Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.71 KB, 26 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
GV : T.S BÙI VĂN MƯA
LỚP : ĐÊM 1 - K20
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH
HCM, Tháng 4/2011
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 2
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ tên
1 Nguyễn Thị Bích Liên
2 Phan Hoài Linh
3 Trần Ngọc Linh
4 Đào Thị Bích Loan
5 Đào Mạnh Long
6 Trương Bảo Long
7 Đỗ Hữu Lộc
8 Nguyễn Văn Luận
9 Nguyễn Thanh Luận
10 Nguyễn Viết Mạnh
11 Trương Công Minh
12 Trương Quang Minh
13 Đoàn Thị Minh
14 Trần Đăng Minh
15 Đoàn Thanh Nam
16 Nguyễn Vũ Thành


17 Nguyễn Thành Nam
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 3
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 3
1.1 TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 6
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.1.2Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 7
1.2 TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 12
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại 12
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại 14
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu 14
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………
25
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa dạng
nhiều trường phái, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo từng khu vực địa lý. Đặc
biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là hai nền Triết học: Hy Lạp cổ
đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học đặt nền móng cho nền văn minh
Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 4
của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học Phương Tây sau
này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “ Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh

nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm vi
ảnh hưởng của Triết học cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “ Nếu không
có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và một số nước
Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn đến
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành Thế
Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học
giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự phát triển văn
minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền Triết học này tuy
hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau hình thành những học thuyết
Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những điểm tương đồng không thể
phủ nhận được.
Vì những lí do trên mà nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa
Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm hiểu và có cái nhìn
sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu là lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp và
Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc
cổ đại
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 5
- Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
- Các đặc điểm cơ bản
- Các trường phái Triết học tiêu biểu
Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung
Hoa cổ đại

- Các đặc điểm tương đồng
- Các điểm khác biệt
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 6
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng bằng
rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông nhiều vịnh,
hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy lạp cổ đại sớm trở
thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng.
Ngoài ra, Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả,
con người có tư duy bay bổng, thuận lợi mở rộng các mối bang giao và phát triển
kinh tế. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời
đại đồ sắt, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân
được cũng cố. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng
rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra làm
hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ
thế kỷ XI đến IX trước CN, xã hội biến động lớn chia thành 2 loại người: được chia
nhiều đất (Policler) và loại ít, không có đất canh tác (Acler). Lao động bị phân hóa, đề
cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay, điều này thúc đẩy sự hình thành
của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời
nghiên cứu triết học và khoa học và phát triển mạnh mẽ.
Vào thế kỷ V trước CN, đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ (300 quốc
gia) – thành bang. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành bang cổ hùng mạnh nhất, do
sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học

GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 7
tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm, sau đó là các cuộc khởi nghĩa của giai cấp nô
lệ và cuối cùng bị La Mã chinh phục.
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên CSKT của XH chiếm hữu nô lệ nên nó
thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự XH, củng cố vai trò thống trị và
khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa
các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần, gắn liền với cuộc đấu
tranh chính trị - tư tưởng.
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ quan
điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa
trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa
học tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình độ tư
duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích
tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên sơ lược để
dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình
thành, bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh
hoa cao quý nhất của tạo hóa.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 8

1.1.3 Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 Chủ Nghĩa Duy Vật
a) Trường phái Milê
Xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học duy vật là Talét,
Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm làm sáng rõ bản
nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự nhiên không phải
bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là yếu tố đầu tiên, là
bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là nguồn gốc của vạn vật. Còn
theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật
giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới quan thần
thoại hiện giờ
b) Trường phái Hêraclít
Nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây dựng vào thế kỷ 6, TCN.
Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất
đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa mà vạn vật có thể chuyển hóa –
thay đổi trạng thái. Vạn vật chứa trong mình các mặt đối lập luôn thống nhất và đấu
tranh với nhau, vừa tồn tại vừa không tồn tại, luôn phát triển, biến đổi và chuyển hóa.
Hêraclít cho rằng, nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt, tức cái quy luật, trật tự
của vũ trụ. => duy vật trong tự nhiên. Hêraclít đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận điểm cốt lõi của phép
biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ. Phép biện
chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của
nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên
Do Empêđốc và Anaxago xây dựng , Empêđốc thừa nhận sự tồn tại của 4 khởi
nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa; chúng chịu sự tác động của 2
loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận động trải qua 4 giai đoạn.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 9
Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt giống – cái bảo tồn và phát

triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực nhỏ và có thể phân chia đến vô tận.
Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng
nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế
giới vật chất. Nus –linh hồn của thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay
thế nhau. Nus đưa thế giới thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của
mình, và qua đó nhận thức bản thân thế giới. => quay về duy tâm.
Trường phái đa nguyên là sự tìm tòi mới của chủ nghĩa duy vật nhằm khắc
phục hạn chế của quan điểm đơn nguyên để lý giải sự thống nhất và đa dạng của thế
giới.
d) Trường phái nguyên tử luận
Do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa trên thuyết nguyên tử (2 thực thể
nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật chất): là một hệ thống quan điểm duy vật
đầy đủ, nhất quán. Ông có quan điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi
trọng lý tính sáng suốt, coi nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận
thức logic như qui nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông: Hiểu biết
là cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc với
tâm hồn thanh thản.
Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ nô, lấy chế độ cộng hòa
làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đước và pháp lý làm cơ chế hoạt động. Phát
triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi
ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân theo lệnh ông chủ. Quản lý nhà nước là
một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ cho con người. Nhu
cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 10
1.1.3.2 Chủ Nghĩa Duy Tâm
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý
Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý niệm
của Platon.

a) Trường phái Pytagore
Pytagore là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật, một vật tương ứng với một con số nhất định, con
số có trước vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn -> đặt nền móng ban
đầu cho duy tâm cổ đạ. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập của mọi sự vật hiện tượng,
ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và đa, phải và trái,
nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa
diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và đạo
đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê
Trường phái Êlê do Xênôphan thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó
Pácmênít phát triển theo chủ nghĩa duy tâm dựa trên nền tảng là khái niệm tồn tại và
được Dênông nhiệt thành bảo vệ và phát huy.
Xênôphan (Xénophane): Xênôphancho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối
cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài.Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn
vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và
nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong
phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang dạng
khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không hề thay đổi,
đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính. Nhận thức lý tính
đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 11
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là tình
trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh rằng “tồn
tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế
giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan

Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên
cứu về con người, đạo đức: “Con người hãy nhận thức về chính mình”. Platông
(Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra hai quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biết (không chân thực, không đúng đắn, bóng của ý
niệm) và thế giới các ý niệm (phi cảm tính, phi vật thể, la đúng đắn, chân thực). Nhận
thức của con người không phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới khách
quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra
thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và
"không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí
tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ
hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái
có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình
nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế
giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong
quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng
đắn(tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm tính, lẫn lộn,
không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó
sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật
chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 Chủ Nghĩa Nhị Nguyên
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Socrat,
Platôn là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platôn. Cống hiến nổi bật của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 12
Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn – thiên
về thế giới bên kia không có lợi cho người. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách
quan (tác phẩm ‘Các phạm trù’, cách hỏi vì sao, cái gì), đã đặt nền móng cho khoa
học lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học  duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình

thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có linh hồn
bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất -> duy tâm
trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư tưởng của
giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho tầng lớp này,
bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là nhà nhị nguyên
luận
1.2TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ Trung
Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông Trường Giang
ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ, và trải qua 2 vương
triều nhà Thương và nhà Chu.
Vương triều Hạ (~thế kỷ XXI - thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại
tới thời vua Kiệt thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng
đỏ, chữ viết chưa có. Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ
nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế
quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức
luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc,
những tư tưởng vô thần tiến bộ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 13
Vương triều Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành
Thang thành lập, tồn tại tới thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc
sống định canh, định cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường
lối tỉnh điền; ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; ý
tưởng về lực lượng siêu nhiên hình thành qua biểu tượng Đế (Thượng đế hay Trời);
chữ viết đã xuất hiện.

