Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.33 KB, 23 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài :
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
LỚP : ĐÊM 1 - K20
SVTH: NGUYỄN VIẾT MẠNH
NTH: NHÓM 4
HCM, Tháng 5/2011
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ tên
1 Nguyễn Thị Bích Liên
2 Phan Hoài Linh
3 Trần Ngọc Linh
4 Đào Thị Bích Loan
5 Đào Mạnh Long
6 Trương Bảo Long
7 Đỗ Hữu Lộc
8 Nguyễn Văn Luận
9 Nguyễn Thanh Luận
10 Nguyễn Viết Mạnh
11 Trương Công Minh
12 Trương Quang Minh
13 Đoàn Thị Minh
14 Trần Đăng Minh
15 Đoàn Thanh Nam


16 Nguyễn Vũ Thành
17 Nguyễn Thành Nam
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 2
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI &
TRIẾT HỌC 6
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 6
1.1 TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 6
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.1.2Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 7
1.1.3 Các trường phái triết học Hy Lạp :êu biểu 7
1.2 TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 11
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Qu@c cổ đại 11
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Qu@c cổ đại 12
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Qu@c cổ đại :êu biểu 12
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA 2 NỀN TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC 15
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng nhiều trường phái, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo từng khu vực địa
lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là hai nền Triết học:
Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học đặt nền móng cho
nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm
tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học Phương
Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “ Không có cơ sở văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.

K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 3
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “ Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn đến
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại.Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lí do trên mà nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa
Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm hiểu và có cái
nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu là lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc
cổ đại
- Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
- Các đặc điểm cơ bản
- Các trường phái Triết học tiêu biểu

K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 4
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Hoa
cổ đại
- Các đặc điểm tương đồng
- Các điểm khác biệt
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 5
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng bằng rộng
lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông nhiều vịnh, hải
cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy lạp cổ đại sớm trở
thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng.
Ngoài ra, Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả, con
người có tư duy bay bổng, thuận lợi mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh
tế. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời
đại đồ sắt, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư
nhân được cũng cố. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện
ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra làm hai
giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ
thế kỷ XI đến IX trước CN, xã hội biến động lớn chia thành 2 loại người: được
chia nhiều đất (Policler) và loại ít, không có đất canh tác (Acler). Lao động bị phân
hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay, điều này thúc đẩy sự
hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận

để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát triển mạnh mẽ.
Vào thế kỷ V trước CN, đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ (300 quốc
gia) – thành bang. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành bang cổ hùng mạnh
nhất, do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm, sau đó là các cuộc khởi nghĩa
của giai cấp nô lệ và cuối cùng bị La Mã chinh phục.
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 6
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự XH, củng cố
vai trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử dụng
phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ quan
điểm của mình, nhưng chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học tự
nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận
triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình độ tư
duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích
tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên sơ lược để
dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau
về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín ngưỡng, giữa chủ
nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và
thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn có nhiều bất đồng,
song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất
của tạo hóa.

1.1.3 Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 Chủ Nghĩa Duy Vật
a) Trường phái Milê
Xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học duy vật là Talét,
Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ VI TCN, nhằm làm sáng rõ bản
nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự nhiên không phải
bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là yếu tố đầu tiên, là
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 7
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là nguồn gốc của vạn vật.
Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi thứ và tạo ra vạn vật.
Thể hiện tính duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa vô thần, chống
lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
b) Trường phái Hêraclít
Nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây dựng vào thế kỷ VI TCN.
Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ
mất đi để quay về với lửa. Vạn vật chứa trong mình các mặt đối lập luôn thống
nhất và đấu tranh với nhau, vừa tồn tại vừa không tồn tại, luôn phát triển, biến đổi
và chuyển hóa. Hêraclít cho rằng, nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt, tức
cái quy luật, trật tự của vũ trụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của
triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên
Do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa nhận sự tồn tại của 4
khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa; chúng chịu sự tác động
của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận động trải qua 4 giai đoạn.
Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt giống – cái bảo tồn và phát
triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực nhỏ và có thể phân chia đến vô
tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác
nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt giống của chính nó, mang tính duy vật.
Nus –linh hồn của thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau.

