Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.16 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13 :
“QUAN NIỆM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI”
SVTH : Võ Ngọc Bảo
STT: 67
Nhóm: 5
Lớp: Cao học Đêm 1 – K20
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, 2011
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
1. Triết học Nho Gia 3
2. Triết học Đạo gia 4
3. Triết học Mặc gia 6
4. Triết học Pháp gia 7
1. Giới thiệu 9
2. Đêmôcrít 9
3. Platông 11
1. Tư tưởng trị quốc của các trường phái triết học cổ đại Trung Quốc 14
2. Tư tưởng trị quốc của các triết gia Hy Lạp cổ đại 20
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 1
LỜI MỞ ĐẦU
Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào đường lối, chiến
lược trị quốc của giai cấp lãnh đạo. Các quan điểm chính trị này thường bắt
nguồn hoặc dựa trên các tư tưởng triết học. Quan điểm của mỗi nhà triết học, mỗi
thời kỳ lại mỗi khác.
Vào thời kỳ cổ đại, các tư tưởng triết học, các triết gia như trăm hoa đua nở


cả phương Đông và phương Tây đã tạo nên những thành tựu to lớn trong lịch sử
tư tưởng loài người. Việc nghiên cứu các tư tưởng trị quốc ở thời đại này là cần
thiết để hiểu rõ hơn về các tư tưởng này cũng như tìm ra các giá trị thích hợp ứng
dụng cho thời đại ngày nay.
Đề tài này là một mảng bám sát vào nội dung chương trình học, việc nghiên
cứu sẽ mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận về việc trị quốc nói riêng và tư
tưởng triết học nói chung của những nhà triết học cổ đại của cả phương Tây lẫn
phương Đông. Đây còn là cơ sở làm nền tảng cho các nghiên cứu về các tư tưởng
tương tự nhưng ở các thời đại tiếp theo vì triết học có mang tính kế thừa, nhất là
các tư tưởng này lại là những thành tựu của thời đại. Từ kết quả này có thể rút ra
những tư tưởng giá trị còn phù hợp để vận dụng vào công cuộc xây dựng, đổi
mới đất nước.
Lần lượt chọn hai nền triết học tiêu biểu của phương Đông và phương Tây là
Trung Quốc và Hy Lạp để tìm hiểu. Ở mỗi nền triết học ta chọn ra các trường
phái, triết gia tiêu biều về quan điểm chính trị, cách trị quốc. Đối với Trung Quốc
tiến hành nghiên cứu theo trường phái gồm Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp
gia; Còn Hy Lạp chọn ra hai triết gia tiêu biểu là Đêmôcrit và Platông. Mỗi
trường phái và triết gia được giới thiệu cơ bản về nguồn gốc hình thành và phát
triển, khái quát lại các quan điểm và học thuyết. Sau đó đi sâu vào phân tích quan
điểm chính trị, cách trị quốc của từng trường phái, triết gia. Cuối cùng là tổng kết
so sánh và kết luận.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 2
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động do chiến tranh diễn ra liên miên, xã
hội loạn lạc kéo dài, đặc biệt là thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Thời Xuân Thu
khoảng ba thế kỷ mà có gần 500 cuộc chiến tranh.
Dù vậy, nhân dân Trung Hoa đã tạo nên một nền văn hóa rất rực rỡ với nhiều
hệ thống triết học nhằm đưa ra những phương cách giải quyết khác nhau cho
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại đặt ra.
Tư tưởng triết học có tính hệ thống được hình thành trong thời Xuân Thu –

Chiến Quốc. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập,
nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc
phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm tác phẩm
ra đời, cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong đó có 6 học
phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia.
1. Triết học Nho Gia
a. Giới thiệu sơ lược
Cơ sở của Nho gia được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán (hay Chu Công). Đến thế kỷ VI TCN, cuối thời Xuân
Thu, Khổng Tử (551-479 TCN) là người sáng lập Nho gia. Đến thời Chiến Quốc,
Nho gia bị chia thành tám phái trong đó mạnh nhất là hai phái của Mạnh Tử và
Tuân Tử, hai phái này hoàn thiện và phát triển Nho gia theo hai xu hướng khác
nhau là duy tâm và duy vật trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng
rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận. Sang thời
Tây Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) dựa trên lợi ích giai cấp phong kiến
thống trị, khai thác lý luận Âm dương – Ngũ hành để hoàn chỉnh thêm Nho gia.
Kinh điển của Nho gia là Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử)
và Ngũ Kinh (Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu).
b. Các quan điểm và học thuyết
* Học thuyết về Nhân – Lễ - Chính danh
Nhân: là yêu người, người có nhân là người biết yêu thương người khác,
điều gì mình không muốn thì đừng đem áp dụng cho kẻ khác.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 3
Lễ: Là trật tự kỷ cương của xã hội, xã hội nào có trật tự có kỷ cương thì có
lễ, là những quy phạm đạo đức, những quy tắc cư xử hàng ngày và những nghi
thức nhất định trong tế lễ (lễ nghi).
Chính danh: Trong cuộc sống mỗi người, mỗi một thời điểm có một cái danh
nhất định, khi mang danh nào thì phải thực hiện cho bằng được những điều mà
danh đó quy định.
* Thiên mệnh

Vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được mà
nền tảng là thiên mệnh. Sự hiểu biết được Thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để
trở thành con người hoàn thiện.
* Đức trị
Khổng Tử quan niệm: một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền
phải thực hiện được 3 việc lớn (3 điều kiện làm cho xã hội ổn định): Thực túc,
binh cường và dân tín.
Phải biết dưỡng dân và giáo dân. Người trị dân phải có đức và trị dân bằng
đức. Lấy đạo đức để răn dạy con người, ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân chứ không dùng đến cưỡng chế, trừng phạt.
2. Triết học Đạo gia
a. Giới thiệu sơ lược
Đạo gia được Lão Tử (thế kỷ VI TCN) sáng lập ra và sau đó được Trang Tử
(369-286 TCN) phát triển thêm vào thời Chiến Quốc.
Kinh điển của Đạo gia được tập trung lại trong bộ Đạo Đức kinh và bộ Nam
Hoa kinh. Đạo Đức kinh có khoảng 5000 từ do Lão Tử soạn gồm hai thiên nói về
Đạo và Đức. Nam Hoa kinh gồm các bài do Trang Tử và một số người theo Đạo
gia viết. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện
chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng
về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi.
b. Các quan điểm và học thuyết
* Đạo và Đức
Đạo vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín,
huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh
thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 4
còn là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Đạo vừa mang
tính khách quan vừa mang tính phổ biến.
Đức dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là hình thức nhờ đó vạn vật
được định hình và phân biệt được với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.

Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà được
sinh ra, nhờ đức mà thể hiện, và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo
sinh ra Một (khí thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba
(trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật.
* Quan điểm biện chứng
Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối
lập. Chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau và xung đột, đấu tranh, chuyển hóa lẫn
nhau tạo ra sự thay đổi, biến hoá không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Tuy nhiên,
theo Lão Tử, sự đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất
hiện cái mới, mà là theo vòng tuần hoàn khép kín.
Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo, xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn. Mâu
thuẫn là tai họa của xã hội. Vì vậy, để xoá bỏ tai họa cho xã hội, phải thủ tiêu mâu
thuẫn trong xã hội bằng cách đẩy mạnh một trong hai mặt đối lập để tạo ra sự
chuyển hóa theo quy luật phản phục, hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm
cho mặt đối lập kia tự mất đi theo quy luật quân bình.
* Thuyết vô vi
Vô vi là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, không
gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là từ bỏ tính
tham lam, vị kỷ, tư lợi để không làm mất đức.
* Quan điểm trị quốc
Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng,
nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo.
Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Bậc thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ
tự nhiên của đạo vô vi. Ông chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức,
pháp luật đối với con người để trả lại cho con người bản tính tự nhiên vốn có. Lão
Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất phác, cô lập cá nhân với
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 5
xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên). Ông chủ trương xây dựng nước
nhỏ, dân ít, có thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ
văn tự, từ tư lợi, không học hành

3. Triết học Mặc gia
a. Giới thiệu sơ lược
Mặc gia là một trường phái triết học do Mặc Tử (479-381 TCN) sáng lập,
phát triển qua hai giai đoạn: Mặc Tử và giai đoạn Hậu Mặc, phản ánh nguyện
vọng của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ.
b. Các quan điểm và học thuyết
* Bản thể luận và triết lý về đạo đức
Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, Mặc Tử không chỉ tin có Trời mà còn tin
có quỷ thần nhưng lại chống thuyết Thiên mệnh của Nho gia và đưa ra thuyết
Thiên ý – minh quỷ. Theo ông, ý trời luôn muốn mọi người cùng thương yêu
nhau, làm lợi cho nhau nhưng sự giàu - nghèo, thọ - yểu, hạnh phúc - bất hạnh
không phải do thiên mệnh mà là do nhân tạo. Nếu con người luôn nỗ lực làm việc,
biết thực hành tiết kiệm tiền của thì nhất định sẽ giàu có.
Ông đưa ra thuyết kiêm ái là là yêu hết thẩy mọi người như thể yêu mình và
loại bỏ sự chia rẽ, phân biệt, thù ghét; kiêm ái là làm lợi, trừ hại cho mọi người…
Nếu Nho gia đối lập nghĩa với lợi, thì Mặc gia coi nghĩa là danh, lợi là thực; chúng
hoàn toàn thống nhất với nhau. Việc làm không có lợi là việc làm bất nghĩa.
Ông phản đối đường lối lễ trị, và đòi hỏi thực hiện thượng đồng, thượng hiền,
tiết dụng, tiết táng, phi nhạc, thiên ý – minh quỷ, kiêm ái, phi công. Thượng đồng
có nghĩa là thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, tán đồng
từ dưới lên trên, trên dưới tình ý thông nhau. Thượng hiền có nghĩa là tiến cử và sử
dụng người tài giỏi trong việc công. Ai tài thì được làm quan. Quan dốt kém thì bị
phế bỏ, mà không kể thuộc giai cấp nào…
* Quan niệm về nhận thức luận
Ông bác bỏ thuyết thiên mệnh và đưa ra thuyết Tam biểu. Theo thuyết này,
muốn xác định một cái gì đó đúng hay sai, cần phải: một là, xem nó có cái gốc
(căn cứ lịch sử) như thế nào; hai là, xem nó có cái nguồn (ý kiến của trăm họ) ra
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 6
sao; và ba là, xem nó có cái dụng (có lợi cho nhà nước, cho trăm họ) hay không.
4. Triết học Pháp gia

