TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 9:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN THÀNH NAM
STT : 65
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5/2011
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ và Tên
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh
62 Trần Đăng Minh
63 Đoàn Thanh Nam
64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 2
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 3
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu
− Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại
và Trung Hoa cổ đại
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 4
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu nô lệ
nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai
trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 5
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ
quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng
chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học
tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên
sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành,
bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3. Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi
thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh
ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy
lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.
a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản
chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức
của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư
tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là
nhà nhị nguyên luận.
1.2. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu
(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
1.2.3. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết
“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA
CỔ ĐẠI
Vì phần I của tiểu luận đã trình bày khá chi tiết về điều kiện lịch sử, ra đời,
các trường phái triết học Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại … nên phần 2 xin được
lướt qua những kiến thức lặp lại trên mà chỉ tập trung vào một số vấn đề quan
trọng. Do các nhà Triết học Trung Hoa sử dụng các phạm trù hoàn toàn khác
người Hy Lạp nên việc đưa ra những so sánh cho các khung phạm trù chung là
rất khó, vì vậy, trong khuôn khổ của tiểu luận này, phần 2 chỉ xin đưa ra một số
nhận định so sánh về ba vấn đề quan trọng nhất nhì đối với bất kỳ trường phái
triết học nào: siêu hình, tri thức luận và luân lý luận (quan điểm về đạo đức)
2.1 SIÊU HÌNH VÀ TRI THỨC LUẬN
Một điểm khác biệt cơ bản giữa Triết học Trung Hoa và Hy Lạp là bản
chất câu hỏi Triết học. Triết học Trung Hoa là ngôn từ “thông thái”, thường được
biểu đạt qua các câu chuyện, các câu châm ngôn nhằm hướng người nghe theo
một nhân sinh quan nào đó. Triết học Hy Lạp, cũng như phần đông các trường
phái Triết học phương Tây khác, lại là hệ thống tổng hợp các lý thuyết và luận
cứ. Có thật là tồn tại sự khác biệt này? Một lý do ta có thể nghĩ đến là tính cẩn
trọng trong các học thuyết Triết hoa khi diễn dịch các kết luận cho một trường
hợp cụ thể từ tổng quát. Chương 17 của tác phẩm Trang Tử miêu tả chuyện vua
Nghiêu tìm kiếm người thừa kế và lựa chọn được Thuấn là người thích hợp nên
đã thoái vị để Thuấn lên ngôi. Kết quả này thật là mỹ mãn. Tuy nhiên khi Kuai
muốn bắt chước vua Nghiêu thì kết quả thật tồi tệ. Tang và Wu là những vị vua
chiến đấu và chinh phục thành công. Bo cũng tương tự, chiến đấu nhưng thất bại.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Vì vậy, không để đưa ra một quy luật “cố định không đổi” nào. Thông thường,
qua trải nghiệm và kiến thức trong một vài tình huống cụ thể, ta có xu hướng đưa
ra những quy luật chung mà ta tin là có thể ứng dụng trong các trường hợp khác