Vương triều Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông Chu
đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định. Nhưng
sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã làm nảy sinh
một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ mới đang lấn át và xung
đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi vào tình trạng rối ren; các giá
trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực
chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này
bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu (722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN).
Thời Xuân thu, đất nước loạn lạc với hơn 400 cuộc chiến lớn nhỏ làm cho 160 nước
ban đầu sau hơn hai thế kỷ đánh nhau chỉ còn lại có 5 nước lớn là Tề, Tấn, Tần, Tống,
Sở (cục diện Ngũ bá). Sau đó, xuất hiện hai nước nữa là Ngô và Việt (cục diện Thất
hùng). Vào thời Chiến quốc, những cải cách hiệu quả đã làm cho nhà Tần ngày càng
mạnh. Với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên
của xã hội Trung Quốc
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những
trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu
hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử"
(trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá
trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết
học khá hoàn chỉnh.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 14
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề do
thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời kỳ đảo lộn của
xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý giải và tìm ra những
triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử

chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con người một
quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong điều
kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –nghĩa –trí –học, tu thân
–tề gia – trị quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề
con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên - Nhân –
Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 Thuyết Âm - Dương
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ, cũng
như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2 thái cực
( lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm - Dương không tồn
tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Lý luận Âm Dương phản ánh quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên, thể hiện tư
tưởng biện chứng sơ khai của người Trung Hoa về cội nguồn và quá trình biến hóa
xảy ra trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và con người.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 15
1.2.3.2 Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật
và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những tương
tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa -
Thổ. Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh
hưởng sinh - khắc với nhau.

Đến thời Tây Hán, quan niệm về Âm dương – Ngũ hành đã được Đổng Trọng
Thư phát triển theo tinh thần Nho giáo và lợi ích chính trị của giai cấp phong kiến mới
giành lấy vai trò thống trị xã hội Trung Quốc. Nhờ vậy mà cả Nho giáo lẫn các quan
niệm về Âm Dương - Ngũ hành đã có điều kiện chính trị thuận lợi để ảnh hưởng lâu
dài trong nền triết học Trung Quốc.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã đứng trên
quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát triển của thế
giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và mục đích luận trong
quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng còn góp phần tạo nên cơ
sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch pháp, y học trong lịch sử
Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.3 Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng
lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có
nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa,
18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng,
không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có
thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra
được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn,
38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Khổng Tử cũng coi thường tri thức về sản
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 16
xuất, lao động chân tay, lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học
của mình.
Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát
triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia
Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số
nước lân cận.
1.2.3.4 Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)

Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của
ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai
hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ
yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.5 Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập thời
Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên
mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh
của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu
có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên mệnh có tính
chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận
thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là
bằng chứng xác thực của nhận thức.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 17
1.2.3.6 Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những
luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói đại diện cho tầng
lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng
truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN).
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật,
trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực
hiện chính sách đó.

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 18
CHƯƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA 2 NỀN TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA CỔ ĐẠI
I, Điểm tương đồng giữa hai nền triết học
1 – Điều kiện ra đời và phát triển
Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền Triết học này tuy hình thành ở
những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau hình thành những học thuyết Triết học khác
nhau nhưng đồng thời cũng có những điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Dựa trên điều kiện tự nhiên thuận lợi đó, hai quốc gia đã đạt được nhiều bước
phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội : xã hội bước vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, xã
hội xuất hiện đối kháng giai cấp, nông nghiệp phát triển mạnh, hình thành các nhà
nước – thị thành, bắt đầu xuất hiện sự đối lập giữa thành thị và nông thôn tạo nên
hoạt động mua bán trao đổi sôi động.
Cả Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều có một lịch sử lâu đời và trải qua
nhiều thời kỳ.
Tuy xã hội trải qua nhiều giai đoạn đầy biến động nhưng cả Trung Quốc cổ đại và
Hy Lạp cổ đại đều đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hoá, khoa học kỹ thuật,
Triết học và trở thành một trong những cái nôi lớn của văn minh nhân loại.
2 – Đặc điểm của hai nền triết học :
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận
của giai cấp chủ nô thống trị Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã
hội, củng cố vai trò thống trị của mình. Giai cấp thống trị đã dùng triết học như một
công cụ hữu hiệu trong việc củng cố và khẳng định vị trí đối với các tầng lớp khác
trong xã hội. Đối với triết học Trung Quốc cổ đại, hầu hết các học thuyết có xu
hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 19
dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con