a. Giới thiệu sơ lược
Quản Trọng (?-645 TCN) là người khởi xướng Pháp gia, chủ trương không
dùng nhân nghĩa mà dùng hình pháp để cai trị đất nước.
Sang thời Chiến Quốc, tư tưởng pháp trị được phát triển bởi: Thận Đáo (370-
290 TCN) chủ trương dùng thế, Thân Bất Hại (401-337 TCN) chủ trương dùng
thuật và Thương Ưởng chủ trương dùng pháp. Cuối thời Chiến Quốc, Hàn Phi
Tử (280-233 TCN) tổng hợp ba quan điểm và pháp, thế, thuật thành một học
thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi Tử.
b. Các quan điểm và học thuyết
Thừa nhận tính quy luật của những lực lượng khách quan gọi là lý. Lý chi
phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy
cái lý của vạn vật luôn luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội nên không có khuôn mẫu chung
cho mọi xã hội. Người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử,
dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị
nước sao cho thích hợp. Ông cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn
đúng với mọi thời đại.
Do bản tính con người là ác và do trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn
kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít,
mong chờ họ làm việc thiện (nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn
chận không cho họ làm điều ác (pháp trị).
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được
tổng hợp từ pháp, thế và thuật; trong đó, pháp là nội dung của chính sách cai trị,
thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp, thế, thuật đều
là công cụ trị nước của bậc đế vương.
Pháp được hiểu là qui định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong
xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm
của con người trong xã hội.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 7
Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa

vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn. Theo Hàn Phi Tử, thế
quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được
pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.
Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người
ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào.
Thuật gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Hàn Phi Tử đòi hỏi vua
phải dùng pháp như trời, dùng thuật như quỷ. Pháp được công bố rộng rãi trong
dân, còn thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của vua được giấu kín. Nhờ thuật mà vua
chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ quyền hạn, và loại được kẻ bất tài.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 8
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Hi Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn và sớm chuyển sang chiếm hữu nô lệ
có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú
đa dạng. Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4 thời kỳ: thời kỳ Cờrét – Myxen, thời
kỳ Hôme, thời kỳ thành bang và thời kỳ Maxêđôin. Chính Chế độ chiếm hữu nô
lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao
động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng
và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại, là
một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới và có những đặc
điểm sau:
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương
pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa
các trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu
thần. Trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít
và trào lưu duy tâm của Platông, giữa trường phái siêu hình của Pácmênít và
trường phái biện chứng của Hêraclít …
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng

hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong
nó. Các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực
tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
Bốn là, tuy chưa trình bày chúng thành một hệ thống lý luận chặt chẽ nhưng
triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người.
2. Đêmôcrít
a. Giới thiệu sơ lược
Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở thành Apđe, Đêmôcrít (460-
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 9
370 TCN) sớm tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trong khu vực, am hiểu nhiều lĩnh
vực khoa học và viết khoảng 70 tác phẩm. Là bộ óc bách khoa đầu tiên của Hi
Lạp, là đại biểu kiệt xuất nhất của chủ nghĩa duy vật và tầng lớp chủ nô dân chủ
thời cổ Hi Lạp, Đêmôcrít đã xây dựng trường phái nguyên tử luận, một hệ thống lý
luận chặt chẽ và có sức thuyết phục.
b. Các quan điểm và học thuyết
* Thuyết nguyên tử
Theo ông, vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân
không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy, không phân
chia được, không biến đổi, luôn vận động và tồn tại vĩnh viễn. Nguyên tử giống
nhau về chất nhưng khác nhau về hình dạng, về kích thước, về tư thế. Chân không
(không gian trống rỗng) không có kích thước và hình dáng, nhưng vô tận và duy
nhất; nó là điều kiện cần thiết cho sự vận động của nguyên tử. Trong chân không,
nguyên tử vận động theo nhiều hướng, nhiều kiểu. Các nguyên tử, khi cố kết tụ lại
thì sự vật được tạo thành, và khi chúng tách rời nhau ra thì sự vật biến mất.
Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả mang tính tất nhiên
tuyệt đối. Trong thế giới, mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều theo lẽ tất nhiên; vì
vậy, bản tính thế giới là tất nhiên. Sự thiếu hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức
của con người mới sinh ra cái ngẫu nhiên; ngẫu nhiên mang tính chủ quan.