ở tương lai. Không may là, cái trải nghiệm và kiến thức đó thường bị thổi phồng
vượt quá phạm vi ứng dụng của nó. Những người theo Khổng Tử thường rất sẵn
sàng rao giảng các nguyên tắc quy luật nhưng các nguyên tắc này có vẻ như chỉ
đóng vài trò khởi nguồn giá trị hoặc các vấn đề chung mà cần phải có thêm các
suy luận, nhìn nhận xem nên làm như thế nào. Trong một tình huống cụ thể, luôn
luôn cần tư duy độc lập để ứng xử và giải quyết vấn đề. Ngay cả những nguyên
tắc hoàn hảo nhất cũng không thể được áp dụng trong các trường hợp khác
thường. Nguyên tắc và giá trị nhiều khi xung đột với nhau và không tồn tại
những nguyên tắc siêu việt có thể cho ta mọi câu trả lời. Giải pháp cụ thể cho
mỗi xung đột phụ thuộc rất lớn vào tình hình thực tế. Mạnh Tử từng được hỏi
liệu vua Thuấn sẽ làm gì nếu cha mình giết người. Mạnh Tử trả lời rằng, điều
duy nhất có thể làm là bắt ông ấy. Vua Thuấn không thể can thiệp vào việc xét
xử vì các quan xét xử đang thi hành luật pháp. Tuy nhiên, Mạnh Tử tiếp rằng, khi
đó vua Thuấn sẽ thoái ngôi và bỏ trốn cùng với người cha ra đảo khơi vì Mạnh
Tử cho rằng vua Thuấn sẽ hành động theo hướng cân bằng các giá trị khác nhau
khi các giá trị này xung đột. Việc từ chối can thiệp vào việc xét xử là một cách
nhìn nhận sự cần cần thiết phải có tính bình đẳng công bằng để duy trì trật tự xã
hội. Trong khi đó, việc ra đi cùng với người cha thể hiện sự trân trọng giá trị gia
đình. Vua Thuấn cố gắng gìn giữ cả hai giá trị tại những thời điểm khác nhau khi
xử lý mà nếu chỉ áp dụng cứng nhắc theo một nguyên tắc nào đó thì có lẽ sẽ
không đạt được sự cân bằng này. Chúng ta được kỳ vọng là sẽ học tập y như các
câu chuyện về vua Thuấn vì chúng đóng vai trò như những hình mẫu cụ thể cho
việc đưa ra các quyết định trong tương lai. Khi gặp các tình huống cũng dẫn đến
những xung đột tương tự giữa sự công chính và giá trị gia đình, chúng ta có
trường hợp của vua Thuấn làm hình mẫu và tham khảo. Hình mẫu này không
giống như một nguyên tắc chung diễn dịch đưa ra cách giải quyết cần thực hiện
trong tình hình hiện tại. Chúng ta phải đưa ra đánh giá rằng liệu tình hình mới có
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
thật sự tương tự như trường hợp của vua Thuấn không và chúng ta sẽ có các ứng
xử tương tự như vua Thuấn.
Naes and Hanay (1972) đã miêu tả rằng Triết học Trung Hoa mang tính
“mời gọi”, thuyết dụ, tức là nó vẽ ra những viễn cảnh đẹp khi người ta theo một
nhân sinh quan nào đó để mời, thuyết phục người nghe cũng lựa chọn nhân sinh
quan đó. Ví dụ, Luận ngữ miêu tả hình ảnh lý tưởng của một người Quân tử.
Mạnh Tử cho rằng, Quân tử sở hữu nhân cách cao quý và không bị ảnh hưởng
bởi danh vọng hay quyền lực. Đó là khí tiết của người Quân tử. Những người
theo Đạo hướng con người theo nhân sinh quan mà bản thân họ rất khó dùng
ngôn từ để chứng minh là đúng, tuy nhiên lại được ủng hộ vì những người thực
hiện theo lối sống này đều có những trải nghiệm tương tự nhau. Chúng ta cùng
xem xét khái niệm “vô vi” và những minh họa cho khái niệm này thông qua câu
chuyện của Trang Tử. Người đầu bếp tên Đinh của Trang Tử có khả năng cắt thịt
bò ngọt đến nỗi thanh dao không bao giờ cùn. Mỗi khi thao tác, người này giống
như là múa dao hơn là cầm dao. Anh thực hiện không phải bằng tri thức và hiểu
biết mà là thông qua “khí”. Kỹ thuật tuyệt vời đó là do khả năng điều chỉnh các
chuyển động của bản thân mình. Như vậy, các mô tả về nhân vật này mang tính
cộng hưởng với những người thợ có tay nghề cao, khi mà khả năng của họ vượt
lên trên các kỹ thuật có nhận thức hay theo quy luật mà hoàn toàn đắm chìm
trong thế giới vật chất và cơ thể họ. Và như vậy, các nhà triết họ Trung Hoa đã
vẽ ra bức tranh thế giới trong đó sức mạnh được hiểu và đánh giá ở một khái
niệm rất rộng.
