Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.61 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 9:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN : ĐOÀN THỊ MINH
STT : 61
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5/2011
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 2
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ và Tên
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh


62 Trần Đăng Minh
63 Đoàn Thanh Nam
64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 3
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 4
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu
− Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại
và Trung Hoa cổ đại
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 5
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng

bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu nô lệ
nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai
trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ
quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng
chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học
tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình

độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên
sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành,
bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3. Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi
thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh
ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.

c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy
lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.

a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản
chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức

của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học  duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư
tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là

nhà nhị nguyên luận.
1.2. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu
(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về

trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
1.2.3. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :

Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết

“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA
CỔ ĐẠI
2.1 Bối cảnh xã hội ra đời và phát triển của hai nền triết học:

Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại có những nét tương đồng với nhau về lãnh
thổ, đất đai, khí hậu, là hai quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng bằng
rộng lớn, phì nhiêu thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, trồng trọt, định
canh định cư, thuận lợi cho việc giao bang phát triển kinh tế. Vào khoảng thế kỉ
thứ VII TCN, thời kì nhân loại chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt, năng suất lao
động tăng nhanh, thêm vào đó điều kiện tự nhiên thuận lợi, hai quốc gia đã đạt
được nhiều bước phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội: xã hội bước vào thời
kỳ chiếm hữu nô lệ, phân hóa thành hai giai cấp xung đột nhau. Nông nghiệp
phát triển mạnh, hình thành các nhà nước – thị thành, bắt đầu xuất hiện sự đối lập
giữa thành thị và nông thôn tạo nên hoạt động mua bán trao đổi sôi động.
Bên cạnh đó, cả Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều có một lịch sử lâu đời
và trải qua nhiều thời kỳ, đất nước bị chia cắt thành nhiều nước nhỏ. Sự tranh
giành địa vị của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp
cổ đại vào cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm. Tuy xã hội trải qua
nhiều giai đoạn đầy biến động nhưng cả Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều
đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hoá, khoa học kỹ thuật, Triết học và trở
thành một trong những cái nôi lớn của nền văn minh nhân loại.
Trong bối cảnh đó, nhiều hệ thống triết học đã ra đời và phát triển: xã hội Hy Lạp
cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều là xã hội chiếm hữu nô lệ. Nhưng ở Hy Lạp là
sự đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nô lệ. Với xã hội Trung Quốc cổ đại đó là
sự đấu tranh giữa giai cấp địa chủ mới với tầng lớp quý tộc cũ, làm tan rã dần
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng, bắt đầu hình thành quan hệ sản xuất phong
kiến.
Tư tưởng Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời tam đại
(Hạ, Thương, Chu) với các biểu tượng như thượng đế, quỷ thần…chúng hoà
quyện vào thế giới quan thần thoại – tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm chi phối
mạnh đời sống tinh thần của người Trung Quốc, tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và
thần xã tắc. Trong khi đó, tư tưởng Triết học Hy Lạp cổ đại là sự duy lý hoá các

hình tượng thần thoại thành các khái niệm, quá trình này dựa vào tri thức khoa
học mà Talet, Pitago và sau đó là các nhà khoa học tự nhiên khác xây dựng nên.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy Lạp cổ
đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Vì vậy, nó trải qua ba giai đoạn : giai
đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn; trong đó cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của
giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp
cổ đại: Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê- Hêraclit, trải qua
trường phái đa nguyên và đạt được đỉnh cao trong trường phái đa nguyên tử luận
và chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết học Pitago, trải qua
trường phái duy lí Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách
quan của Platông. Về phần mình, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại bắt đầu có
tính hệ thống được hình thành trong thời Đông Chu và nhanh chóng trở thành
nền tảng của triết học cổ-trung đại Trung Quốc, tạo nên cơ sở cho các hệ thống
thế giới quan và phương pháp luận sau này, với sáu học phái lớn là Âm dương
gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của triết học Hy Lạp rất rộng gồm toàn bộ tự
nhiên, xã hội, tư duy mà gốc là tự nhiên. Triết học Hy Lạp cổ đại tách con người
ra khỏi vũ trụ (thế giới quan) coi con người là chủ thể, còn thế giới quan là khách
thể con người cần nghiên cứu và chinh phục. Nó ngả theo hướng lấy ngoại -
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
ngoài con người để giải thích trong con người, xu hướng nổi trội là duy vật, đặt
trọng tâm nghiên cứu thế giới nhằm làm sang tỏ bản nguyên vật chất của thế giới.
Một số trường phái nếu có đề cập đến con người thì cũng chỉ thông qua đó để
giải thích thế giới. Trường phái Mile, mà nổi bật là Talet coi nước là bản nguyên
của vạn vật, vạn vật bắt đầu từ nước và luôn quay trở về với nước, trong khi đó,
Hêraclit coi bản nguyên thế giới là lửa, vận động của vật chất là vĩnh viễn, vạn
vật vừa tồn tại vừa không tồn tại, luôn nằm trong quá trình không ngừng sinh