* Quan niệm về nhận thức
Đêmôcrít cho rằng, mọi nhận thức của con người đều có nội dung chân thực,
nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia nhận thức chân thực
của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết với nhau là nhận thức mờ tối do
giác quan mang lại, tức nhận thức cảm tính, và nhận thức sáng suốt do suy đoán
đem đến, tức nhận thức lý tính. Nhận thức mờ tối chỉ cho ta biết được dáng vẻ bề
ngoài của sự vật. Muốn khám phá ra bản chất của sự vật cần phải tiến hành nhận
thức lý tính.
* Quan niệm về đạo đức - xã hội
Đêmôcrít cho rằng đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn
hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 10
Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức.
Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng
lạc vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmôcrít coi hạnh
phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu… đều phải dựa trên nghề nghiệp, nhưng ông luôn
phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối sự trục lợi bất lương, bởi vì chúng là cội
nguồn dẫn tới sự bất hạnh cho con người. Ông luôn đề cao những hành động vị
nghĩa cao thượng của con người, bởi vì chỉ có những hành vi đầy nghĩa khí mới
làm cho con người trở thành vĩ đại.
Theo Đêmôcrít, con người lúc đầu sống theo bầy đàn nhưng do nhu cầu giao
tiếp mà có tiếng nói; do nhu cầu ăn ở mà có nhà cửa, quần áo, biết chăn nuôi, săn
bắn, trồng trọt ; nghĩa là, nhu cầu vật chất để tồn tại và phát triển của con người là
động lực phát triển xã hội.
Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan
niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ
nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương mại và sản xuất
thủ công, nhưng nó cũng phải gắn liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích
chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo
mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ

chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và
pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người
hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ.
3. Platông
a. Giới thiệu sơ lược
Platông (427-347 TCN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô quý tộc ở thành
phố Aten. Ông là nhà triết học duy tâm khách quan kiệt xuất nhất thời cổ Hi Lạp
và cũng là đại biểu trung thành của tầng lớp chủ nô quý tộc. Platông chịu ảnh
hưởng bởi tư tưởng của Pácmênít, Pytago, đặc biệt là của Xôcrát. Platông là người
xây dựng Viện hàn lâm Aten và viết nhiều tác phẩm như Biện hộ cho Xôcrát, Đối
thoại, Bữa tiệc, Chế độ cộng hòa, Luật pháp Platông đã xây dựng chủ nghĩa duy
tâm khách quan với nội dung chính là thuyết ý niệm với giá trị bên trong là phép
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 11
biện chứng của khái niệm, và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức - chính trị -
xã hội.
b. Các quan điểm và học thuyết
* Thuyết ý niệm
Platông chia thế giới ra thành thế giới ý niệm (lý tính) tồn tại trên trời mang
tính phổ biến, chân thực, tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất và thế giới sự
vật (cảm tính) tồn tại dưới đất mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả biến,
thoáng qua, đa tạp Ý niệm là cái sản sinh, có trước, là nguyên nhân, là bản chất,
là khuôn mẫu của sự vật. Còn sự vật là cái được sản sinh, có sau, là cái bóng được
mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm. Bất cứ sự vật nào cũng xuất hiện từ ý niệm và
có quan hệ ràng buộc với ý niệm…
Theo ông, sự sinh thành thế giới sự vật xảy ra gắn liền với 4 yếu tố cơ bản là:
tồn tại (ý niệm), không tồn tại (vật chất), con số (quan hệ tỷ lệ), sự vật cảm tính.
Chính sự tồn tại của ý niệm thông qua quan hệ tỷ lệ của các con số tác động vào sự
không tồn tại của vật chất sinh ra sự vật cảm tính. Thần tạo hóa đã kiến tạo ra thế
giới sự vật hữu hình cảm tính bằng cách mô phỏng theo thế giới ý niệm. Thần linh
là linh hồn vũ trụ; thần linh xuất hiện dưới dạng các tinh tú và chỉ được nhận thức

bằng chính linh hồn vũ trụ trong con người (lý trí). Thần linh mang lại sự sống cho
tất cả sinh vật và cả bản thân thần linh. Đối với Platông, thần linh là thước đo của
vạn vật. Con người là sự kết hợp của thể xác khả tử với linh hồn bất tử. Thể xác
được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí nên nó chỉ tồn tại thoáng qua và là nơi
trú ngụ tạm thời của linh hồn.
Linh hồn của con người , theo Platông, là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được
Thượng đế tạo ra từ lâu; chúng ngự trị trên các vì sao trời, sau đó, dùng cánh bay
xuống nhập vào thể xác của con người; khi nhập vào thể xác, nó quên hết quá khứ.
Linh hồn của con người bao gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí. Trong 3 bộ
phận của linh hồn chỉ có lý trí là bất tử. Hoạt động cơ bản của linh hồn là nhận
thức.
Nhận thức là sự hồi tưởng của lý trí về những gì nó đã từng chiêm ngưỡng
được trong thế giới ý niệm nhưng lãng quên. Nhận thức chân lý thực chất là khám
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 12
phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn con người và hoạt động cảm tính chỉ mang
lại kiến giải sai lầm về thế giới sự vật. Trong triết học của Platông, nhận thức chân
lý (ý niệm) là cơ sở để con người có được hành vi đạo đức; và hành vi đạo đức của
con người là chỗ dựa cho các hoạt động chính trị – xã hội.
* Quan niệm về đạo đức, về chính trị - xã hội
Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho rằng, sống hạnh phúc là sống có
đạo đức tức là làm điều thiện. Hành vi hướng thiện là hành vi không dựa trên
khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là hướng đến những ý tưởng tuyệt đối khách quan
thuộc về thế giới ý niệm ở trên trời. Con người chỉ nhận thức được những ý tưởng
này bằng lý trí. Theo Platông, con người muốn sống hạnh phúc phải dùng lý trí để
chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn,
giúp linh hồn thoát khỏi gông cùm của nhà tù thể xác. Như vậy, theo Platông, con
người không thể tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình ở xung quanh mình. Hạnh
phúc của con người nằm trong thế giới ý niệm ở trên trời.
Theo Platông trong xã hội có 3 loại người: triết gia; chiến binh và nông dân,
thợ thủ công, thương gia , còn nô lệ không là con người mà là động vật biết nói.