đường trị nước .
Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và
trào lưu duy tâm của Platông . Về phía mình, trong các trào lưu, học thuyết của triết
học phương Đông, thường có sự đan xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng
và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa các chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không
gay gắt, quyết liệt, không thành trận tuyến rạch ròi như trong triết học phương Tây.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng
tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Triết học Trung Hoa cổ đại có tính hệ
thống được hình thành vào thời Đông Chu, phần lớn các nhà triết học đồng thời cũng
là nhà chính trị và đạo đức
3 – Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng có điểm tưởng đồng với triết học Trung Quốc cổ đại
về vấn đề bản nguyên của thế giới thể hiện ở quan điểm của Mạnh Tử và của Sôcrát,
mọi thứ đều do thượng đế( trời) sinh ra và an bài sẵn. Ngoài ra, nó còn thể hiện ở tư
tưởng của Đạo gia và Âm Dương gia cho rằng bản nguyên của thế giới được hình
thành từ vật chất : “Đạo” và “khí âm và khí dương”; điều này tương đồng với quan
điểm của trường phái Milê( Talet, Anaximen, Amaxomandrơ), Heraclít, Pitago,
Đêmocrít…
4 – Quan điểm về tư tưởng biện chứng
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, cả hai nền triết học đã có sự
xuất hiện của phép biện chứng duy vật chất phác.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 20
Tư tưởng biện chứng của cả hai nền triết học đều là tư tương biện chứng khách
quan tự phát, đều chưa được xây dựng thành một hệ thống, phản ánh tính chất biện

chứng của tự nhiên xã hội. Có sự tương đồng rõ nét trong tư tưởng biện chứng của
Lão Tử và của Heraclít, cả hai ông đều thể hiện quan điểm của mình về tính thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
5 – Quan điểm về tư tưởng nhận thức
Thứ nhất, cho rằng khả năng nhận thức là sẵn có ở con người (nhận thức thế giới
khách quan, nhận thức cảm tính), tuy nhiên không phải ai cũng có thể nhận thức được
bản chất của vạn vật (nhận thức lý tính, tư duy trừu tượng)
Thứ hai, đề cao vai trò của nhận thức lý tính, tư duy trừu tượng
Thứ ba, thấy được mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Thứ tư, cho rằng nhận thức không phụ thuộc vào bên ngoài (cảm tính) mà xuất
phát từ bên trong con người, thể hiện quan điểm duy tâm về nhận thức.
6 – Quan điểm về con người và xây dựng con người
Cả hai nền triết học đều đề cao con người.
7 – Quan điểm về đạo đức
Đề cao giá trị đạo đức đối với con người, con người muốn hoàn thiện phải có đạo
đức.
Sống có đạo đức là làm điều thiện, sống đúng mực ôn hoà, không gây hại cho
mình và cho người.
8 – Quan điểm về chính trị xã hội và xây dựng nhà nước :
Cả hai nền triết học đề cao giá trị đạo đức đối với con người, con người muốn
hoàn thiện phải có đạo đức. Sống có đạo đức là làm điều thiện, sống đúng mực ôn
hoà, không gây hại cho mình và cho người.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 21
II, Điểm khác biệt giữa hai nền triết học
1 – Điều kiện ra đời và phát triển
Thứ nhất, xã hội Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều là xã hội chiếm hữu nô
lệ. Nhưng ở Hy Lạp là sự đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nô lệ. Với xã hội Trung
Quốc cổ đại đó là sự đấu tranh giữa giai cấp địa chủ mới với tầng lớp quý tộc cũ, làm
tan rã dần chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng, bắt đầu hình thành quan hệ sản xuất