Như vậy, phải chăng, Triết học Hy Lạp mang tính biện chứng rõ nét trong
khi Triết học Trung Hoa chỉ mang tính mời gọi? Câu trả lời là, có sự khác biệt
giữa hai nền triết học này, nhưng đúng hơn là khác biệt ở mức độ chứ không phải
là hoàn toàn tương phản. Aristotle phát biểu rằng, các tranh luận về cái thiện
trong đời sống con người không thể nào được kết luận bằng người trẻ vì họ
không có đủ trải nghiệm sống. Platon cũng có những đưa ra những luận cứ phân
tích ủng hộ cho sự hòa hợp tâm hồn. Những mô tả này đôi khi chỉ đưa ra một số
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
luận cứ sơ sài cho các tiền đề quan trọng, hoặc đôi khi còn không có luận cứ.
Một số những đánh giá của ông, ví dụ về hiệu ứng phân liệt của sự gắn bó gia
đình và hiệu ứng phụ của tính dân chỉ đòi hỏi phải có trải nghiệm để chứng minh.
Đôi khi, sự khác biệt là do mong muốn chứng minh bằng luận cứ diễn dịch từ các
tiền đề mang tính hiển nhiên tự thân và các trải nghiệm thực tế trong cuộc sống.
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, bản thân trong Triết học Trung Hoa cũng tồn tại
các luận chứng. Ví dụ, Mặc Tử đã có những đóng góp rất quan trọng khi giới
thuận các tiêu chuẩn để đánh giá lòng tin. Ông cũng là người đã phê phán Khổng
Tử vì đã chấp nhận truyền thống một cách quá dễ dàng. Mạnh Tử đã bảo vệ
Khổng Tử khi biện luận rằng, con người về bản chất tồn tại các mầm mống hình
thành nhân cách đạo đức và từ đó có các cảm xúc, hành vi tự nhiên tương ứng
trong những hoàn cảnh nhất định, cụ thể ông đưa ra phản ứng của một đứa trẻ khi
nó bị rơi xuống giếng. Ông phủ nhận lập luận của những nhà triết học cho rằng
bản chất con người là trung tính và con người khi sinh ra không mang sẵn trong
mình một định hướng nhân cách cụ thể. Sau đó, Tuân Tử lại bác bỏ giả thuyết
của Mạnh Tử bằng cách đưa ra quan điểm riêng của mình. Ông cho rằng bản chất
con người là xấu và có thể khiến con người gặp rắc rối, do đó các chuẩn mực đạo
đức cần phải được đặt ra và tuân thủ để giúp con người thoát khỏi các rắc rối
này.
