Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.21 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 9:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN : ĐOÀN THANH NAM
STT : 63
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5/2011
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ và Tên
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh
62 Trần Đăng Minh
63 Đoàn Thanh Nam


64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 2
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI 15
2.2 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 16
2.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 17
2.4 PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC 21
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 3
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và

một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu
− Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại
và Trung Hoa cổ đại
+ Các đặc điểm tương đồng
+ Các điểm khác biệt
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 4
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ

TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu nô lệ
nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai
trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 5
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ
quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng

chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học
tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên
sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành,
bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3. Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi
thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng

đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh
ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.

1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy
lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.
a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản
chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :

Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức
của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học  duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có

linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư
tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là
nhà nhị nguyên luận.
1.2. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh

giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu
(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết

học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
1.2.3. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết

của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết
“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA
CỔ ĐẠI
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Trung Quốc là đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á, có 2 con sông lớn chảy
qua: Sông Hoàng Hà ở phía Bắc (xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô cằn, sản vật
nghèo) và sông Trường Giang ở phía Nam (khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi,
phong cảnh đẹp, sản vật phong phú), nhờ sự ưu đãi về thiên nhiên nên phát triển
mạnh về trồng trọt, từ đó nền kinh tế dần phát triển mạnh mẽ đẫn đến sự phân
hóa giai cấp trong xã hội. Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều Hạ
(thế kỷ XXI – thế kỷ XVI TCN), bắt đầu thời kỳ tranh giành quyền lực và địa vị
xã hội vào thời Đông Chu, từ đó trải qua rất nhiều cuộc chiến khốc liệt cho đến
khi Tần Thủy Hoàng thống nhất giang sơn và mở ra thời kỳ phong kiến đầu tiến
của xã hội Trung Quốc (221-206TCN). Trong thời kỳ đó, Trung Quốc đã phát
minh ra chữ viết, đây là thành tựu to lớn đến nền văn hóa. Từ khi chữ viết ra đời
làm tiền đề thúc đẩy nền giáo dục phát triển mạnh mẽ, bốn phát minh kỹ thuật
của người Trung Quốc là giấy, kỹ thuật in, la bàn và thuốc súng đã có tác dụng
rất to lớn đến đời sống của đất nước và các nước trong khu vực.
Hy Lạp chia thành 3 khu vực: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Bắc bộ có nhiều dãy
núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú với những thành phố quan trọng như
Athènes. Nam bộ là bán đảo Péloponnèse với nhiều đồng bằng rộng lớn phì
nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Thời cổ đại của Hy Lạp bắt đầu từ Thời kỳ
Crète – Mycens (đầu thiên niên kỷ III – thế kỷ XII TCN). Hy Lạp xảy ra rất
nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lực và lãnh thổ, Hy Lạp đã trải qua nhiều giai
đoạn và kết thúc bằng việc bị nhập vào La Mã năm 146 trở thành 1 đế quốc hùng
mạnh chinh phục dần các quốc gia phương Đông khác. Mặt khác, Hy Lạp đã để
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lại một kho tàng thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm,
những vở kịch hấp dẫn, những công trình kiến trúc, điêu khắc hội họa có giá