phong kiến
Thứ hai, tư tưởng Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời tam đại
(Hạ, Thương, Chu) với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ thần…chúng hoà
quyện vào thế giới quan thần thoại – tôn giáo chi phối mạnh đời sống tinh thần của
người Trung Quốc. Còn tư tưởng Triết học Hy Lạp cổ đại là sự duy lý hoá các hình
tượng thần thoại thành các khái niệm, quá trình này dựa vào tri thức khoa học mà
Talet, Pitago và sau đó là các nhà khoa học tự nhiên khác xây dựng nên.
Thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy
Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Vì vậy, nó trải qua ba giai đoạn :
giai đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn; trong đó cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai
đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
Về phần mình, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại bắt đầu có tính hệ thống được
hình thành trong thời Đông Chu và nhanh chóng trở thành nên tảng của triết học cổ-
trung đại Trung Quốc, tạo nên cơ sở cho các hệ thống thế giới quan và phương pháp
luận sau này.
2 – Đặc điểm của hai nền triết học :
- Nội dung nghiên cứu chủ yếu của triết học Hy Lạp cổ đại là về giới tự nhiên
và thế giới, nhưng triết học Hy Lạp cũng nghiên cứu về con người. Về phía mình,
triết học Trung Quốc cổ đại bên cạnh mối quan tâm về con người và xã hội, cũng có
đề cập tới vũ trụ và giới tự nhiên.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 22
3 – Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới
Triết học Trung Quốc do còn mang tính trực quan, ước đoán, chưa có chứng minh
nên các luận điểm của triết học cổ đại trung quốc chưa khuất phục được quan điểm
duy tâm, chưa giải phóng con người khỏi quan điểm duy tâm thần bí. Ngược lại, triết
học Hy Lạp cổ đại từ những quan sát ban đầu đã xây dựng thành một hệ thống triết
học duy vật chặt chẽ, có sức thuyết phục, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các
trào lưu duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, mà trước hết là trào lưu duy tâm nổi

tiếng của Platông. Ngoài ra, các tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp còn là nguồn
cảm hứng cho các nhà khoa học nghiên cứu sau này như tương tưởng nguyên tử luận
của Đêmôcrít, hạt giống của Anaxago.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học Trung
Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư tưởng
của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh hưởng ít nhiều
bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Triết học Hy Lạp các trường phái mới và cũ
xuất hiện đồng thời, không kế thừa lẫn nhau, chỉ xung đột lẫn nhau.
4 – Quan điểm về tư tưởng biện chứng
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là học
thuyết Âm – Dương. Đây là một học thuyết được phát triển trên cơ sở một bộ sách có
tên Kinh Dịch. Một trong nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận mọi tồn tại
không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối mà bao hàm sự thống nhất của cá mặt đối
lập – đó là âm và dương, âm-dương không loại trừ nhau, không tách rời nhau mà bao
hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Sự tương tác lẫn nhau giữa
âm-dương, các mặt đối lập làm cho thế giới biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, học
thuyết này cho thấy sự vận động của vạn vật diễn ra theo chu kỳ lặp lại và được đảm
bảo nguyên tắc cân bằng âm-dương. Mặc dù có những tính chất trực quan, chất phác
ngây thơ và tồn tại những quan điểm thần bí về xã hội nhưng nó đã bộc lộ khuynh
hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm trong cơ cấu
và sự vận động, biến hóa của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Ngược lại,
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 23
tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp có sự phát triển cao hơn : thể hiện tư
tưởng biện chứng trong lĩnh vực tư duy ( tư tưởng của Pácmênít và Platông), vạn vật
vận động theo quy luật nhân quả và có sự phát triển, tiến hoá (tư tưởng của
Đềmôcrít).
5 – Quan điểm về tư tưởng nhận thức
Triết học Trung Quốc cổ đại nổi bật với tư duy nhận thức trực giác, tức là có
trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Còn triết học Hy Lạp cổ đại nổi bật với nhận thức