Nhà nước được hình thành nhằm đảm bảo cho sự phân công được thực hiện.
Tuy nhiên, chế độ sở hữu tư nhân lại làm cho nhà nước tha hóa, gây ra sự băng
hoại đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hoà của xã hội. Vì vậy, cần phải xóa bỏ sở
hữu tư nhân; phải xây dựng chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con
cái chung, … trên cơ sở thực hiện một quy trình giáo dục đào tạo tuyển lựa đặc
biệt có chú trọng đến thành phần tinh túy trong xã hội. Theo Platông, chế độ xã hội
tốt nhất phải là chế độ cộng hòa quý tộc do một vị vua là triết gia tài ba nhất lãnh
đạo.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 13
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc của các trường phái triết học cổ đại Trung Quốc
Do tính chất lịch sử của thời đại mà triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với
chính trị xã hội, trị quốc an dân. Chiến tranh liên miên kéo dài, thời thế hỗn loạn
nên đơn đặt hàng của thời đại là các học thuyết giúp ổn định, xây dựng, trị vì đất
nước. Các trường phái triết học, các triết gia hình thành và phát triển như nấm
mọc sau mưa. Có nhiều tư tưởng đã trở thành giá trị bất hủ và ảnh hưởng sâu
rộng cho đến thời đại ngày nay.
a. Nho gia
Nói đến quan điểm trị quốc của Nho gia là nói đến đức trị. Đây là đường lối
trị quốc được dùng phổ biến trong các triều đại phong kiến Á Đông. Hơn thế nữa,
đối với các xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng "đức trị"
không phải hề là vấn đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc về
lịch sử. Trên thực tế sự hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau, vẫn
luôn luôn mang tính thời sự mới mẻ.
Khổng Tử quan niệm: "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá
dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên
hạ về theo)". Trước sau ông vẫn nói rằng: "Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng
hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ
thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân
biết hổ thẹn mà lại theo đường chính". Trong đó chú trọng đến đức nhân và lễ.

Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi
phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội, và được hiểu rất rộng. Đức
nhân trong chính trị thể hiện thành thái độ đối với dân của người cầm quyền, là
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá sự lãnh đạo: "Tài trí đủ để trị dân mà không
biết dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân "
Sau nhân là lễ. Khổng tử quan tâm nhiều đến lễ, bởi lễ cần thiết để duy trì
trật tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Tuy
vậy lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với nhân, là biểu hiện của nhân. Nếu tách rời
nhân thì lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì?". Nhà
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 14
cầm quyền không có đức nhân thì lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã
và tàn khốc. Thực hành đúng lễ vừa là biểu hiện của nhân, đồng thời cũng thể
hiện con người phải làm đúng bổn phận, thân phận của mình, tức là phải chính
danh.
Trong công việc chính trị, chính danh phải đặt lên trước nhất, bởi "Nếu danh
không chính thì lời nói không thuận lý, lời nói không thuận thì sự việc không
thành; sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế
độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân
không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải)”.
Quan điểm “đức trị” còn thể hiện ở việc dưỡng dân và giáo dân. Dân vi bang
bản, phải lấy dân làm gốc, gốc vững thì nước mới yên. Quốc gia muốn thịnh
vượng thì cần phải có “thực túc”, “binh cường” và “dân tín”.
Nhà cầm quyền phải biết khéo nuôi dân, làm cho dân giàu thì dân quý, nước
thịnh. Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc
giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết "sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân
làm việc phải hợp thời cụ thể là vào lúc dân rãnh việc nhà nông. Ông chủ trương
giảm sưu thuế, coi nhẹ hình phạt
Còn giáo dân là dạy dỗ dân, dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, giáo hóa
tốt thì nước sẽ yên. "Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn
ngược". Dạy dân bằng lễ và nhạc, lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người