Nus đưa thế giới thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình,
và qua đó nhận thức bản thân thế giới, quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận
Do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa trên thuyết nguyên tử (2 thực thể
nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật chất): là một hệ thống quan điểm duy
vật đầy đủ, nhất quán. Ông có quan điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý
tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các
phương pháp nhận thức logic như qui nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 8
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ra, theo ông đạo đức là: Hiểu biết là cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống
đúng mực, ôn hòa, không hại mình, không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà
trong đó con người sống hưởng lạc với tâm hồn thanh thản.
1.1.3.2 Chủ Nghĩa Duy Tâm
a) Trường phái Pytagore
Pytagore là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật, một vật tương ứng với một con số nhất định,
con số có trước vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn, đặt nền
móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập của mọi sự
vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn
và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối, tốt và
xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học,
vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê
Trường phái Êlê do Xênôphan thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó
Pácmênít phát triển theo chủ nghĩa duy tâm dựa trên nền tảng là khái niệm tồn tại
và được Dênông nhiệt thành bảo vệ và phát huy.
Xênôphan (Xénophane): Xênôphancho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối
cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của

vạn vật trong thế giới. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát
triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang dạng khác,
chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không hề thay đổi, đó
cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là tình
trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh rằng
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 9
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
“tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận
động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên
cứu về con người, đạo đức: “Con người hãy nhận thức về chính mình”. Platông
(Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra hai quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biết (không chân thực, không đúng đắn, bóng của
ý niệm) và thế giới các ý niệm (phi cảm tính, phi vật thể, là đúng đắn, chân thực).
Nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới
khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết,
sinh ra thế giới cảm biết.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có
trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận
thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế giới
khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong
quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn
(tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm tính, lẫn lộn, không
có chân lý).
1.1.3.3 Chủ Nghĩa Nhị Nguyên
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Socrat,
Platôn là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platôn. Cống hiến nổi bật của

Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn –
thiên về thế giới bên kia không có lợi cho người. Ông công nhận tự nhiên tồn tại
khách quan (tác phẩm ‘Các phạm trù’, cách hỏi vì sao, cái gì), đã đặt nền móng
cho khoa học lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học, duy vật trong tự nhiên;
mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức
của mọi hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân,
không có linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt - tinh thần quyết định
vật chất. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư tưởng của giai cấp chủ
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 10
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nô, quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho tầng lớp này, bảo vệ
tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ.
1.2 TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Qu{c cổ đại
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ, và trải qua 2 vương
triều nhà Thương và nhà Chu.
Vương triều Hạ (~thế kỷ XXI - thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại
tới thời vua Kiệt thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng
đồng đỏ, chữ viết chưa có. Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và
chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết
học đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống.
Vương triều Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành
Thang thành lập, tồn tại tới thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung
Quốc sống định canh, định cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực
hiện đường lối tỉnh điền; ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và
thần xã – tắc; ý tưởng về lực lượng siêu nhiên hình thành qua biểu tượng Đế
(Thượng đế hay Trời).
Vương triều Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.

Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư nhân
về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã
làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Xã hội rơi vào tình trạng rối
ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của
các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh
khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu (722-481 TCN) và Chiến
quốc (403-221 TCN). Thời Xuân thu, đất nước loạn lạc với hơn 400 cuộc chiến
lớn nhỏ làm cho 160 nước ban đầu sau hơn hai thế kỷ đánh nhau chỉ còn lại có 5
nước lớn là Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở (cục diện Ngũ bá). Sau đó, xuất hiện hai nước
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 11
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nữa là Ngô và Việt (cục diện Thất hùng). Vào thời Chiến quốc, những cải cách
hiệu quả đã làm cho nhà Tần ngày càng mạnh. Với sự lãnh đạo của Tần Thủy
Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác, thống nhất giang sơn, xây dựng nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của xã hội Trung Quốc
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Qu{c cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề do
thực tiễn đạo đức - chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời kỳ đảo lộn
của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý giải và tìm ra
những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động
trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con người một
quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong điều
kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –nghĩa –trí –học, tu
thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn
đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên -
Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học