Khác biệt trong cách hiểu, nhìn nhận về triết học có thể đưa đến những
khác biệt trong các vấn đề mà triết học muốn giải quyết. Ví dụ trên phương diện
ngôn ngữ. Chad Hansen (1992) cho rằng các nhà Triết học cổ điển Trung Quốc
không nhìn nhận chức năng chính của ngôn ngữ là miêu tả mà xem nó là phương
tiện thực dụng để hướng dẫn hành vi. Đạo đức kinh không nên được hiểu như
một thực thể siêu hình tên là Đạo mà nên được hiểu như sự tự hoàn thiện bản
than giúp ta truyền dẫn kinh nghiệm sâu sắc và bình yên trong nội thể. Vô vi là
phong cách hành động có khởi nguồn từ những kinh nghiệm này. Đạo không
được hiểu như là một thực tế độc lập với ngôn ngữ và truyền thống mà các niềm
tin thể hiện qua ngôn ngữ được đo lường như là đáng tin cậy hay không đáng tin
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
cậy. Trên thực tế, Đạo là một chuỗi sáng tạo tích tụ từ quá trình làm việc của các
cá nhân trong ngữ cảnh do truyền thống xã hội quy định gồm phong tục, tập
quán, nhận thức về chuẩn mực quy tắc ứng xử, hành động, các giá trị cội rễ và
các giá trị sống
Luận Ngữ thường thể hiện thái đệ khoan dung và mềm dẻo khi đánh giá
về Đạo. Mặt khác, nó chỉ ra rằng trong một số câu châm ngôn (trong đó đề cao
hiếu đạo và tình anh em như là cội rễ cho phẩm hạnh của con người), không có
điểm nào cho thấy là những quan điểm đó chỉ áp dụng cho nền văn hóa Trung
Hoa mà cho nhân loại nói chung. Một cách để thấu hiểu là xem đó như là châm
ngôn mà loài người phải học để phản ứng trước một loại quyền lực không dựa
trên sức mạnh mà dựa trên sự quan tâm và sự tôn trọng. Hoặc có thể nhìn nhận
rằng, theo quan điểm của Khổng Tử, nhà cầm quyền không thể nắm được quyền
lực bằng chỉ đơn thuần luật pháp hay trừng phạt. Và những nhận định này cũng
không bị giới hạn trong phạm vi thời gian và không gian của chỉ một cá nhân. Về
Đạo Đức Kinh, rõ ràng là có những mối quan tâm mang tính thực tiễn trong phần
câu chữ. Người ta đưa ra lời khuyên về lối sống và có lẽ lối sống này bắt nguồn
từ việc truyền đạt kinh nghiệm. Mặt khác, có thể lập luận rằng, những mối quan
tâm mang tính kinh nghiệm và thực tiễn này không loại trừ các vấn đề siêu hình.
Ví dụ tại chương 4 của Đạo Đức Kinh, Đạo được hiểu là "hư không", là khởi
thủy của vạn vật. Với những khái niệm có vẻ siêu hình, ví dụ như Mạnh Tử từng
nhận xét, người ta có thể có trái tim thuần khiết nếu biết nuôi dưỡng "khí" của
mình. "Khí" bao la và không thể khuất phục, nếu biết nuôi dưỡng có thể lấp đầy
khoảng không giữa trời và đất. Như vậy, chúng ta rút ra rằng, không phải các nhà
Triết học không quan tâm đến vấn đề siêu hình, mà là họ không tách bạch các
vấn đề siêu hình với thực nghiệm như cách mà các nhà Triết học Hy Lạp thực
hiện.
Tuy nhiên, vấn đề này cũng đã được giải quyết nếu nhìn vào các nhà Triết
học cổ Trung Hoa. Những khái niệm như "vô thể" bản thân nó rõ ràng mang tính
siêu hình trong truyền thống Trung Hoa. Khái niệm này là nói đến cơ sở "vô
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
định" trong đó cái xác định "một vạn" là khởi đầu. Việc bao hàm cái "vô định"
trong cái "xác định" phản ánh quyết định tạo một vị trí cơ sở cho hiện tượng thay
đổi trong bản thể luận hơn là hơn là một thực thể ổn định tuyệt đối nhưng trong
bản thể luận của Aristole. Chu Hi - nhà Triết học đời Tống của Trung Quốc đã
diễn dịch lại các khái niệm đạo đức từ các bậc tiền nhân nhưng đặt trong vũ trụ
quan và siêu hình. Theo ông, chữ "nhân" đã bao gồm mọi phẩm hạnh, là một
phần của Đạo và bao gồm sự thật rằng tư tưởng Trời và Đất sinh ra vạn vật và
hiện hiện trong vạn vật, kể cả tư tưởng của con người.
