Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.92 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13:
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC
CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI
CỔ ĐẠI
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
SVTH: Trần Hoàng Nguyên
Lớp: Cao học Đêm 1 – K20
Tp. Hồ Chí Minh - 2011
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 11
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông


qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 2
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu –
Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền
đến đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội do Khổng Tử sáng
lập. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người
quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân
xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành
những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là
bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Chính danh ở đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho
được những điều mà danh đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn

phận của mình. Nếu tất cả mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình,
trật tự, không loạn lạc. Quan điểm này đã được những người sáng lập tóm gọn
trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 3
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được Trang Tử phát triển thêm
vào thời Chiến quốc (403-221 TCN. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường
phái Đạo gia được thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể
hiện quan niệm biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô
vi nhằm giải quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập.
Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh giá
tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu không
có lợi cho nhân dân thì không làm. Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn
quan của Mặc Tử là hành sử theo minh ý của trời, phải biết thương dân chứ
không phải tin vào bói toán một cách mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích
kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt
được sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân.
Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc là sách lược bác ái bao gồm các chính

sách khuyến khích tinh thần bác ái trong quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự
căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 4
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Học thuyết pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử .
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương

tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 5
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống

nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 6
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống
rỗng là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng
gì các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 7

Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
rỗng, cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự
trống rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh

SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 8
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng”. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được
sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.

SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 9
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 10
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc trong triết học Trung Quốc cổ đại:
Có tính kế thừa, phát triển, phủ định, bổ sung cho nhau trong tư tưởng trị quốc
của các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại. Trong thời Xuân Thu – Chiến
Quốc có ít nhất 6 trường phái triết học cùng nhau tranh giành ảnh hưởng, thì có
đến 4 trường phái đưa ra quan điểm trị nước. Học thuyết Nho gia dựa trên quan
điểm “nhân trị”, học thuyết Đạo gia dựa trên quan điểm “Vô vi”… Nhưng Pháp
gia dựa trên quan điểm dùng luật pháp để trị nước. Tư tưởng trị nước của Pháp
gia tỏ ra phù hợp với tình hình chính trị lúc bấy giờ, thực tế nước nào sử dụng tư
tưởng của Pháp gia trong việc trị nước đều mang lại thành công trở nên hùng
mạnh. Chẳng hạn nước Tề, Tần, chứng tỏ tư tưởng của Pháp gia phù hợp với thời
đại đó. Để lý giải điều này chúng ta cần đi sâu vào xã hội Trung Quốc lúc bấy
giờ. Xã hội vừa thoát khỏi chế độ công xã thị tộc, bộ lạc dân chúng vẫn chưa có
gì để điều chỉnh quan hệ của mình khi mà trật tự cũ đã mất trật tự mới chưa hình
thành tất sinh loạn. Vấn đề đặt ra phải tìm trật tự mới để thay thế cho trật tự cũ đã
tan dã. Các triết gia cổ đại Trung Quốc tập trung giải quyết vấn đề này nhưng
quan điểm của họ hoặc là muốn đưa xã hội trở lại thời thái bình của Nghiêu,
Thuấn hoặc muốn dùng phép trị nước của thời đó áp dụng cho thời họ sống, mà
không hiểu xã hội đã thay đổi thì phép trị nước cũng cần thay đổi. Pháp gia nắm

được mấu chốt của vấn đề nên học thuyết của họ tỏ ra hiệu quả trong thời loạn.
Tư tưởng sử dụng luật pháp để trị nước ở Trung Quốc đã xuất hiện từ rất sớm.
Cùng thời với Pháp gia, các trường phái khác cũng có bàn đến luật pháp để trị
nước. Thời nhà Chu người ta đã áp dụng “lễ” và “hình” để trị dân theo đó “lễ
không xuống đến thứ dân, hình không lên đến đại phu”. Xã hội phân hóa giai
cấp, nhà nước xuất hiện thì cùng với đó là bộ máy nhà nước, quân đội và pháp
luật. Nhưng ban đầu của luật đó là luật bất thành văn theo kiểu lệ nhằm điều
chỉnh quan hệ giữa người với người. Có một đặc điểm về luật thời này đó là
người ta không bao giờ phổ biến nó xuống dân chúng mà coi đó là đặc quyền của
quý tộc. Do vậy, việc ghi chép luật cũng trở nên tầm thường hóa luật, và nó chỉ
được lưu giữ trong giới quý tộc. Nhưng cho dù nó không được phổ biến thì người
ta cũng đã sử dụng luật để điều chỉnh quan hệ con người.
Cùng thời với Pháp gia các trường phái khác do bị ảnh hưởng bởi quan điểm của
mình nên họ có bàn đến luật trong phép trị nước nhưng không đề cao luật mà đề
cao tư tưởng chính yếu của phái mình như “nhân trị” của phái Nho gia chẳng
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 11
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hạn, tất nhiên phái này có bàn đến luật nhưng chưa nhận ra vai trò của nó trong
việc điều chỉnh trật tự xã hội.
Triết học cổ đại Trung Quốc xuât hiện trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc nên nó
luôn đòi hỏi phải đưa ra những cách để bình thiên hạ. Mỗi trường phái có những
thế mạnh khác nhau, thường kế thừa nhau trong những quan điểm thế giới quan
và quan điểm chính trị. Nhưng bên cạnh đó chúng vẫn giữ được những nét riêng
của mình làm nên đặc trưng của mỗi trường phái.
a) So sánh, đối chiếu tư tưởng trị quốc giữa Pháp gia và Nho gia:
Quan điểm triết học của Nho gia dùng nhân để giáo huấn thiên hạ, thực tế đây là
quan điểm nhân văn của phái này. Tuy nhiên, Pháp gia bác bỏ hoàn toàn quan
điểm nhân trị của Nho gia. Quan điểm nhân trị của Khổng Tử hoàn toàn không
phù hợp với một xã hội rối ren cần sử dụng những biện pháp mạnh để đưa vào
khuôn khổ hơn là dùng đức để giáo huấn nó. Pháp gia đối lập hẳn với Nho gia ở