theo chủ nghĩa duy giác.
Trong khi triết học Hy Lạp cổ đại quan tâm tới việc tìm hiểu, làm rõ quá trình
nhận thức (từ nhận thức cảm tính đi tới nhận thức lý tính), nguồn gốc của nhận thức
( từ hiện thực khách quan – duy vật hay từ linh hồn bất tử, thế giới ý niệm – duy tâm)
để từ đó xây dựng phương pháp nhận thức, mở rộng hiểu biết của con người về các
lĩnh vực khoa học, logic học, văn hoá, nghệ thuật…thì triết học Trung Quốc cổ đại lại
thể hiện mối quan tâm về nhận thức trong lĩnh vực con người, giáo dục, đạo đức,
chính trị xã hội
6 – Quan điểm về con người và xây dựng con người
Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành, bản chất
con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về
con người họ cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo
đức – chính trị - xã hội của họ tri thức khoa học và tín ngưỡng, giữa chủ nghĩa
duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể
xác Trái lại triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con người một
quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong điều
kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –nghĩa –trí –học, tu thân
–tề gia – trị quốc. Triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh
vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên -
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 24
Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học
này.
7 – Quan điểm về đạo đức
Triết học Trung Quốc cổ đại đề ra các tiêu chuẩn của đạo đức, còn triết học Hy
Lạp cổ đại chưa đề ra các tiêu chuẩn đạo đức
Trong triết học Hy Lap cổ đại có quan niệm con người sống hạnh phúc là sống có
đạo đức. Mà con người chỉ sống hạnh phúc trong thế giới ý niệm, tức là không có

hạnh phúc dưới trần gian. Triết học Trung Quốc không có quan điểm này.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, Socrat có quan niệm đồng nhất sự hiểu biết với
đạo đức. Còn triết học Trung Quốc cổ đại lại cho rằng muốn có đạo đức ngoài việc
tuân thủ nhân, lễ, nghĩa thì còn phải có trí (tức là có sự hiểu biết).
Trong khi Lão Tử chủ trương vô vi để có đạo đức, tuân theo quy luật tự nhiên thì
Epiquya lại phát triển đạo đức theo hướng cá nhân.
8 – Quan điểm về chính trị xã hội và xây dựng nhà nước :
Theo nhà triết học Dêmôcrít, chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước
chủ nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp lý
làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng theo tình
thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân theo lệnh ông
chủ. Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và
dân chủ cho con người. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật,
trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực
hiện chính sách đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học
GV: TS. Bùi Văn Mưa Trang 25
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này
ta thấy được sự ảnh hưởng hết sức to lớn đến đến nhân loại, và là cội nguồn của nền
Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành Thế Giới quan và phương pháp luận khoa
học, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo
Thế Giới, là tiền đề cho sự phát triển văn minh nhân loại. Trung Quốc và Hy Lạp là
hai quốc gia rộng lớn, là hai nền văn minh với nhiều giá trị lịch sử, văn hóa phong phú
và rực rỡ, tại đây hình thành nên nhiều trường phái triết học, chúng là những viên
gạch đầu tiên xây dựng nên nền tảng triết học thế giới. Các trường phái này tuy khác
biệt nhau nhưng bổ sung cho nhau, một bên hướng nội, một bên hướng ngoại góp
phần mô tả bức tranh hiện thực của thế giới hoàn thiện hơn.
Thông qua việc tìm hiểu các đặc điểm của hai nền Triết học lớn trên thế giới

chúng em cũng đã cố gắng đưa ra những đặc điểm tương đồng để rồi từ đó thấy được
những sự khác biệt giữa hai nền triết học Trung Quốc và Hy Lạp.
Do trình độ và hiểu biết về lịch sử triết học của học viên còn hạn chế nên rất cần
sự đóng góp ý kiến, chỉ bảo của giảng viên, các bạn học viên để kiến thức của học
viên về triết học thêm vững chắc và hoàn thiện hơn.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 - SVTH: TRẦN ĐĂNG MINH Tiểu luận: Triết học

×