Khi nghiên cứu Đạo phật, càng có nhiều bằng chứng cho thấy các vấn đề
siêu hình cũng mang tính thực tiễn cấp bách. Rõ ràng, cách nhìn của Phật về cái
bản ngã như một chuỗi những phản ứng tâm lý- vật lý khác biệt và không có một
tâm điểm hay cái tôi cố định là học thuyết siêu hình. Phật không phủ nhận rằng,
chúng ta nghĩ về bản ngã như một tâm điểm cố định không đổi, nhưng chúng ta
lại cho rằng bản ngã đó là ảo tưởng. Các thuộc tính cơ thể, nhận thức, suy nghĩ,
mong muốn, mộng mị hay tóm chung là ý thức về thế giới thể hiện những kết
nối liên tục dẫn dắt chúng ta đến niềm tin rằng, có một "tôi" cố định tồn tại và
độc lập với những chuỗi biến đổi liên tục đó. Những chỉ có những chuỗi tương
tác và kết nối. Vấn đề siêu hình đương nhiên là ám chỉ đến Phật. Nó chỉ ra câu
trả lời cho những đau khổ con người phải chịu đựng, mà điều này có nguồn gốc
từ những quan tâm đến tồn tại, sự hoan lạc, đau khổ của cái tôi mà lúc ban đầu
không hề tồn tại. Sự nhận thức được rằng không có những điều gì trong cuộc
sống hàng ngày là khác biệt và cố định hơn cái tôi dẫn đến việc nhận thức về mọi
điều trong cuộc sống như một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau và thái độ thực tế bao
dung mọi điều của cuộc sống.
2.2 LUÂN LÝ LUẬN (QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC)
Triết học Khổng Từ là nền tảng đạo đức hoàn hảo nếu nó tách bạch ba vấn
đề: những đặc điểm con người được xem là phẩm hạnh đạo đức; sống tốt và đáng
sống; phương thức tư duy đạo đức trong trường hợp cụ thể. Ba chủ đề này có
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quan hệ chặt chẽ với nhau. Phẩm hạnh đạo đức là những tính cách cần có của con
người để có thể sống tốt. Phẩm hạnh đạo đức liên quan đến việc phải hạnh động
theo các phương thức tư duy đạo đức trong trường hợp cụ thể mà không phụ
thuộc vào các kết luận hướng dẫn hành vị cụ thể về việc hành xử thế nào từ các
quy tắc chung mà đúng hơn là hành xử theo tùy theo ngữ cảnh. Chúng ta xem xét
một số phẩm hạnh cần có của một người quân tử như: nhân, hiếu, nghĩa, lễ.
"Nghĩa" là khả năng đánh giá và hành trong một ngữ cảnh cụ thể. Trong khi các
quy tắc truyền thống về lễ nghi cho người ta nhận thức thế nào là lễ nghĩa và
những hành động được tôn trọng trong ngữ cảnh thông thường, "nghĩa" giúp
người ta biết được rằng khi nào thì những lễ nghi đó cần được đặt sang một bên
trong ngữ cảnh khác thường. Ví dụ của Mạnh Tử về vua Thuấn và người cha của
vua Thuấn cho thấy mối quan tâm lớn hơn và nghĩa vụ hiếu thảo với cha phải
được cân bằng theo cách mà những nguyên tắc có sẵn không thể nào chỉ lối được
mà cần được ứng xử linh hoạt tùy hoàn cảnh. Chúng ta xem xét một ví dụ khác
của Mạnh Tử, khi vua Thuấn muốn lập gia đình. Vua Thuấn biết rằng bố mẹ của
ông không phải là những người tốt nhất hay thông thái nhất, và sẽ chẳng để ông
kết hôn nếu biết ý định của anh. Vì vậy, vua Thuấn cứ lập gia đình mà không báo
cho cha mẹ biết, đây là hành động mà trong ngữ cảnh thông thường sẽ bị khép
vào tội bất hiếu. Tuy nhiên, có hai lý do có thể lý giải và khoan dung cho hành
động này. Thứ nhất, tội bất hiếu lớn nhất của một người là không có con nối dõi ;
thứ hai, nếu để cha mẹ ngăn cản mong muốn trải nghiệm điều tuyệt vời nhất
trong mối quan hệ của con người sẽ khiến ông oán trách cha mẹ. Vì vậy, hành
động được xem là bất hiếu trong ngữ cảnh thông thường lại được xem là có hiếu
trong trường hợp này. Do đó, cần có phương thức tư duy trong trường hợp cụ thể
và sau đó đánh giá khi áp dụng phương thức tư duy trong hoàn cảnh thông
thường để cân bằng các giá trị xung đột và xác định ý nghĩa cụ thể của các giá trị
riêng lẻ trong ngữ cảnh.