này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những
tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình.
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Qu{c cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 Thuyết Âm - Dương
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ, cũng
như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2 thái cực
(lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm - Dương không
tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 12
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.2.3.2 Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật
và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những
tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy
- Hỏa - Thổ. Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ
thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau.
Đến thời Tây Hán, quan niệm về Âm dương – Ngũ hành đã được Đổng Trọng Thư
phát triển theo tinh thần Nho giáo và lợi ích chính trị của giai cấp phong kiến mới
giành lấy vai trò thống trị xã hội Trung Quốc. Nhờ vậy mà cả Nho giáo lẫn các
quan niệm về Âm dương - Ngũ hành đã có điều kiện chính trị thuận lợi để ảnh
hưởng lâu dài trong nền triết học Trung Quốc.
1.2.3.3 Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập
là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
luôn luôn tự vận động, biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “Trời
có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương
Hóa, 18); hay “cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không
ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý

chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Ông nói: “Đạo của
ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận
ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Khổng Tử cũng coi
thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay, lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo
đức cơ bản trong triết học của mình.
Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát
triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia
Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một
số nước lân cận.
1.2.3.4 Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN). Học thuyết của ông
được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai
hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 13
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.5 Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời
Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc đã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một
trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên
mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định
mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì
ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên
mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
1.2.3.6 Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những
luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của

con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói đại diện
cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công
xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN).
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật,
trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để
thực hiện chính sách đó.
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 14
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA 2
NỀN TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
2.1 Sự tương đồng giữa hai nền triết học cổ đại:
2.1.1 Thế giới quan, ý thức và phương pháp luận của giai cấp th{ng trị
thông qua con đường triết học:
Nền triết học cổ đại Hy Lạp và Trung Quốc, cả hai nền triết học được xem
là trụ cột của Phương Tây và Phương đông này đều có một điều kiện ra đời hết
sức thuận lợi. Do trong bối cảnh xã hội phát triển cao, sự phân hóa giai cấp rõ
ràng và sự đấu tranh giai cấp quyết liệt đòi hỏi phải có một lý thuyết cơ bản để
giải quyết những mâu thuẫn chung cho xã hội lúc bấy giờ. Đó là chiếm hữu nô lệ
ở Hi Lạp và Phong kiến ở Trung Quốc. Nhưng dưới bất kỳ hình thức nào đi nữa,
hay mức độ như thế nào đi nữa thì xét cho cùng cả hai nên triết học cổ đại này
đều mang tính đảng. Phục vụ cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Triết học là công
cụ thể hiện uy quyền ,củng cố, duy trì trật tự xã hội. Ở Hy Lạp, ngay từ trường
phái Milet, phát triển theo duy vật đơn nguyên, xây dựng một tương lai quý tộc,
phần nào còn vai trò tích cực ,có triển vọng nắm chân lý vũ trụ. Đến Platon cũng
cùng một dĩ luận là: Do quan hệ xã hội dân chủ không thỏa mãn được xã hội còn
nô lệ, còn đẳng cấp trong chủ nô, còn thành thị thống trị và bị trị: bấy giờ sản
xuất phát triển, nó đòi hỏi phải phá vỡ tính chất hẹp hòi của thành thị. Yếu tố đòi
hỏi xây dựng quan hệ xã hội mới xuất phát từ quần chúng - phần chân chính.

Nhưng nó phát triển theo hướng trái ngược, hướng quí tộc không theo thực tế
khách quan mà trở về chủ quan, trở về mơ hồ tự phát tự nhiên của xã hội nguyên
thủy, nhờ đó góp phần vào việc xây dựng chính quyền quý tộc. Ngay cả trong
các trường phái đối lập là Socrate và Democrite nhưng vẫn bảo vệ giai cấp thông
trị. Với Socrate chủ nghĩa dân chủ chủ nô thất bại, tư tưởng duy vật, nhân văn
không phát triển, quí tộc mới lên thế dân chủ không có triển vọng, nên nó chỉ tiếp
thu phần nào của phe dân chủ, không có vai trò tích cực mà chỉ có tương lai
thống trị thôi. Nó tiếp thu cái cũ bằng cách xây dựng lại quan hệ quí tộc xã hội,
đánh đổ quan hệ dân chủ. Với Democrite , xuất phát từ chủ nghĩa duy vật để bảo
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 15
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
vệ chế độ dân chủ chủ nô. Với quan điểm nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của
chủ.
Còn ở Trung quốc triết học được coi như là tư tưởng về nhà nước pháp
quyền. Bắt đầu từ thời Chiến Quốc với người khởi xướng là Quản Trọng, sau đó
Thương Uởng và Hàn Phi bổ sung và phát triển. Người đời sau gọi đó là tư tưởng
pháp trị và trường phái tư tưởng này được gọi là “Pháp gia” tức chủ trương
chung là dùng pháp luật để trị nước . Trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của
địa vị, uy tín, trình độ của những người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ
thống quan lại. Với tư cách là đại biểu điển hình, là linh hồn của pháp gia, Hàn
Phi cùng với “pháp” ,”thế” và “thuật” là công cụ trị nước của bậc đế vương đã
có ảnh hưởng sâu rộng về phương diện thực tiễn trong xã hội Trung Quốc đương
thời
Còn đối với Khổng Tử và Mạnh Tử trong nho gia với nền tảng gia đình-xã
hội và quan hệ đạo đức- chính trị, đặc biệt là quan hệ vua-tôi, phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ, xúc tiến xã hội phát
triển. Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho rằng
nếu làm trái với cấp trên đều là tội nghiêm trọng. Theo lý luận này, Vương quân
phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành với vương quân. Mỗi
người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là thần