thành, biến đổi và chuyển hóa. Còn Empedoc cho rằng đất, nước, không khí, lửa
kết hợp tạo nên vạn vật. Theo xu hướng duy tâm, Pytago cho rằng bản nguyên
của thế giới là những con số, thông qua trật tự những con số để khám phá ra trật
tự thần thánh. Điều ác nhất định sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu đúng và làm
theo trật tự thần thánh. Ngược lại, Xenophan cho rằng không phải thần thánh
sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra các vị thần thánh theo trí
tưởng tượng dựa vào hình tượng của mình…
Trong khi đó, triết học Trung Quốc cổ đại lấy xã hội, cá nhân làm gốc là
tâm điểm để nhìn xung quanh. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của nó chủ yếu là xã
hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và do vậy lấy con người làm đối tượng nghiên
cứu mang tính hướng nội, lấy trong để giải thích ngoài. Khổng Tử rất quan tâm
đến các vấn đề đạo đức, chính trị xã hội, ông coi đạo đức là nền tảng của xã hội,
là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân con người.
Bên cạnh đó, Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự
không gì cưỡng lại được, mà nền tảng của trật tự đó là “thiên mệnh” và hiểu biết
“thiên mệnh” là điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện. Xuất
phát từ quan điểm này ông tìm kiếm sự thống nhất giữ trời đất, người và vạn vật,
đặc biệt là trên bình diện đạo đức, chính trị, xã hội, chứ không để ý đến khía cạnh
sinh học tự nhiên trong con người. Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn
tại trong ý thức chủ quan và trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông
đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
2.3 . Đặc điểm của hai nền triết học :
Triết học Trung Quốc lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Nghiên
cứu thế giới cũng chỉ nhằm làm rõ vấn đề con người. Vì thế vấn để bản thể luận
trong triết học Trung Quốc bị mờ nhạt. Còn Hy Lạp cổ đại lại đặt trọng tâm
nghiên cứu vào thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được bàn tới nhằm giải thích
thế giới. Do đó, trong triết học Hy Lạp vấn đề bản thể luận rất đậm nét. Triết học
Trung Quốc cổ đại đặt trọng tâm vào việc giải thích mối quan hệ giữa người với

người và đời sống tâm linh của con người, ít quan tâm tới mặt sinh vật, triết học
gắn với những nhà hiền triết – nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị xã
hội. Trong khi đó, triết học Hy Lạp cổ đại lại ít quan tâm tới mặt xã hội của con
người, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn liền với
thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Song nhìn chung, cả hai nền
triết học đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của thượng đế.
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận
của giai cấp chủ nô thống trị. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân
hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Giai cấp
thống trị đã dùng triết học như một công cụ hữu hiệu trong việc củng cố và
khẳng định vị trí đối với các tầng lớp khác trong xã hội. Đối với triết học Trung
Quốc cổ đại, hầu hết các học thuyết có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề
thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con
người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước.
Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị -
tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của
Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông . Về phía mình, trong các trào lưu, học
thuyết của triết học phương Đông, thường có sự đan xen các yếu tố duy vật và
duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa các chủ nghĩa duy vật và
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt, không thành trận tuyến rạch ròi như
trong triết học phương Tây.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như
một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Vì
vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực
tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Triết học Trung
Hoa cổ đại có tính hệ thống được hình thành vào thời Đông Chu, phần lớn các