trên, nhạc là để hòa nhập trên dưới. Nhà cầm quyền phải làm gương để dân noi
theo. Ông quan niệm “Hữu giáo vô loài”: giáo dục không phân biệt, nghèo không
thu học phí, hạng thông minh đào tạo thành kẻ sỹ, có tư cách cao hơn đào tạo
thành người quân tử là những người trị dân có đủ tài, đủ đức.
Người quân tử là mẫu người với những tiêu chuẩn về tài đức xứng đáng
được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà
làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc". Người quân tử còn phải
"thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm", thờ vua phải trung nhưng là trung
một cách sáng suốt "không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà
phải dám can gián)".
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 15
Có thể khẳng định đường lối đức trị của Khổng Tử "lấy đạo nhân làm gốc,
lấy hiếu - đễ, lễ - nhạc làm cơ bản cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách
"thân dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền làm
gương để thực hiện "Đức trị", "Lễ trị", "Nhân trị" nhằm tạo lập một xã hội phong
kiến theo điển chế có trật tự, tôn ti.
Thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đã thừa kế, bảo vệ và phát triển tư tưởng của
Khổng Tử, nâng học thuyế nho gia lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo
Khổng Mạnh.
Mạnh Tử nhận thức sâu sắc rằng dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước,
có nước mới có vua, ý dân là ý trời, "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân
muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm
quyền đừng thi thố cho họ".
Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra
cho dân số một sản nghiệp no đủ. Mạnh Tử đòi hỏi bậc minh quân phải "chế định
điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ,
dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi mãi no đủ, phải năm thắt
ngặt thì khỏi nạn chết đói".
Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa

làm gốc, coi trọng vai trò của dân thể hiện những quan điểm nhân bản khá sâu
sắc. Đường lối đó nặng đức nhẹ hình, khuyến khích người đời từ thường dân đến
bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử. Học thuyết “Đức
trị” của Khổng, Mạnh chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo tiên
Tần và ngày nay vẫn rất cần được tiếp tục nghiên cứu và chắc chắn sẽ còn tìm
được trong đó nhiều bài học bổ ích.
b. Đạo gia
Trong đạo trị quốc, hoàn toàn đối lập với Khổng Tử, Lão Tử cho rằng bậc
Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi. Nếu đời cần ta
phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là
giải pháp an bang tế thế. Ông viết: Chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 16
chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa.
Vua nên ít can thiệp vào việc của dân, để dân thuận theo tự nhiên mà sống
dân sẽ vui vẻ, yên ổn phát triển theo bản năng của họ. Nhà cầm quyền càng “hữu
vi”, tức can thiệp vào việc của dân bao nhiêu thì càng tai hại bấy nhiêu. Ví dụ
dân bị đói là do nhà cầm quyền thu thuế quá nặng; dân khổ do nhà cầm quyền
sống xa hoa.
Người cầm quyền còn phải biết phục vụ dân, hy sinh cho dân. Cần thực hiện
khiêm nhu tránh chiến tranh. Lão Tử khuyên vua chúa nước lớn cũng như nước
nhỏ phải khiêm nhu để tránh chiến tranh.
Nếu Khổng Tử chủ trương xây dựng xã hội đại đồng, thì Lão Tử chủ trương
xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại
cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở
về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan
con người vào đạo (tự nhiên). Ông chủ trương xây dựng nước nhỏ, dân ít, có
thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ tư lợi,
không học hành Người cho rằng, với nước nhỏ dân thưa, thì ít có tranh chấp và
dễ trị. Nhà nước chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành.
Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất mãn thế cuộc

nhiễu nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có được một lẽ sống
riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được lối phản kháng
bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho xã hội mà
mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren. Đó là giá trị về xã hội. Tuy nhiên
Ccách sống dửng dưng, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là một phản
ứng tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ.
c. Mặc gia:
Quan điểm của Mặc Tử không chỉ khác với Đạo gia mà còn đối lập với Nho
gia cả về nội dung bản thể luận triết học và triết lý về đạo đức – chính trị – xã hội
lẫn nhận thức luận
Vẫn tin có trời nhưng Mặc Tử chống lại thuyết Thiên mệnh và đưa ra thuyết
Thiên ý – minh quỷ, trời muốn sự tốt đẹp yêu thương cho con người nhưng vận
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 17
mệnh là do con người quyết định. Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan
của Mặc Tử là hành xử theo minh ý của trời, tức phải biết thương dân chứ không
phải tin vào mệnh trời một cách mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để
chỉ lo tư lợi mà phải tận tình chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được
sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược
trị quốc tốt nhất cho dân tộc là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến
khích tinh thần bác ái trong quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù
trong xã hội – thuyết kiêm ái, tức là không chỉ là yêu hết thẩy mọi người (không
phân biệt người thân – sơ, trên – dưới, làng mình - làng người, nước mình - nước
ngoài) như thể yêu mình mà còn là loại bỏ sự chia rẽ, phân biệt, thù ghét. Thuyết
"kiêm ái" nhìn chung chẳng khác biệt so với chữ "nhân" trong Nho giáo nhưng
lại ko phân biệt thân sơ nên đã bị Nho gia, Pháp gia công kích mạnh mẽ là không
nhận có cha, không nhận có vua, vì vậy, con người chẳng khác gì cầm thú.
Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết trọng dụng nhân tài bất kể
gia thế xuất thân, đưa ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân
chia giai cấp đương thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của
thành phần quý tộc qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các