tử nhưng đều cần phải duy trì gianh giới tông tôi nghiêm khắc, như vậy nhà
nước mới thái bình, nhân dân mới có cuộc sống yên ổn. Giai cấp thống trị phát
hiện lý luận của Khổng Tử rất thích hợp cho giữ gìn sự ổn định của xã hội phong
kiến nên xác định nó là tư tưởng học thuyết chính thống của quốc gia.
2.1.2 Giải phóng con người không triệt để:
Ở Trung Quốc, các Triết gia đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị, cho
nên nghiên cưú con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị
con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 16
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Ví như Khổng Tử với nho gia không bàn về các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ mà
cho rằng tất cả nền tảng trật tự đều nằm trong “thiên mệnh” . Cụ thể là “ thiên
mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo và tính tương cận, tập
tương viễn”, không hề đề cập đến mặt sinh thể của con người.
Ở Hy Lạp cho dù có xem xét con người về mặt sinh vật, đề cao cái tự nhiên
nhưng họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người.Ví như Democrite với
thuyết nguyên tử: “Sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác dụng của
nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ nước bùn, chúng sống dưới
nước, sau đó chúng lên sống trên cạn và tiến hóa dần dần đưa đến sự xuất hiện
con người”. Hay như Platon với “ con người là sự kết hợp của thể xác khả tử với
linh hồn bất tử trú ngụ tạm thời ở ba chỗ trong cơ thể. Còn với Aristote thì con
người được cấu thành từ thể xác và linh hồn: linh hồn thực vật, linh hồn động vật
và linh hồn lí tính thực hiện chức năng hoạt động nhận thức” .Như vậy Họ chú ý
giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế –
xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
2.2 Đôi nét khác biệt, tương phản của hai nên triết học cổ đại:
2.2.1 Yếu t{ chủ thể con người trong đ{i tượng nghiên cứu của hai nền triềt
học:

Triết học Trung Quốc dù dưới các trường phái nào đi nữa thì chung quy
lại, nổi bật nhất vẫn là coi con người là đối tượng nghiên cứu hay còn gọi là
“thiên nhân hợp nhất” . Đây là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm khác của triết
học mang tính chất hướng nội. Việc nghiên cứu thế giới cũng là chỉ để rõ con
người. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những
quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ con người với
thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn trời đất
với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả
những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy
hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì
cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo
đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 17
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy
mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở
trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay
lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn Mặc dù
khá đồ sộ và đỉnh cao nhưng khuynh hướng duy vật ở nền triết học này vẫn chưa
rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm. Còn quan điểm duy vật được thể hiện rõ
ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây
thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái
triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát
của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện
tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ngược lại, đối với Hy lạp cổ đại lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ
trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới
khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến
hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau, đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế
giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải

thích thế giới mà thôi .Như trong thuyết ý niệm của Platon với “linh hồn của con
người là linh hồn của vũ trụ”. Cho nên phần lớn triết học cổ đại Hy Lạp bàn đậm
nét về bản thể luận của vũ trụ.
2.2.2 Phương pháp nhận thức duy lý của Hy Lạp và trực giác của Trung
Qu{c:
Triết học Hy Lạp ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn Trung Quốc
thì ngả về dùng trực giác. Cái mạnh của Hy Lạp là cho khoa học, kỹ thuật và về
sau là công nghệ phát triển và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý
vô hạn cùng. Nó đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái
niệm, quy luật của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức
độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm
mất đi tính tổng thể. Triết học Trung Quốc thì ngược lại thường dùng trực giác,
tức là đi thẳng đến sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng.
Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 18
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi
khác, và không phải lúc nào trực giác cũng đúng.
Nếu ở Hy lạp có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho
khách quan còn triết học Trung Quốc lại cho rằng người nhận thức và đối tượng
nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận thức
sẽ dễ dàng. Phương tiện nhận thức của triết học gồm: khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn ở Hy lạp thì trong triết học
Trung Quốc lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn để không bị lưới giả về
nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng
khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
Triết học Trung Quốc biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi
bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.Triết
học Hy lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá càng phong
phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn toàn

cái ở giai đoạn trước. Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động
- phát triển cũng có nét khác biệt. Trung Quốc nghiêng về thống nhất hay vận
động vòng tròn, tuần hoànHy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát
triển theo hướng đi lên.
Một nét nữa là triết học Hy lạp thiên về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận,
đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri
thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể. Còn khuynh
hướng nổi trội của Trung Quốc lại là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà
hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh
triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ
. Do đó, tựu chung lại nếu như Triết học Trung Quốc lỏng lẻo, mềm dẻo
thì đối lại là triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Hy lạp. Triết học
Hy Lạp đi lên một cách trình tự từ thấp đến cao từ thế giới quan, vũ trụ quan,
bản thể luận từ đó mới xây dựng nhân sinh quan con người. Trong khi ở Trung
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 19
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Quốc lại từ nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan,
bản thể luận
2.2.3 Các triết gia: Nhà khoa học ở Hy Lạp và Nhà giáo dục ở Trung Qu{c
Nếu như ở Hy lạp, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên ví như
Heracrite, trường phái duy vật đơn nguyên, Democrite với nguyên tử luận,
Pythagore- nhà toán học, thì ở Trung Quốc, triết học gắn với những hiền triết -
nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị-xã hội. Vậy nên đặc điểm chủ đạo
là các nhà Triết học Hy lạp thiên về giải thích thế giới theo nhiều cách. Còn mục
đích chính của Trung Quốc lại là cải tạo thế giới mang tính ổn định xã hội, giải
thoát cho con người và làm sao cho con người hoà đồng với thiên nhiên. Phải
chăng điều này là do ở Hy Lạp mang chỉnh thể cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến
trúc thượng tầng còn ngược lại với triết học Trung Quốc luôn theo hướng thượng
tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở ? Một bên,

nhà triết học khẳng định "cái tôi" (bản ngã), và luôn luôn có nhu cầu tiến lên phía
trước, để truy tìm chân lý, truy tìm cái mới, bác bỏ những ý tưởng mà mình cho
là đã hết còn giá trị của người khác, để đưa ra những ý tưởng chủ quan của
mình . Điều này diễn ra rất rõ ở Platon, Aristote với diễn từ về phương pháp luận
cái tôi mới được thăng hoa về mặt triết học. Mặt khác, do gắn bó với chân lý, và
luôn luôn muốn truy tìm cái chân lý hoàn mỹ hơn, cho nên các nhà triết học Hy
Lạp không bao giờ rời bỏ mục tiêu này để mở ra con đường nào khác cho tư duy.
Các nhà triết học ở Trung Quốc, ngược lại, là vô ngã (không có cái tôi riêng), vô
ý (không có ý riêng, không bám chặt vào một ý nào cả), vô cố (không cố chấp,
giàu lòng dung thứ), vô tất (không có điều suy tính trước, tuỳ hoàn cảnh mà sửa
đổi) .Lão Tử đã từng nói : " Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra
quan niệm về cái xấu ; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan
niệm về cái ác .Trong Kinh Dịch, cũng có câu : " Một lần âm - một lần dương ",
" Vừa là âm vừa là dương", đấy là đạo ". Ở đây, một lần nữa, ta gặp lại cùng một
liên từ, vừa chỉ sự đối lập giữa cái này với cái kia, vừa chỉ sự chuyển tiếp từ cái
này sang cái kia, các đối lập về thực chất bổ sung cho nhau, cho nên tư duy của
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 20
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
các triết gia Trung Hoa chẳng cần đến cái dứt khoát của chân lý. Nó không loại
trừ, mà ngược lại, cùng chấp nhận như nhau, coi cái này và cái kia ngang bằng
nhau.
Lời kết
Với vị thế là cái nôi của nền triết học, Với Hy Lạp là những viên gạch đầu tiên
làm cơ sở nền móng cho triết học Phương Tây đúng như nhận xét của Angghen “
không có cơ ở văn minh Hy Lạp và đế quốc La mã thì cũng không có châu Âu
hiện đại được. Tương tự là vai trò to lớn của triết học cổ đại Trung Quốc tạo nên
cơ sở cho các hệ thống thế giới quan và phương pháp luận sau này. Cả hai nền triết
học cổ đại này xứng đáng là trụ cột của nền triết học của nhân loại. Cũng như sự
đấu tranh của các mặt đối lập là động lực của sự phát triển;hai nền triết học cổ đại
này có nhiều nét khác biệt cơ bản từ thế giới quan, phương pháp luận hay như bản

