng bản nguyên thế giới là con số. Trật tự các con số
được quy định bởi trật tự của vạn vật, trong đời sống phải cố vạch ra trật tự các
con số từ trong trật tự của sự vật (trật tự những điều ác, điều thiện….) để khám
phá ra trật tự thần thánh. Điều ác nhất định sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu
đúng và làm theo trật tự thần thánh. Trường phái ÊLê, Xênôphan cho rằng không
phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra các vị thần
theo trí tưởng tượng và hình tượng của mình “Nếu như bò, ngựa và sư tử có tay
và biết vẽ hay biết nặng tượng như con người thì chúng sẽ căn cứ vào bản thân
mình để vẽ hoặc nặng ra tượng về Thượng đế giống như mình để tôn thờ…”
::: 0\C"VqA??qA?"?#A?G#Z?C""V$bA(
Triết học Trung Quốc cổ đại ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội
dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào
từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ –
chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền
Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ thường,
đời Tống biến thành chữ Lý… Âm Dương Gia với lý luận âm dương là hai yếu
tố, hai khuynh hướng đối lập không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau.
Đạo Gia thì cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, nhờ đức mà thể hiện, khi mất đi là lúc
vạn vật quay về với Đạo. Đạo sinh ra Một – khí thống nhất, Một sinh ra Hai –
âm dương đối lập, Hai sinh ra Ba – trời, đất, người, Ba sinh ra vạn vật, như vậy
Âm Dương cũng được phát triển ở Đạo Gia với bản chất không đổi so với Âm
Dương Gia nhưng nó được lý giải theo một chu trình khác, phát triển bên cạnh
nhiều yếu tố khác. Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một
trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng của trật tự đó là thiên mệnh. Khổng
Trương Bảo Long Trang 22

Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử cho rằng con người có tính người, tính người do trời phú. Khi đến Mặc Gia
thì yếu tố Trời hay ý trời được Mặc Tử phát triển thêm bên cạnh yếu tố Quỷ thần,
các yếu tố này luôn giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen thưởng
những việc làm nhân nghĩa hay trừng phạt những hành động độc ác một cách
công minh.
Triết học Hy Lạp cổ đại ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường
phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại. Trường
phái duy vật nhất nguyên Milê, Talét giải thích thế giới có nguồn gốc từ nước
Anaximăngđrơ là apeiron, Anaximen là không khí. Những quan niệm triết học
duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần
chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và chứa đựng những yếu tố biện
chứng chất phác. Trường phái duy vật nhất nguyên Hêraclít thể hiện rõ các tư
tưởng biện chứng chất phác thông qua các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tuy các quan niệm biện chứng chưa được
trình bày như một hệ thống nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi được Hêraclít
trình bày dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ hay những phát biểu mang tính triết lý sâu
sắc. Trường phái duy vật đa nguyên Empêđốc khởi nguyên của vũ trụ là bốn yếu
tố đất, nước, lửa, Anaxago cho rằng khởi nguyên thế giới là các hạt giống, các
hạt giống có thể sinh sôi nảy nở nhờ vào một động lực đó là Nus – trí tuệ thuần
túy hay linh hồn của thế giới. Trường phái nguyên tử luận là đỉnh cao của triết
học duy vật hy lạp cổ đại, Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các quan điểm về
nguyên tử, Đêmôcrít là người phát triển quan niệm này thành một hệ thống chặt
chẽ và có sức thuyết phục. Mặt dù vẫn còn nhiều hạng chế nhưng Đêmôcrít đã
nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao đủ sức đương đầu chống lại trào lưu
duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, cụ thể là trào lưu duy tâm của Platông.
Trường phái duy tâm ngụy biện của Platông với thuyết ý niệm. Trường phái duy
vật siêu hình Arixtốt đã cố gắn khắc phục sự đối lập giữa hai khuynh hướng nhất
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên
đỉnh cao cực thịnh.

Trương Bảo Long Trang 23
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
::g CQ?"?lQi$rAOY"(
Triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc
tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính. Đối với triết
học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường
còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì triết học Trung Quốc
được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
Triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
Triết học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng
xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp
điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có
nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc
::5 ?MNADZ?CZ"Mi\X(
Tuy cả hai dòng triết học Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều nhằm
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng Hy lạp nặng về giải quyết mặt thứ
nhất (vấn đề vật chất). Các nhà triết học Hy lạp chú tâm nghiên cứu giải thích
nguồn gốc vật chất của thế giới (nước, lửa, không khí, nguyên tử…) mà ít chú
trọng đến mặc ý thức của con người. Ngược lại ở Trung Quốc nặng về giải quyết
mặt thứ hai (vấn đề ý thức). Các nhà triết học Trung Quốc chủ yếu quan tâm đến
mặt ý thức của con người đề cập đến các mối quan hệ xã hội, xây dựng, lý giải
các mối quan hệ (vua tôi, chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè) và cũng cố nó bằng
các chuẩn mực (nhân, lễ, nghĩa, trí, tính, trung hiếu…), cho nên dẫn đến hai
phương pháp tư duy khác nhau.
Triết học Hy Lạp đi từ cụ thể đến khái quát cho nên là tư duy tất định – tư
duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn
Triết học Trung Quốc đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với
những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào
cũng được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học

hỗn mang – dự báo.
Trương Bảo Long Trang 24
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
::4 dQO$beQcU?U$A!A"V$W"?FQ(
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật
tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình. Giai cấp thống trị đã dùng triết học
như một công cụ hữu hiệu trong việc củng cố và khẳng định vị trí đối với các
tầng lớp khác trong xã hội. Đối với triết học Trung Quốc cổ đại, hầu hết các học
thuyết có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức
của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã
hội lý tưởng và con đường trị nước .
Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu
tranh chính trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy
vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông . Về phía mình, trong các trào
lưu, học thuyết của triết học phương Đông, thường có sự đan xen các yếu tố duy
vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa các chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt, không thành trận tuyến rạch
ròi như trong triết học phương Tây.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong
nó. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát
trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Triết học
Trung Hoa cổ đại có tính hệ thống được hình thành vào thời Đông Chu, phần lớn
các nhà triết học đồng thời cũng là nhà chính trị và đạo đức
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những
tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh

hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Triết học Hy Lạp các
Trương Bảo Long Trang 25

×