Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.08 KB, 24 trang )

GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13 :
“QUAN NIỆM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI”
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
SVTH : Lâm Thị Quế Ngọc
Lớp : Cao học Đêm 1
Khóa : K20
Nhóm : 5
STT : 66
Thành Phố Hồ Chí Minh, 2011
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 4
1. Giới thiệu 4
2. Triết học Nho Gia 4
3. Triết học Đạo gia 5
4. Triết học Mặc gia 6
5. Triết học Pháp gia 7
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 10
1. Giới thiệu 10
2. Quan điểm Đêmocrit 11
3. Quan điểm Platon 13
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 15
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
2


GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
3
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong

các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
4
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là

chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
5
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC

NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,
lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66

6
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong

chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
7
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.

"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
8
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
9
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu

Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
10
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:

Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
11

GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan

điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
12
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia

cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
13
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
14
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI

CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
I. Triết học Trung Quốc :
- Tư tưởng triết học Trung Quốc theo xu hướng hướng nội, chủ yếu
xoay quanh và tập trung vào con người, xã hội, đạo đức, chính trị,
mà trong đó con người là tâm điểm, lấy trong để giải thích ngoài.
- Quan điểm về đạo đức - chính trị của những nhà triết học cổ đại
Trung Hoa đã trải qua các giai đoạn khác nhau đi từ đơn giản đến
phức tạp song chúng đều có chung 1 mục đích và mong muốn là “
Quốc thái dân an, xã hội phát triển mạnh”.
- Theo như sổ sách ghi lại thì Trung Quốc thời cổ đại là thời kỳ “
Xuân Thu – Chiến Quốc “, xã hội hết sức đảo lộn. Sự tranh giành
địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Quốc cổ
đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình
đó 1 loạt học thuyết chính trị xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu
hết đều có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội.
Các quan điểm triết học thời bấy giờ :
a. Triết học Nho gia :
• Thể hiện tính nhân bản sâu sắc đánh vào tâm thức con người,
đề cao tài đức của người lãnh đạo ( đức Vua ) nói riêng và
tầng lớp thống trị nói chung.
• Tuy nhiên, quan điểm triết học của Nho giáo mang đậm tính
“duy tâm”,mang tính chất ảo tưởng, những cơ sở lý luận trị
quốc của Nho giáo không dựa vào thực tiễn xã hội mà nó
lại dựa vào quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội, xa rời quần
chúng chỉ tập trung vào giai cấp thống trị.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
15
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI

 Quan niệm triết học “ Nho gia ”, mang tính chất giáo dục con
người, làm thay đổi nhận thức của biết bao sĩ tử nhưng chỉ áp dụng
cho những người quân tử và luôn mong mỏi một điều “ Đức vua trị
vì thiên hạ phải là 1 đấng minh quân để cứu dân chúng thoát khỏi
chiến quốc”, mà không nghĩ rằng để có thể yên quốc thì cần dựa
vào quần chúng nhân dân ( tầng lớp bị xem là “ bọn ” tiểu nhân lúc
bấy giờ), chính điều này đã làm triết học cổ đại Nho Gia bị hạn
chế và vì thế nó chỉ là ảo tưởng, không được áp dụng vào thực tiễn.
b. Triết học Đạo gia :
• Những tư tưởng về đạo và đức nêu lên được bản chất của tự
nhiên và con người, và khuyên chúng ta cần tuân theo quy
luật tự nhiên. Song bên cạnh đó quan niệm triết học Đạo
Gia mang tính duy tâm, không thực tế, thể hiện tính tiêu
cực bế tắc trong thời cuộc loạn chiến bấy giờ thể hiện qua
thuyết “ VÔ VI”, nhưng nó lại phù hợp với quan niệm nhân
sinh của những nhà quý tộc trong thời cuộc nên quan niệm
đạo gia rất được coi trọng trong thời đó.
c. Triết học Mặc Gia :
• So với Đạo Gia và Nho Gia thì triết học Mặc gia đã có phần
tiến bộ hơn sâu sắc hơn, biết được sức mạnh của quần chúng
nhân dân, điều đặc biệt là yếu tố duy vật đã dần xuất hiện
song song với yếu tố duy tâm điều này đã làm cho quan niệm
trị quốc của Mặc gia mang tính chất thực tiễn hơn gần với đời
sống của quần chúng, và do đó đã có ảnh hưởng tích cực đến
đời sống sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên quan niệm của mặc
gia trong thời gian sau đã bị các tư tưởng trường phái khác lấn
át nên đã dần dần suy yếu và mất đi.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
16
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC

NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
d. Pháp gia :
• Bắt đầu xuất hiện pháp trị, đưa ra luật pháp, dựa vào pháp để trị quốc
và đã mang lại những kêt quả tích cực, tuy nhiên pháp trị trong thời kỳ
này cũng chính là 1 hình thức của nhân trị mà thôi, bởi vì pháp luật
cũng do 1 vị vua đứng đầu ban hành và thi hành, nhưng so với các
Triết học khác thì Pháp gia đã mở ra 1 con đường mới 1 phương pháp
trị quốc mới, là cơ sở và là nền tản để các nhà triết học trung đại và
hiện đai phát triển những quan niệm triết học mới.
Tóm lại :
Triết học phương Đông thời cổ đại mà cụ thể là Triết Học Trung Hoa đã
có những quan niệm trị quốc khác nhau về mặt lý luận song chúng đều có chung
1 quan niệm nhân sinh, chính trị, đạo đức và còn mang tính chất duy tâm khá
nhiều ( tuy nhiên Mặc gia và Pháp gia đã có tính chất duy vật nhung duy tâm
chiếm nhiều hơn ). Mỗi quan niệm trị quốc đều có những ưu điểm và nhược điểm
riêng của mình nhưng so với thời cuộc lúc bấy giờ thì những nhà triết học cổ đại
đều có lý lẽ riêng và do xuất thân từ những tầng lớp khác nhau nên quan niệm
nhân sinh cũng khác nhau.
Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và cả Pháp gia đều lấy cá nhân làm gốc là tâm điểm
để nhìn xung quanh, lấy trong để giải thích ngoài,mang tính chất duy tâm. Vì thế
quan niệm trị quốc được xây dựng trên nền tản nhân sinh và tập trung vào 1 đấng
minh quân, yêu cầu - đòi hỏi phải có 1 vị vua tài giỏi hơn người để lãnh đạo
quần chúng, mà không nhận thức được sức mạnh của tầng lớp nhân dân; mức độ
phân chia giai cấp khá rõ, điều này đã làm cho nền triết học phương Đông thời cổ
đại bị giới hạn. Do cách nhìn nhận vấn đề cũng như tầm nhìn còn mang tính chất
phiếm diện và cũng do sử dụng trực giác để cảm nhận mà không nhìn thẳng vào
thực tế, những quan niệm trị quốc đều xuất phát từ ý nguyện của cá nhân và của
giai cấp thống trị nên những quan niệm trị quốc của các nhà triết học cổ đại bị
hạn chế.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66

17
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Tuy nhiên những quan niệm trị quốc thời cổ đại cũng có ý nghĩa :
a. Là cơ sở và nền tảng cho triết học thời nay
b. Mở ra hướng đi mới cho những nhà triết học sau này khi nghiên cứu
về vấn đề trị quốc hay những vấn đề khác có liên quan.
c. Quan niệm trị quốc nhân sinh tác động tích cực đến cuộc sống thời
nay, trước đây những quan niệm trị quốc của nho giáo và pháp gia còn
có những nhược điểm thì ngày nay với sự kế thừa có chọn lọc ta đã
biết kết hợp 2 yếu tố trên để trị quốc.
II. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Triết học hy Lạp cổ đại được xem là tinh hoa của nền triết học phương
Tây, với những phương pháp luận tiêu biểu của các nhà triết học thời
bấy giờ ta có thể nhận thấy được cái hay của nền triết học phương Tây
như thế nào ?
a. ĐÊMÔCRIT : nhà triết học duy vật vĩ đại nhất của dòng
triết học Hy lạp cổ đaị
Đêmôcrit được xem là đại biểu của tầng lớp chủ nô, ông đã có
những lập luận xuất phát từ duy vật để bảo vệ tầng lớp của chính
mình, và chính ông đã cho rằng “ nền dân chủ chủ nô” là hình thức
cai trị tuyệt vời nhất, ông đã coi trọng nền tự do nhưng là tự do của
tầng lớp chủ nô và nô lệ thì không có quyền đó, nô lệ phải tuân theo
mệnh lệnh của chủ nô, 1 quan niệm vẫn còn bị hạn chế, chưa tìm
thấy được sức mạnh của tầng lớp nô lệ.
Đêmôcrit cũng xem trọng về vấn đề đạo đức, và ông đã có sự lồng
ghép đạo đức vào chính trị, chế độ dân chủ chủ nô gắn liền với nền
thương mại và sản xuất thủ công nhưng cũng gắn liền với tình thân
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
18

GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
ái với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do nhưng không
phải của tầng lớp nô lệ.
Khác với các nhà triết học phương Đông, ĐÊMÔCRIT đã sớm nhận
thức được rằng , quản lý nhà nước là mang lại hạnh phúc cho công
dân ( tầng lớp của ông), và ông đã có sự kết hợp giữa 2 yếu tố đạo
đức và pháp lý để trị quốc.
 Đêmôcrit là nhà triết học duy vật vĩ đại, ông đã có quan niệm trị quốc rất
chuẩn mực song nó vẫn còn bị hạn chế bởi vì ông vẫn chưa thoát ra được
sự phân chia giai cấp,không coi trọng tầng lớp nô lệ, cho rằng nô lệ thì
không có được quyền tự do đó.
a. PLATÔN : nhà triết học duy tâm khách quan
Platôn cho rằng : “ thể chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước
cộng hoà vì nó được xây dựng với ba đẳng cấp (tương ứng với ba
loại linh hồn, ba phẩm chất đạo đức) là đẳng cấp cai trị (có linh hồn
trí tuệ, phẩm chất thông thái và chủ yếu là các triết gia), đẳng cấp vệ
quân (bảo vệ bộ máy cai trị và an ninh xã hội, có phẩm chất dũng
cảm, trung thành), đẳng cấp nông dân và thợ thủ công (có nhiệm vụ
tạo ra vật chất nuôi sống xã hội, có phẩm chất cần cù, chịu khuất
phục và chế ngự dục vọng). Ông cho rằng giai cấp nô lệ không
thuộc một đẳng cấp nào hết vì họ không phải là con người, họ chỉ là
một động vật biết nói tiếng người, là một công cụ biết nói, họ không
có một quyền nào khác ngoài quyền được tự do làm nô lệ cho người
khác” (*).
Platôn đã đề cao vai trò của người lãnh đạo của 1giai cấp tài ba hơn
người, và đó chính là những nhà triết học quý tộc và ông
đã đưa ra quan điểm trị quốc còn chứa nhiều mâu thuẩn, cần phải xây
dựng 1 đất nước cộng hòa xóa bỏ chế độ dân chủ nhưng lại muốn
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66

19
( * ) trích từ trang web : />GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
bảo vệ lợi ích của giai cấp quý tộc mình và cho rằng nô lệ là tầng
lớp không có đạo đức và nằm ngoài vòng chính trị.
 Quan niệm trị quốc của Platôn tuy vẫn còn hạn chế nhưng cũng đã đưa ra
vấn đề về “ Một đất nước dân chủ cộng hòa”.
Tóm lại :
Tính phân chia giai cấp được thể hiện rõ trong quan niệm trị quốc của các
nhà triết học Phương Tây ( nhà triết học duy tâm lẫn duy vật), đều coi trọng tầng
lớp giai cấp thống trị của mình và chính điều này đã gây ra những cuộc chiến
tranh của tầng lớp nô lệ, tầng lớp bị áp bức, đây chính là hạn chế của những nhà
triết học phương Tây.
Sự đối lập rõ rệt giữa trào lưu duy vật ĐÊMÔCRIT và trào lưu duy tâm
PLATÔN, Đêmôcrit thì cho rằng “ chế độ dân chủ chủ nô” là tuyệt vời nhất, còn
Platôn thì nói rằng “ chế độ cộng hòa quý tộc ” là tốt nhất và ông đã phê phán
chế độ sở hữu tư nhân, ông đã nhận xét chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho
nhà nước không thực hiện được sứ mệnh cao cả của mình mà còn làm cho xã hội
ngày càng tiêu cực. Cả hai quan niệm đều bị hạn chế.
Quan điểm trị quốc của Đêmôcrit dù còn hạn chế song chính nó đã có tác
dụng tích cực trong đời sống xã hội cổ đại và ngày nay ( sự kết hợp giữa đạo đức
và pháp lý ), đã chỉ ra được sức mạnh của luật pháp trong việc bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền lợi của con người
Quan điểm của Platôn thì nêu ra được vấn đề đó là xóa bỏ chế độ sở hữu, tuy
nhiên lại mong muốn được bảo vệ lợi ích và địa vị của mình. Quan niệm của ông
mang tính chất mâu thuẩn chính điều này đã đặt ra vấn đề nghiên cứu cho những
nhà triết học sau này.
Ý nghĩa của quan niệm triết học phương Tây cổ đại :
- Là nền tản và cơ sở cho việc xây dựng các chế độ xã hội
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66