trị…
2.2 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Triết học Trung Quốc cổ đại có những bước nhảy vọt về tư tưởng nhận thức, tuy
có những sự đối lập nhưng thực chất các tư tưởng có sự bổ sung, đan xen lẫn
nhau. Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ như: Âm Dương
Gia với lý luận âm dương là hai yếu tố, hai khuynh hướng đối lập không tách rời
nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau. Lý luận Ngũ hành thì khái quát cho rằng bản
thân vũ trụ cụng như vạn vật được tạo từ năm yếu tố luôn vận động là kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ sinh hóa và chế ước lẫn nhau. Đạo Gia thì cho rằng Đạo sinh ra
vạn vật, nhờ đức mà thể hiện, khi mất đi là lúc vạn vật quay về với Đạo. Đạo
sinh ra Một – khí thống nhất, Một sinh ra Hai – âm dương đối lập, Hai sinh ra
Ba – trời, đất, người, Ba sinh ra vạn vật. Khổng Tử cho rằng vạn vật không
ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng của trật tự
đó là thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng con người có tính người, tính người do trời
phú. Khi đến Mặc Gia thì yếu tố Trời hay ý trời được Mặc Tử phát triển thêm
bên cạnh yếu tố Quỷ thần, các yếu tố này luôn giám sát chặt chẽ mọi hành vi của
con người để khen thưởng những việc làm nhân nghĩa hay trừng phạt những
hành động độc ác một cách công minh.
Triết học Hy Lạp cổ đại ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, lại xuất hiện những trường
phái mới mang tính đột phá. Trường phái duy vật đơn nguyên Milê do Talét,
Anaximăngđrơ vàAnaximen xây dựng làm rõ bản nguyên vật chất của thế giới,
với Talét có nguồn gốc từ nước, Anaximăngđrơ là apeiron, Anaximen là không
khí. Những quan niệm triết học duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc,
thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và
chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác. Trường phái duy vật nhất nguyên
Hêraclít thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phác thông qua các phỏng đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tuy các quan
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
niệm biện chứng chưa được trình bày như một hệ thống nhưng hầu hết các luận

điểm cốt lõi được Hêraclít trình bày dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ hay những phát
biểu mang tính triết lý sâu sắc. Trường phái duy vật đa nguyên Empêđốc khởi
nguyên của vũ trụ là bốn yếu tố đất, nước, lửa, Anaxago cho rằng khởi nguyên
thế giới là các hạt giống, các hạt giống có thể sinh sôi nảy nở nhờ vào một động
lực đó là Nus – trí tuệ thuần túy hay linh hồn của thế giới. Trường phái nguyên tử
luận là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại trong giai đoạn cực thịnh,
Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các quan điểm về nguyên tử, Đêmôcrít là người
phát triển quan niệm này thành một hệ thống chặt chẽ và có sức thuyết phục.
Mặc dù vẫn còn nhiều hạng chế nhưng Đêmôcrít đã nâng chủ nghĩa duy vật Hy
Lạp lên đỉnh cao đủ sức đương đầu chống lại trào lưu duy tâm đang thịnh hành
lúc bấy giờ, cụ thể là trào lưu duy tâm của Platông. Trường phái duy tâm Pytago
xuất phát từ quan điểm đạo đức phải phục tùng tôn giáo để cùng thống trị thiên
hạ qua đó lý giải tính thống nhất của thế giới mà Pytago đã đặt nền móng cho chủ
nghĩa duy vật thời cổ Hy Lạp. Ngoài ra trường phái Êlê do Xênôphan thành lập
theo tinh thần duy vật nhưng sau đó được Pácmêníc phát triển theo tinh thần duy
lý ngả về khuynh hướng duy tâm khi dựa trên khái niệm nền tảng – Tồn tại.
Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platông, đặc biệt là Platông với
thuyết ý niệm. Trường phái duy vật siêu hình Arixtốt đã cố gắng khắc phục sự
đối lập giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, ông
đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao cực thịnh.
2.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Triết học Trung Quốc cổ đại và Triết học Hy Lạp cổ đại phần lớn đều phát triển
dựa trên tinh thần đề cao, bảo vệ giai cấp thống trị đang tồn tại lúc bấy giờ.
Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan điểm duy vật, là đại biểu kiệt xuất nhất của tầng
lớp chủ nô dân chủ. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền
thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó củng phải gắn liền với tình thân ái,
với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ.
Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Platông cho rằng có ba bộ phận
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa

cấu thành linh hồn con người cảm giác, ý chí và lý trí nên trong xã hội có 3 loại
người. Loại thứ nhất bao gồm các triết gia – những người mà bộ phận lý trí trong
linh hồn đóng vai trò chủ đạo, loại thứ hai bao gồm các chiến binh – những
người mà bộ phận ý chí trong linh hồn họ đóng vai trò chủ đạo, loại thứ ba bao
gồm nông dân, thợ thủ công, thương gia… những người mà bộ phận cảm xúc
trong linh hồn đóng vai trò chủ đạo. Arixtốt cho rằng sứ mạng của nhà nước là
đảm bảo cho mọi người trong cộng đồng một cuộc sống hành phúc, mức độ phúc
lợi xã hội ngày càng cao nhưng ngoại trừ nô lệ bởi vì nô lệ không phải là con
người mà chỉ là công cụ sống biết nói. Nho Giáo với quan niệm tam cương: quân
- thần, phụ - tử, phu – phụ trong đó mối quan hệ quân - thần quan trọng nhất
“Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung”, nho giáo chủ trương xây dựng xã hội đại
đồng dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội, không xuất phát từ sản xuất vật chất,
không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, chỉ dựa trên các quan hệ đạo đức –
chính trị - xã hội xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân cho
tầng lớp thống trị. Pháp gia chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai
trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền không phải chú trọng nhiều đến việc tu
thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết
để tuân theo nghiêm chỉnh.
Nhìn chung triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy lạp cổ đại đều coi trọng
vấn đề con người. Con người được xem là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân
hợp nhất”. Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu mang tính hướng nội. Mạnh
Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan và trong ý niệm
đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ
trong ta”. Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với
khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của con người
thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con
người có chín khiếu. Bát quái trong thuyết âm dương là: Càn – khôn, chấn – tốn,
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18

Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
cấn – đoài, khảm – ly tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành vũ trụ đối lập
nhau là: Trời – đất, sấm – gió, núi – hồ, nước – lửa; tượng trưng cho quan hệ gia
định: cha – mẹ, con trai cả – con trai giữa, con gái giữa – con gái út, con trai út –
con gái cả; tượng trưng cho tính khí con người: tính kiên nghị - tính ghen tuông,
tính phản trắc – tính lừng khừng, tính tháo vác – tính hay chê, tính hay lo – tính
hoạt bát. Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan
điểm của ông về trời – đất, quỷ - thần không rõ ràng. Ông cho rằng: Con người
có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở
mỗi con người.
Đối với Triết học Hy Lạp cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là
chủ thể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Triết học Hy Lạp
đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại. Trường phái
nguyên tử luận, theo Đêmôcrít thì vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên
là nguyên tử và chân không, sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác
dụng của nhiệt độ, chỉ có sinh vật mới có linh hồn. Mọi nhận thức của con người
đều có nội dung chân thực, nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính.
Pytago cho rằng bản nguyên thế giới là con số. Trật tự các con số được quy định
bởi trật tự của vạn vật, trong đời sống phải cố vạch ra trật tự các con số từ trong
trật tự của sự vật (trật tự những điều ác, điều thiện….) để khám phá ra trật tự thần
thánh. Điều ác nhất định sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu đúng và làm theo trật
tự thần thánh. Trường phái ÊLê, Xênôphan cho rằng không phải thần thánh sáng
tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra các vị thần theo trí tưởng tượng
và hình tượng của mình “Nếu như bò, ngựa và sư tử có tay và biết vẽ hay biết
nặng tượng như con người thì chúng sẽ căn cứ vào bản thân mình để vẽ hoặc
nặng ra tượng về Thượng đế giống như mình để tôn thờ…”
Triết học Trung Quốc cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với
người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho
nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
Đổng Trọng Thư đề cập đến mối quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, nếu xếp
theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang
của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ thể hiện rõ sự phân tầng
trong xã hội. Khổng tử lấy Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu… làm chuẩn
mực đạo đức. Lão Tử xây dựng thuyết “Vô Vi” là sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược
với bản tính tự nhiên. Trang Tử xây dựng quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã –
toàn sinh nghĩa là phải yên theo thời mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý…
Triết học Hy Lạp cổ đại họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao
cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt
nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng
con người. Pytago cho rằng linh hồn con người bất tử, tồn tại độc lập với thể xác
và chịu chi phối bởi luật luân hồi, giải thoát linh hồn ra khỏi sự ràng buộc của thể
xác là mục đích của cuộc sống. Nhận thức là chức năng của linh hồn và nhờ vào
sự mách bảo của thần thánh, thần thánh tạo ra trật tự vũ trụ. Pácmênít cho rằng,
tồn tại là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới, theo
Pácmênít có hai cách nhận thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính. Nhận thức cảm tính là nhận thức thông qua các giác quan chỉ mang lại sai
lầm, ảo giả, không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Nhận thức lý
tính thông qua hoạt động trí óc khám phá ra bản chất đích thực của thế giới – cái
tồn tại, nghĩa là phát hiện ra chân lý. Platông cho rằng con người là sự kết hợp
giữa thể xác khả tử (được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí) và linh hồn bất
tử (được thượng đế tạo ra). Linh hồn con người bao gồm ba bộ phận: cảm giác, ý
chí và lý trí; trú ngụ tạm thời ở ba chổ trong cơ thể (từ rốn trở xuống, trong lồng
ngực, trong đầu óc) hoạt động theo ba khía cạnh (dục vọng, tình cảm, nhận thức),
thể hiện ba phẩm hạnh (điều độ, can đảm, khôn ngoan), trong đó chỉ có lý trí là
bất tử.