Điều này tương đồng với các giá trị đạo đức của Triết học Hy Lạp cổ. Ví
dụ, khái niệm eudaimonia (hạnh phúc, sống tốt) của Aristotle và khái niệm "đạo"
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
(cách mà người ta sống) của Khổng Tử đều là điểm khởi nguồn trong quan điểm
về đạo đức. Tiếp đến, cả hai đều đề cập về phẩm hạnh (Aristotle dùng khái niệm
"arete" , còn Khổng Tử dùng khái niệm "đức"). Nhìn chung, quan điểm đạo đức
của Trung Quốc và Hy Lạp hội tụ tại một điểm khi cùng tập trung một số phẩm
hạnh được xem là sống còn chọ sự phát triển nhân cách của một con người. Đã
có những tranh luận thú vị về lòng quả cảm và vai trò của nỗi sợ trong các công
trình của Mạnh Tử và. Khái niệm phương thức tư duy trong hoàn cảnh cụ thể của
Khổng Tử cũng tương tự khái niệm "phronesis" của Aristotle (có nghĩa là sự
thông tuệ thực tế phụ thuộc vào các kiến thức rút ra từ trải nghiệm trong các hoàn
cảnh cụ thể ). Ví dụ cụ thể là học thuyết về "golden mean" (tạm dịch là điểm cân
bằng) của Aristotle. Học thuyết này phát biểu rằng hành động và cảm giác phẩm
hạnh là tránh sự cực đoan, cả cực đoan thiếu thốn lẫn cực đoan dư thừa. Điều này
không có nghĩa là chúng ta phải luôn luôn hành xử một cách trung tính hay có
những cảm nhận trung tính. Aristotle nói rằng "điểm cân bằng" là "tương quan
với chúng ta", ví dụ như là một ít thức ăn cho Milo (một nhà đấu vật nổi tiếng)
cũng tương đương là quá nhiều dành cho người mới tập thể thao. Tùy vào tình
huống cụ thể, một hành động hay cảm giác đúng đắn có thể bị xem là cực đoan
theo cách nghĩ thông thường, nhưng sẽ được xem là vừa phải nếu xét đến môi
trường, ngữ cảnh cụ thể và các tác động liên quan. Một phần các học thuyết đạo
đức đương đại phần nào dựa trên nền tảng của phản ứng với tham vọng của các
học thuyết đạo đức hiện đại dẫn đường thông qua các nguyên tắc chung của hành
động hơn là các tính cách cụ thể. Phẩm hạnh đạo đức có xu hướng hòa hợp với
suy nghĩ rằng (đặc biệt là trong chuẩn mực đạo đức Trung Hoa) một cuộc sống
tốt đẹp trong một mối quan hệ chuẩn mực mà các bên quan tâm lẫn nhau là tiền
đề cần thiết cho con người phát trển bản thân. Theo Mạnh Tử, điều này phát sinh
khi xác định được những tiềm năng đặc trưng của con người với các xu hưởng
khởi đầu để phát triển phẩm hạnh đạo đức . Aristotle cho rằng, tư duy làm con
người chúng ta khác biệt so với các sinh vật còn lại và tư duy cùng bản chất xã
hội thức đẩy sự nhìn nhận mong muốn đời sống đạo đức của con người. Tuân Tử
cũng đồng ý rằng, để phát triển bản thân cần có những mối quan hệ chuẩn mực
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
mà các bên quan tâm đến nhau, mặc dù ông phủ nhận việc bản chất con người có
xu hướng tạo thành các mối quan hệ như vậy.