chức vụ quan trọng. Nhà cầm quyền còn cần thực hiện chính sách tiết kiệm, biết
giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang nhưng không đem lại
ích lợi gì cho nhân dân hay quốc gia. Ông cũng kêu gọi không tấn công lẫn nhau,
tông trọng sự bình đẳng và đề cao chữ hòa.
Tóm lại, những giá trị của học thuyết đã nêu đã nâng Mặc Tử lên hàng triết
gia lớn vào thời Chiến Quốc, và triết học của ông đã ảnh hưởng tích cực đến sinh
hoạt của xã hội Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên, thái độ của ông đối với tín ngưỡng,
tôn giáo lại mang tính chất thỏa hiệp. Nó thể hiện bản tính nhu nhược của tầng lớp
tiểu tư hữu đang bị phá sản dưới chế độ chiếm hữu nô lệ đang suy tàn trong xã hội
Trung Hoa cổ đại. Vì vậy, từ thời Tần – Hán trở đi, không chỉ tư tưởng của riêng
Mặc Tử mà của cả trường phái Mặc gia không thể lấn át được các tư tưởng của các
trường phái khác trên diễn đàn tư tưởng của xã hội phong kiến ổn định và phát
triển.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 18
d. Pháp gia
Nói đến Pháp gia là nói đến chủ trương Pháp trị để trị quốc.
Nếu như Thận Đáo đề cao "Thế", Thân Bất Hại đề cao "Thuật", Thương
Ưởng đề cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi
trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống
nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
"Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Hàn
Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt
đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo pháp". Thưởng và phạt là hai đòn bẩy trong
tay vua để giữ vững chính quyền Bởi vì "thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho
dân làm, dân mới mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm
đoán, dân mới mau mắn mà tránh, thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công,
mà còn để khuyến khích dân chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt
một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy trong nước". Điều đáng chú ý nữa là Hàn Phi
Tử còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Với nội dung

và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh
phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về
một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Thế trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết
là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền
nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai
trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì
hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền
mà vì địa vị thấp". Nhưng “Thế” còn là của dân, của đất nước, vận nước (xu thế
lịch sử).Và để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất
nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư
tưởng.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 19
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu
của thuật cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và
những quan lại xu nịnh, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai
lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp
và chế độ chuyên chế. Thuật phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu,
danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm
ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người
trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có
ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng
việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo
lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì
thưởng. Công không xứng việc thì phạt".
Ngoài ta, tư tưởng Pháp gia còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội
hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú
trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của

xã hội no đủ.
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất
đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu
nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của
lịch sử.
2. Tư tưởng trị quốc của các triết gia Hy Lạp cổ đại
a. Đêmôcrít
Đêmôcrit là người phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Ông cho rằng những thần
thánh của tôn giáo Hi Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự nhiên
hay thuộc tính của con người. Ông có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức.
Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói mà ở việc làm. Mục tiêu của
con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không
phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn được tự do.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 20
Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ chống
lại bọn chủ nô quý tộc, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô mà quyền lợi gắn liền với
sự phát triển thương mại và nghề thủ công, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hòa, ca
ngợi quyền lợi chung của công dân tự do.
Do xuất thân từ tầng lớp chủ nô, ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô, của
công dân tự do, còn bản thân nô lệ thì ông khuyên cần biết tuân theo người chủ,
ông coi chế độ nô lệ là hợp lý.
Nhà nước cộng hòa dân cử là nền tảng của dân chủ chủ nô, nhà nước có vai
trò duy trì trật tự, điều hành mọi hoạt động xã hội, trừng phạt nghiêm khắc những
kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức. Hoạt động chính trị, quản lý
nhà nước là nghệ thuật cao nhất là vinh dự và đem lại vinh quang cho con người,
làm cho con người sống hạnh phúc, được tự do. Nhưng tự do này chỉ dành cho
chủ nô chứ không phải tất cả thành viên của xã hội.
b. Platông

Ông phê phán ba hình thức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử và coi đó là
những hình thức xấu. Đó là nhà nước của bọn vua chúa được xây dựng trên khát
vọng giàu có và danh vọng dẫn tới sự cướp đoạt. Nhà nước quân phiệt là nhà
nước của số ít kẻ giàu có áp bức số đông, nhà nước đối lập giữa giàu và nghèo
đưa tới cái ác. Nhà nước dân chủ, quyền lực thuộc về số đông, sự đối lập giàu
nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt cho nên đó là nhà nước tồi tệ. Khi phê
phán các nhà nước trên, Platông đưa ra nhà nước lý tưởng của mình.
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platông chia linh hồn
làm ba bộ phận: lý tính, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba
hạng người trong xã hội. Tầng lớp các nhà thông thái, các nhà triết học làm chính
trị, điều hành xã hội. Tầng lớp những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn
đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ
an ninh của nhà nước. Tầng lớp thấp nhất trong xã hội là nông dân, thợ thủ công
và thương nhân làm các việc đồng ruộng, thủ công và buôn bán. Làm đúng theo
nhiệm vụ ấy là bảo vệ và xây dựng đời sống hạnh phúc, công lý là ở chỗ mọi
người phải sống đúng vị trí của mình.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 21
Để duy trì trật tự xã hội, Platông cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần
thiết. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được
duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại
và phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất,
của sự phân công hài hòa các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu
cầu xã hội.
Quốc gia lí tưởng của Platông là một quốc gia mà tất cả mọi cái đều được
gom vào thành của chung, tất cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân, không được sở hữu bất cứ tài sản
nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không được có sự
quá chênh lệch giữa mọi người. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh. Những của cải của người dân làm ra phải được phân chia một cách

đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá nghèo. Để khắc phục sự phân chia giàu
nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan
giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở
thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh
này. Ông chủ trương một nhà nước lý tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platông chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy
trì sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng
hoà, mặt khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại
nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự
biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý
tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Ai Cập vào Aten mà thôi.
3. Tổng kết
Như vậy trong bốn trường phái trị quốc của Trung Quốc cổ đại ta thấy nổi
bật là Nho gia và Pháp gia đối lập nhau về tư tưởng chính trị, một bên dùng đức
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 22
để trị, một bên dùng pháp để trị. Đây là hai phương thức cơ bản trong trị quốc.
Còn Đạo gia lại chủ trương vô vi sống về với tự nhiên kêu gọi không chiến tranh
nên không hợp thời không được dùng trong thời đại. Mặc gia có những tư tưởng
tốt nhưng mang nặng tư tưởng tiểu nông và thuyết kiêm ái bị các trường phái
khác công kích nên dần mai một.
Các quan điểm, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại thường dùng châm
ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ có tính hình tượng, ẩn dụ để diễn đạt tư tưởng. Đó là
cách điễn đạt “đạt ý quên lời”, “ý ở ngoài lời”, mở ra sự suy ngẫm nên sức gợi ý
càng thấm sâu hơn. Châm ngôn, dụ ngôn, ẩn ngữ thì không thể khúc chiết, mạch
lạc nhưng bù lại là sức mạnh và tính chất sâu xa của tư tưởng triết học đó là sự
gợi ý thâm trầm, sâu rộng dường như vô biên của chúng.
Ở hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại trên, ta thấy Đêmôcrít bảo vệ chế độ dân

chủ chủ nô xây dựng nhà nước cộng hòa dân cử. Platông cũng chủ trương nhà
nước cộng hòa mang tính của chung nhưng lại duy trì bất bình đẳng giai cấp, giai
cấp lãnh đạo là chủ nô quý tộc.
Do đặc điểm thời đại loạn lạc, cần thiết phải có các tư tưởng chính trị trị
quốc, các quan điểm đạo đức, nghệ thuật để xây dựng xã hội nên triết học
phương Đông ít khi tồn tại ở dạng triết học thuần túy mà thường được trình bày
xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau những vấn đề chính trị xã hội, đạo đức, nghệ thuật,
… Trái lại lúc này ở phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là một khoa học độc
lập và các quan điểm chính trị, trị quốc là một lĩnh vực riêng trên nền tảng triết
học.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 23
KẾT LUẬN
Mỗi phương pháp trị quốc của mỗi trường phái triết học trên đều có những
ưu nhược điểm riêng. Do tính chất lịch sử, các tư tưởng có thể đúng và đáp ứng
nhu cầu thời đại lúc đó nhưng sẽ lỗi thời không dùng được ở thời đại ngày nay.
Tuy nhiên đó là các thành tựu của thời đại và nhiều giá trị vẫn còn tồn tại đến
bây giờ, vẫn đáng cho ta suy gẫm, thậm chí phát hiện thêm cái mới, hiểu thêm
sâu sắc về các tư tưởng này. Đặc biệt là các tư tưởng trị quốc của phương Đông,
vì quan điểm chính trị lại gắn liền với triết học nên vẫn còn nhiều vấn đề giá trị
cần phải tiếp tục nghiên cứu, suy gẫm.
Đặc biệt quan điểm Nho giáo đã ảnh hưởng sâu rộng đến các nước phương
Đông và vẫn còn nhiều giá trị trong xã hội ngày nay, dùng đức để trị dân là một
phương pháp thu phục lòng người, làm cho dân tin và ổn định. Nhưng cũng cần
kết hợp pháp trị, dùng pháp luật nghiêm khắc đúng nơi đúng lúc sẽ làm cho
người dân thấy mà chấp hành.
Tư tưởng xã hội của chung của Platông và khuynh hướng dân chủ của
Đêmôcrít về cơ bản vẫn hợp cho xã hội ta ngày nay nhưng cần nghiên cứu để tìm
ra những cái hay phù hợp và ứng dụng.
Do đó, tuy các quan điểm trị quốc này ở thời cổ đại nhưng vẫn có ý nghĩa đối
với thời nay. Đó là cơ sở và nền tảng cho các nhà triết học các thời kỳ tiếp theo

kế thừa để xây dựng học thuyết của mình, vẫn là cơ sở để nhà nước hiện đại xây
dựng quan điểm trị quốc trong thời nay. Ngoài ra, việc vận dụng thực tiễn của
các tư tưởng này trước đây là bài học kinh nghiệm quý báu cho việc xây dựng và
phát triển đất nước trong bối cảnh hôm nay.
Bên cạnh ý nghĩa trị quốc, các tư tưởng này còn có tác dụng trong việc tự
đào tạo hoàn thiện bản thân. Các chuẩn mực đạo đức và con người trong các tư
tưởng triết học vẫn mang những giá trị tươi mới trong việc vận dụng vào thực
tiễn nhất là trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội và rẻn luyện nhân cách
đạo đức con người hôm nay.
SVTH: Võ Ngọc Bảo (Cao học Đêm 1-K20) – GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 24

×