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
2.4 PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC
Triết học Hy Lạp cổ đại ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn Trung Quốc
cổ đại thì ngả về dùng trực giác. Tuy cả hai dòng triết học Trung Quốc cổ đại và
Hy Lạp cổ đại đều nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng Hy lạp
nặng về giải quyết mặt thứ nhất (vấn đề vật chất). Các nhà triết học Hy lạp chú
tâm nghiên cứu giải thích nguồn gốc vật chất của thế giới (nước, lửa, không khí,
nguyên tử…) mà ít chú trọng đến mặc ý thức của con người. Ngược lại ở Trung
Quốc nặng về giải quyết mặt thứ hai (vấn đề ý thức). Các nhà triết học Trung
Quốc chủ yếu quan tâm đến mặt ý thức của con người đề cập đến các mối quan
hệ xã hội, xây dựng, lý giải các mối quan hệ (vua tôi, chồng vợ, cha con, anh em,
bạn bè) và cũng cố nó bằng các chuẩn mực (nhân, lễ, nghĩa, trí, tính, trung
hiếu…), cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Triết học Hy Lạp đi từ cụ thể đến khái quát cho nên là tư duy tất định – tư duy
vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn Triết
học Trung Quốc đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những
cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng
được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn
mang – dự báo.
Cái mạnh của phương Hy Lạp cổ đại là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công
nghệ phát triển và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn
cùng. Hy Lạp cổ đại đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái
niệm, quy luật của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức
độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm
mất đi tính tổng thể. Triết học Trung Quốc cổ đại ngược lại thường dùng trực
giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện
tượng. Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến.
Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi
người mỗi khác. Và không phải lúc nào trực giác cũng đúng.

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Trung Quốc cổ đại - Hy Lạp cổ đại là tĩnh,
ổn định đối nghịch với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của
Trung Quốc cổ đại đối lại là triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Hy
Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ
quan, bản thể luận từ đó xây dựng nhân sinh quan con người;) trong khi triết
học Trung Quốc cổ đại đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách
sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận ). Đó là 2 nét chính của
hai nền triết học Trung Quốc cổ đại - Hy Lạp cổ đại.
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người với vũ trụ. Trong khi đó, triết học Hy Lạp cổ đại lại tách con người ra
khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, còn thế giới là khách thể, con người cần
nghiên cứu, chinh phục.
Nếu như ở Hy Lạp cổ đại, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
Trung Quốc cổ đại, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục
đạo đức, chính trị-xã hội.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học Hy Lạp cổ đại thiên về giải thích
thế giới theo nhiều cách còn mục đích chính của Trung Quốc cổ đại là cải tạo thế
giới gồm có: ổn định xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con người
hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở Trung Quốc cổ đại, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc
đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở Hy Lạp cổ đại hạ tầng cơ sở quyết
định đến thượng tầng kiến trúc.
Triết học Khổng Từ là nền tảng đạo đức hoàn hảo nếu nó tách bạch ba vấn đề:
những đặc điểm con người được xem là phẩm hạnh đạo đức; sống tốt và đáng
sống; phương thức tư duy đạo đức trong trường hợp cụ thể. Ba chủ đề này có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Phẩm hạnh đạo đức là những tính cách cần có của con
người để có thể sống tốt. Phẩm hạnh đạo đức liên quan đến việc phải hạnh động