thể con người… Nhưng sự khác biệt này không hàm nghĩa chối bỏ hay phủ định
lẫn nhau mà chỉ là hai trường phái khác nhau nhìn hai góc độ khác nhau về thế
giới. Sẽ có sự hàm ý duy vật và duy tâm khi đề cập đến hai nền triết học. Và như
lịch sử đã cho thấy chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển
của khoa học; ngược lại ,chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ
biện hộ cho tôn giáo và cản trở khoa học phát triển. Tuy nhiên việc học triết học
cũng phải khách quan và trung thực; tránh thái độ coi thường hay phủ định sạch
trơn giá trị triết học quá khứ của Trung Quốc chỉ vì sự thần bí và không khoa học
mà đề cao thái quá triệt học Hy Lạp. Như tiến sĩ Bùi Văn Mưa đã nói “ Hiện nay
vai trò của chủ nghĩa duy vật và duy tâm là ngang nhau; kẻ tám lạng người nửa
cân. Có những hiện tượng huyền bí mà khoa học đành thúc thủ; chỉ nhờ viện đến
duy tâm-tâm linh để giải thích”
Với tính chất khoa học thấm đẫm trong triết học, không chỉ trong quá khứ mà còn
cho cả ngày nay và tiếp tục về sau. Việc đánh giá các học thuyết triết học trong
lịch sử, quay về quá khứ góp phần xây dựng phương pháp tư duy đúng đắn là một
trong những hướng mà khoa học hiện đại đang làm. Cỗ máy gia tốc hạt lớn LHC
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 21
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
mà CERN đang vận hành để tìm ra các vi hạt cơ bản, hố đen và vật chất tối là một
minh chứng. Việc này đều dựa vào khái niệm vạn vật được sinh ra từ “hạt giống”
cùng với động lực là các “Nus” hay có nghĩa là “mỗi cái chứa mọi cái” của
Anaxagore. Điều đó cho thấy giá trị tồn tại của triết học cổ đại vượt thời gian gắn
liền mật thiết với khoa học giúp con người tim ra được chân lý khách quan.
Với sự giới hạn của đề tài cũng như tính chất giáo khoa của bài luận. Những học
viên rất cần sự chỉ đạo và hướng dẫn của thầy cô, cũng như sự hợp tác chia sẻ của
bạn bè; từ đó để có thể thấu hiểu sâu hơn vào triết học và áp dụng triết học. Hãy để
cho ngôn ngữ triết học tuôn ra trong cuộc sống.
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 22
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bùi Văn Mưa, Trần Nguyên Ký, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Bá
Linh, Bùi Xuân Thanh, “Triết học”, Phần I Đại cương về lịch sử triết học,
Trường Đại Học Kinh Tế Tp. HCM, 2010
[2] François Jullien, dịch giả Nguyên Ngọc; Minh triết phương Đông và triết học
phương Tây. Nhà xuất bản Đà Nẵng,2004.
[3]
[4]

[5]
[6]

[7]

[8] />
K20 – Đêm 1 – Nguyễn Viết Mạnh Trang 23

×