nhà triết học đồng thời cũng là nhà chính trị và đạo đức.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học Trung
Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Triết học Hy Lạp các
trường phái mới và cũ xuất hiện đồng thời, không kế thừa lẫn nhau, chỉ xung đột
lẫn nhau.
2.4. Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới
Vấn đề về thực tại và bản chất của sự tồn tại trong Triết học Hy Lạp cổ đại cũng
có điểm tương đồng với triết học Trung Quốc cổ đại thể hiện ở quan điểm của
Mạnh Tử và của Sôcrát, mọi thứ đều do thượng đế - trời sinh ra và an bài sẵn.
Ngoài ra, nó còn thể hiện ở tư tưởng của Đạo gia và Âm Dương gia cho rằng bản
thân vũ trụ cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ sự tác động lẫn nhau
của hai cái lực lượng đối lập nhau là khí âm và khí dương. Đạo là bản nguyên
của vạn vật, tất cả là từ đạo sinh ra và trở về với cội nguồn của đạo. "Đạo" là cái
vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau. Trái
lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói:
Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại. Điều này tương đồng với quan điểm
của trường phái Milê (Talet, Anaximen, Amaxomandrơ), Heraclít, Pitago,
Đêmocrít…Tuy nhiên, do còn mang tính trực quan, ước đoán, chưa có chứng
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
minh nên các luận điểm của triết học cổ đại trung quốc chưa khuất phục được
quan điểm duy tâm, chưa giải phóng con người khỏi quan điểm duy tâm thần bí.
Ngược lại, triết học Hy Lạp cổ đại từ những quan sát ban đầu đã xây dựng thành
một hệ thống triết học duy vật chặt chẽ, có sức thuyết phục, làm cho nó đủ sức
đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, mà trước
hết là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platông. Ngoài ra, các tư tưởng của các nhà
triết học Hy Lạp còn là nguồn cảm hứng cho các nhà khoa học nghiên cứu sau
này như tương tưởng nguyên tử luận của Đêmôcrít, hạt giống của Anaxago…

2.5. Quan điểm về tư tưởng nhận thức
Triết học Hy Lạp cổ đại ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ, nhận thức luôn
hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng. Triết học Hy Lạp cổ đại đi mãi
đến chân lý qua hàng loạt những khái niệm trừu tượng, quy luật… của toàn thể
vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn. Triết
học Hy Lạp cổ đại quan tâm tới việc tìm hiểu, làm rõ quá trình nhận thức (từ
nhận thức cảm tính đi tới nhận thức lý tính), nguồn gốc của nhận thức ( từ hiện
thực khách quan – duy vật hay từ linh hồn bất tử, thế giới ý niệm – duy tâm) để
từ đó xây dựng phương pháp nhận thức, mở rộng hiểu biết của con người về các
lĩnh vực khoa học, logic học, văn hoá, nghệ thuật…
Theo Heraclit, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác quan để con
nguời nhận thức các sự vật cụ thể. Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với
logos nhưng không chắc chắn. Nhận thức lý tính là con đường đạt tới chân lý nên
ông đề cao.
Đêmocrit kế thừa và phát triển những quan điểm của Heracrit, ông cho rằng là
muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm
giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý
tính.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Theo đó, lý luận về nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư
tưởng về nhận thức luận thời cổ đại Hy Lạp. Ông khẳng định rằng thế giới khách
quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm; tự nhiên là tính
thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Ông là người có quan niệm rành mạch về quá
trình nhận thức đi từ cảm tính đến lý tính. Tuy hết sức coi trọng nhận thức cảm
tính, nhưng theo ông nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất
của sự vật. Nếu chỉ bằng cảm giác, con người ta không thể nắm được định lý về
tổng các góc của một tam giác bằng hai góc vuông và không giải thích được các
hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Vì vậy, để đạt đến chân lý, nhận thức phải đi

từ cảm tính đến lý tính. Arixtốt rất quan tâm đến phương pháp tư duy: theo ông,
cái được coi là chân lý phải là cái phù hợp giữa tư tưởng và thực tế. Từ đó, ông
đã nêu lên những nguyên tắc rất cơ bản để xây dựng khái niệm, phạm trù. Ông
cũng đã nêu lên những quy luật cơ bản của tư duy logíc (quy luật đồng nhất, quy
luật cấm mâu thuẫn trong tư duy, quy luật loại trừ cái thứ ba). Ông đã nêu lên
phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận). Trong đó, kết luận được rút ra từ
hai tiền đề đã có (Nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C ). Ví dụ: Đồng là kim
loại, mọi kim loại đều dẫn điện, vậy đồng dẫn điện.
Triết học Trung Quốc cổ đại thì ngược lại nổi bật với tư duy nhận thức trực giác,
tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Triết học Trung Hoa cổ đại chú
trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là
hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính
là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về
khoa học thực chứng của Trung Hoa.
Nổi bật quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển,
không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do
đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết)
và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên
thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm
giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
học thì rơi xuống hạ ngu Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt
tới xã hội lý tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của
xã hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người.
Bên cạnh đó là “thuyết tam biểu” của Mặc Tử cho rằng: cái gì lỗ tai, con mắt
không cảm thấy là không có. Muốn xác định một cái gì đó đúng hay sai, cần phải
xem xét nó có cái gốc ( căn cứ lịch sử) như thế nào, và có cái dụng (có lợi cho
nhà nước trăm họ) hay không . Do coi thường nội dung khách quan của kinh