K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
theo các phương thức tư duy đạo đức trong trường hợp cụ thể mà không phụ
thuộc vào các kết luận hướng dẫn hành vị cụ thể về việc hành xử thế nào từ các
quy tắc chung mà đúng hơn là hành xử theo tùy theo ngữ cảnh. Chúng ta xem xét
một số phẩm hạnh cần có của một người quân tử như: nhân, hiếu, nghĩa, lễ.
"Nghĩa" là khả năng đánh giá và hành trong một ngữ cảnh cụ thể. Trong khi các
quy tắc truyền thống về lễ nghi cho người ta nhận thức thế nào là lễ nghĩa và
những hành động được tôn trọng trong ngữ cảnh thông thường, "nghĩa" giúp
người ta biết được rằng khi nào thì những lễ nghi đó cần được đặt sang một bên
trong ngữ cảnh khác thường. Điều này tương đồng với các giá trị đạo đức của
Triết học Hy Lạp cổ. Ví dụ, khái niệm eudaimonia (hạnh phúc, sống tốt) của
Aristotle và khái niệm "đạo" (cách mà người ta sống) của Khổng Tử đều là điểm
khởi nguồn trong quan điểm về đạo đức. Tiếp đến, cả hai đều đề cập về phẩm
hạnh (Aristotle dùng khái niệm "arete" , còn Khổng Tử dùng khái niệm "đức").
Nhìn chung, quan điểm đạo đức của Trung Quốc và Hy Lạp hội tụ tại một điểm
khi cùng tập trung một số phẩm hạnh được xem là sống còn chọ sự phát triển
nhân cách của một con người
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Trung Quốc và Hy Lạp là hai quốc gia rộng lớn, là hai nền văn minh với nhiều
giá trị lịch sử, văn hóa phong phú và rực rỡ, tại đây hình thành nên nhiều trường
phái triết học, chúng là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền tảng triết học
thế giới. Các trường phái này tuy khác biệt nhau nhưng bổ sung cho nhau, một
bên hướng nội, một bên hướng ngoại góp phần mô tả bức tranh hiện thực của thế
giới hoàn thiện hơn. Việc so sánh các nền Triết học là một chiến lược hợp lý khi
tiếp cận Triết học. Đương nhiên, vẫn phải ý thức được rằng ở những nền văn hóa
khác nhau, có thể người ta phải đối mặt với những vấn đề không giống nhau,
hoặc chỉ giống nhau phần nào đó.

Qua tiểu luận này chúng ta tìm hiểu, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa
triết học Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại, là hai nền văn minh với nhiều giá
trị lịch sử, văn hóa phong phú và rực rỡ, tại đây hình thành nên nhiều trường phái
triết học. Nghiên cứu trên giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về thế giới và
bản thân mỗi con người, đưa ra phương pháp luận để nâng cao tư duy.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 24
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Sách Triết Học, phần 1 – Đại Cương về Lịch Sử Triết Học, Nhóm tác giả :
TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên)-TS. Trần Nguyên Ký-PGS TS. Lê Thanh Sinh-
TS. Nguyễn Ngọc Thu-TS. Bùi Bá Linh – TS. Bùi Xuân Thanh, Trường ĐH
Kinh Tế TPHCM, năm 2010
2) Sách Lịch Sử Triết Học, Trần Đặng Sinh, Nhà xuất bản Trường ĐH Sư Phạm
TPHCM
3) Giáo Trình Triết Học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết Học, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản lý
luận chính trị.
4) Lịch sử triết học, Đồng Văn Quân, Đại học Thái Nguyên- Trường ĐH Sư
Phạm, năm 2010
5) Một số tài liệu sưu tầm khác từ internet
+ Website bách khoa toàn thư:
+
+ /> + /> +
+ />K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 25

×