Ngoài tính tương đồng, tuy nhiên cũng tồn tại những khác biệt. Theo quan
điểm của Không Tử, để sống tốt người ta phải sống quây quần bên gia đình.
Chuẩn mực đạo đức của Hy Lạp không hề yêu cầu điều này. Một phần nguyên
nhân có lẽ xuất phát từ việc Khổng Tử cho rằng gia đình là cái nôi nảy sinh và
phát triển các mối quan hệ mà ở đó người ta quan tâm và tôn trọng lẫn nhau,
cũng là nơi những bài học đầu tiên về việc phải tuân thủ những quyền lực hợp
pháp xuất hiện. Mạnh Tử cho rằng sự hổ thẹn đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát triển nhân cách con người, nhưng Aristotle thì không hề đưa ra một
khái niệm tương đương. Cách mà tư duy trong trường hợp cụ thể được miêu tả
trong các câu chuyện, ví dụ các câu chuyện về vua Thuấn là một đặc trưng của
học thuyết đạo đức Khổng Tử. Những câu chuyện này đưa ra các hình mẫu về
cách thức hành xử đúng đắn, các tấm gương nhân cách mà những người muốn
phát triển nhân cách cần học tập. Một đặc điểm khác của học thuyết Khổng Tử là
nó nhấn mạnh đến yếu tố mỹ học của một cuộc sống tốt. Làm theo lễ nghĩa
không chỉ đơn thuần là tuân theo các quy tắc trong trường hợp này hay trường
hợp kia mà phải hành xử với thái độ đúng đắn, tôn trọng, ví dụ khi trong cư xử
với cha mẹ phải thể hiện được ra ngoài sự tôn kính một cách rõ rệt mà không hề
hảm ẩn bất kỳ một sự xung đột nào có thể biến hành động đó thành một bản năng
phụ. Tầm quan trọng của "lễ", gắn liền với các nghi thức thể hiện cách thừa nhận
của Khổng Tử về vai trò của văn hóa và truyền thống trong việc giúp con người
bộc lộ thái độ với đối phương một cách tôn trọng và quan tâm . Mạnh Tử và
Tuân Tử từng có những tranh luận nảy lửa về bản chất con người và rằng liệu có
những xu hướng tự nhiện trong việc định hình nhân cách tốt của con người hay
không . Họ tranh luận sâu vào việc liệu các giá trị và chuẩn mực đạo đức là được
phát hiện ra hay được tạo dựng nên. Các luận cứ một phần dựa vào các giải thích
hợp lý bằng cách nào con người trở nên tốt đi hay xấu hơn. Xem xét tổng hợp
các yếu tố này, có thể thấy Triết học Khổng Tử cung cấp nền tảng tâm lý học đặc
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
biệt giàu tính đạo đức.
Những luận điểm thể hiện tính tương đồng giữa các chuẩn mực đạo đức
Trung Hoa và Hy Lạp không loại bỏ những khác biệt quan trọng giữa hai nền
Triết học về quyền con người. Có thể nói rằng, ngay cả khi xây dựng được các
quy chế trách nhiệm và luật hóa để bảo vệ sự bất đồng ý kiến giữa các cá nhân
cũng không bảo vệ được nhiều như các quy chế về quyền con người khi cách
nhìn của cá nhân đe dọa nghiêm trọng đến cách nhìn của cộng đồng hay xã hội.