20
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
- Sự kết hợp giữa đạo đức và pháp lý của Đêmôcrit đã có ý nghĩa rất
sâu sắc trong việc trị quốc trong thời nay
CHƯƠNG IV : KẾT LUẬN
-Quan niệm trị quốc của triết học cổ đại phương Đông và phương Tây có
những điểm giống và khác nhau :
+) Giống : cả 2 đều coi trọng con người và cho con người là tâm
điểm, đều coi trọng đạo đức và chính trị.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
21
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
+) Khác :
Triết học cổ đại Phương Đông Triết học cổ đại phương Tây
1. Xu hướng hướng nội Xu hướng hướng ngoại
2 Xây dựng chế độ xã hội phong kiến Xây dựng chế độ “ dân chủ chủ
nô” ( Đêmôcrit), “chế độ cộng hòa
quý tộc” ( Platôn)
3 Chú trọng quan niệm nhân sinh – xã
hội – đạo đức, đề cao vai trò của
người lãnh đạo ( phải là người tài
đức),
Coi trọng tầng lớp quý tộc, chủ nô
xem nhẹ tầng lớp nô lệ
4 Quản lý nhà nước bằng quan niệm
không tưởng ( nho gia), “Vô vi”( Đạo
gia), bằng pháp lý ( Pháp gia)
Quản lý bằng pháp luật nhưng kết

hợp với đạo đức ( Đêmôcrit), xóa
bỏ chế độ dân chủ, xây dựng chế
độ cộng hòa ( Platôn)
- Quan điểm trị quốc của thời cổ đại tuy có nhiều hạn chế nhưng nó đã có ý
nghĩa rất lớn với đời sống hiện nay, là cơ sở là nền tản và đặt nền móng
cho những triết học lý luận về trị quốc của các nhà triết học trung đại và
hiện đại.
-Những thiếu sót mà các nhà triết học cổ đại đã mắc phải được xem như
là những bài học kinh nghiệm quý báu, và từ đó các nhà triết học hiện
đại đã dần xây dựng 1 cách hoàn thiện những quan niệm trị quốc trong
thời nay.
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
22
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
- Bên cạnh vấn đề về trị quốc các nhà triết học cổ đại phương Đông và
phương Tây đã đưa ra những khái niệm cũng như những quan niệm về
đạo làm người , mang tính giáo dục sâu sắc.
Tài liệu tham khảo
1. />Thuc/So_sanh_triet_hoc_Dong_va_Tay/
2. - Triết học Mác- Lênin (Đề cương bài giảng & hướng dẫn ôn tập), Nxb
thống kê, 2002
SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
23
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
3. - Triết học, phần I, đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao
học & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), trường đại
học kinh tế Tp. Hcm, 2010
4. . Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa

(chủ biên), 2010
5. Triết học và Bức tranh VẬt lý học về Thế giới- TS. Bùi VĂn Mưa - NXB
Đại học Quốc gia TPHCM 2008
6. />7. />8. />SVTH : LÂM THỊ QUẾ NGỌC – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 66
24

×