nghiệm con người mà thuyết tam biểu dựa trên quan điểm duy giác, từ bỏ quan
điểm duy vật đến vật đến với quan điểm duy tâm và cuối cùng rơi vào chủ nghĩa
kinh nghiệm cực đoan.
Phương tiện nhận thức của triết học Hy Lạp cổ đại là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học Trung
Quốc cổ đại lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn để không bị lưới giả về
nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học Trung Quốc cổ đại
chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
2.6 Thuật ngữ sử dụng:
Hệ thống thuật ngữ của triết học Trung Quốc cổ đại khác với triết học Hy Lạp cổ
đại. Triết học Hy Lạp cổ đại sử dụng các thuật ngữ "giới tự nhiên", "bản thể",
"vật chất", "ý thức" thì triết học Trung Quốc lại sử dụng những thuật ngữ như
"thái cực", "đạo", "sắc", "hình", "vạn pháp" để phản ánh tính chất của thế giới.
Triết học Phương Tây sử dụng các thuật ngữ "biện chứng", "siêu hình", "thuộc
tính" còn triết học Hy Lạp lại sử dụng các thuật ngữ "động", "tĩnh", "biến
dịch", "vô thường", "vô ngã". Khi triết học Hy Lạp sử dụng thuật ngữ "quy luật"
thì triết học Trung Quốc lại dùng các thuật ngữ "đạo", "lý".
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Trải qua chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của nền văn minh nhân loại, triết học đã
biến đổi không ngừng và ngày càng hoàn thiện theo thời gian. Buổi bình minh
của nhân loại nhận thức về khoa học còn nhiều hạn chế nhưng các nhà triết học
cổ đại của cả Trung Quốc và Hy Lạp đã cho chúng ta những học thuyết , những
quan điểm vô cùng quý báu và giúp chúng ta giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản
của triết học: thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa tư duy với tồn tại, giữa ý thức với vật
chất, giữa tinh thần với tự nhiên thì cái nào có trước cái nào có sau? và cái nào
có vai trò quy định đối với cái nào? Thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả
năng nhận thức được thế giới hay không?
Việc so sánh triết học sự giống nhau và khác nhau của triết học Trung Quốc và

Hy Lạp cổ đại còn giúp cho chúng ta hiểu sâu hơn về hai quốc gia đã đặt nền
móng cho triết học thế giới như là: Học thuyết của triết học Trung Quốc cổ đại,
thường đan xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt,
không thành trận tuyến rạch ròi như triết học Hy Lạp cổ đại. Nhưng Nho giáo về
cơ bản là duy tâm nhưng vẫn có những luận điểm duy vật. Phật giáo tuy là một
tôn giáo nhưng lại chứa đựng nhiều yếu tố duy vật và biện chứng Đặc điểm
này phản ánh tính thiếu triệt để, thiếu nhất quán của triết học Trung Quốc về mặt
thế giới quan…
Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu
vững chắc, nối những bến bờ triết học sau này. Những gì mà triết học Hy Lạp cổ
đại và Trung Quốc cổ đại đã mang đến cho nhân loại sẽ mãi mãi vẫn còn nguyên
giá trị.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 24
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Sách Triết Học, phần 1 – Đại Cương về Lịch Sử Triết Học, Nhóm tác giả :
TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên)-TS. Trần Nguyên Ký-PGS TS. Lê Thanh Sinh-
TS. Nguyễn Ngọc Thu-TS. Bùi Bá Linh – TS. Bùi Xuân Thanh, Trường ĐH
Kinh Tế TPHCM, năm 2010
2) Sách Lịch Sử Triết Học, Trần Đặng Sinh, Nhà xuất bản Trường ĐH Sư Phạm
TPHCM
3) Giáo Trình Triết Học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết Học, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản lý
luận chính trị.
4) Lịch sử triết học, Đồng Văn Quân, Đại học Thái Nguyên- Trường ĐH Sư
Phạm, năm 2010
5) Một số tài liệu sưu tầm khác từ internet
+ Website bách khoa toàn thư:
+

+ /> + /> +
+ />K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 25

×