Và nếu các chuẩn mực đạo đức của Hy Lạp bảo vệ nhiều hơn cho các cá nhân
trước cách nhìn của cộng đồng hay xã hội thì điều này cũng có thể xem là chấp
nhận được theo quan điểm của Khổng Tử vì người ta cho rằng mỗi nền văn hóa
không hề sai khi đề cao các giá trị khác nhau và không quan điểm nào được xem
là cao cấp hơn quan điểm kia trong vấn đề này. Người ta cho rằng mỗi hệ thống
chuẩn mực đạo đức đề cao các giá trị khác nhau và các giá trị này đều hướng đến
sự phát triển nhân cách tốt đẹp cho cuộc sống con người. Mặc khác, phụ thuộc
vào và đóng góp cho cộng đồng là tốt, nhưng sự tôn trọng dành cho các cá nhân
ngoài những đóng góp cho cộng đồng cũng có mặt tích cực của nó.
Đạo vẫn được xem là ví dụ điển hình khi người ta nêu sự khác biệt trên
quan điểm đạo đức giữa Triết học Trung Hoa và Hy Lạp nói riêng hay Triết học
Châu Âu nói chung . Cả Trang Tử và Đạo Đức Kinh đều đề cao khái niệm "vô
vi" - nghĩa là một phong cách tiếp nhận hơn là phản kháng, theo sau hơn là vượt
lên trước, tiếp nhận hơn là đối đầu, mềm dẻo linh hoạt và sẵn sàng thay đổi hơn
là cứng nhắc và chỉ thực hiện theo các nguyên tắc cố định. Tuy trong Triết học
Hy Lạp và phương Tây có sự hiện diện của quan điểm hòa hợp, tuy nhiên lại
không có một trường phái triết học nào đưa ra các chuẩn mực đạo đức cụ thể đặc
tả trạng thái hòa hợp một cách thoải mái, tự nhiên như Đạo.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 24
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Việc so sánh các nền Triết học là một chiến lược hợp lý khi tiếp cận Triết
học. Đương nhiên, vẫn phải ý thức được rằng ở những nền văn hóa khác nhau, có
thể người ta phải đối mặt với những vấn đề không giống nhau, hoặc chỉ giống
nhau phần nào đó. Ngay cả khi có cùng một vấn đề, cũng không thể kết luận rằng
cách giải quyết bên này là hoàn toàn sai hay bên kia là hoàn toàn đúng. Rất có
khả năng, mỗi nền Triết học bao hàm trong nó cách thức nhìn nhận về một số
mặt khác nhau của vấn đề và hoàn toàn có thể tiếp nhận thêm cách nhìn nhận ở
những khía cạnh khác của nền Triết học còn lại. Ví dụ quan niệm của Aristotle
xem người bạn như là cái tôi thứ hai, một tấm gương phản chiếu qua đó ta hiểu
rõ hơn về bản thân mình. Như vậy, siêu hình về linh hồn trong học thuyết của
Aristotle cung cấp một cái nhìn rất cần thiết và có thể xem là tiền đề cho khái
niệm phẩm hạnh đạo đức của Khổng Tử. Một ví dụ khác, siêu hình của Aristotle
thiên về hướng chủ nghĩa cá nhân quá nhiều, do đó không tạo được đủ sự chú ý
về các quan hệ xã hội lấy văn hóa làm trọng, mà các quan hệ này lại là cần thiết
để nâng đỡ cho các quan niệm về đạo đức của Aristotle. Do đó, trường phái của
Aristotle có thể hoàn thiện bằng cách ghi nhận tầm quan trọng của nghi thức và
sự đúng mực theo quan điểm của Khổng Tử. Khi chúng ta xem xét cùng lúc hai
nền Triết học, chúng ta sẽ có cơ hội thấy được những tương tác, những ảnh
hưởng bổ trợ cho nhau, trong trường hợp này là giữa nền Triết học thiên về
quyền con người và nền Triết học xem trọng giá trị cộng đồng và các mối quan
hệ. Như vậy, mục đích của công tác so sánh ngoài việc giúp thấy rõ sự bổ khuyết
giao thoa của hai nền Triết học mà còn giúp hoàn thiện, mở rộng tầm nhìn trong
các vấn đề Triết học giúp nâng cao năng lực tư duy.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 25