điểm này, quan điểm pháp trị đã thoát khỏi cái tư tưởng thị tộc dựa trên dư luận
cộng đồng lấy mối quan hệ ràng buộc về đạo đức mà ứng xử với nhau. Khi xã
hội chưa phân chia giai cấp mâu thuẫn trong xã hội không gay gắt nó có thể khả
dụng nhưng khi mâu thuẫn xã hội gay gắt thì nó cần phải có công cụ mạnh hơn.
Pháp trị dựa trên luật pháp và người cầm trịch công minh để điều chỉnh xã hội.
Xuất phát từ quan điểm xã hội luôn luôn phát triển, do vậy đường lối trị nước
(thể chế, pháp luật) cũng cần phải thay đổi theo cho phù hợp. Chính vì vậy mà
pháp trị tỏ ra ưu thế hơn nhân trị đương thời. Các nhà Nho luôn muốn thần thánh
hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói
cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng
đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng, Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,
Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
nguồn từ chính thực tiễn của đất nước.
Trong Thuật của Pháp trị Hàn Phi đã kế thừa lý luận chính danh của Nho gia
nhưng phát triển lên một bước mới. Khổng Tử cho rằng chính danh nghĩa là mọi
người cần phải làm tốt bổn phận của mình. Hàn Phi chủ trương chính danh là
phương thuật của vua để trị nước mọi người làm vì vua. Thuật chính danh ở Pháp
trị là lấy danh để trách thực. Khi danh và thực hợp nhau là chính danh, đã có
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 12
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
danh và thực thì cứ thế mà thưởng phạt nghiêm minh ắt người dân sẽ làm tốt bổn
phận của mình khi đó vua không phải làm gì mà như không gì không làm.
b) So sánh, đối chiếu tư tưởng trị quốc giữa Pháp gia và Đạo gia:
Hai thiên Giải Lão và Dụ Lão trong tác phẩm Hàn Phi Tử, đã chứng tỏ Hàn Phi
rất am hiểu Đạo gia. Nhìn chung, cả Đạo gia và Pháp gia đều yêu cầu mọi việc
phải luôn biến đổi. Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức con người
cũng như của chế độ, còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu

trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự. Nó đòi hỏi
người đứng đầu bộ máy quyền lực phải luôn theo sát tình hình thực tế: “Bậc
thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất
biến, khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những
biện pháp”.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi thế giới quan của Đạo gia nhưng các nhà tư tưởng Pháp
gia kịch liệt phản đối phương pháp trị nước bằng “nhân trị”, “kiêm ái” hay “ vô
vi”. Pháp gia căn cứ vào sự phát triển của xã hội loài người cho rằng thời thế
thay đổi thì cách trị nước cũng phải thay đổi theo. Không thể đem cách trị nước
cũ mà áp dụng vào xã hội hiện tại cũng như không thể kéo lùi xã hội hiện tại trở
về quá khứ một cách chủ quan cho phù hợp với cách cai trị đó được. Xã hội mà
sự phân chia giai cấp có giàu có nghèo như xã hội mà ông đang sống không thể
sử dụng nhân trị hay đạo đức để cảm hóa con người được như vậy là vô căn cứ
và theo ông phải sử dụng pháp luật mà cai trị. Theo ông pháp luật cũng phải thay
đổi theo sự phát triển của xã hội, không có một pháp luật nào cho mọi xã hội.
Nhà cầm quyền phải căn cứ vào xã hội mình đang cai trị mà xây dựng pháp luật
cho phù hợp: “phép trị dân không cố định chỉ dùng pháp luật để mà trị thôi, pháp
luật mà biến chuyển được theo với thời đại thì thiên hạ trị… thời thế thay đổi mà
phép trị dân không đổi thì loạn”. Rõ ràng đây là quan điểm duy vật và thể hiện
tính biện chứng của Hàn Phi. Quan điểm vô vi của Lão tử hoàn toàn xa lạ với
quan điểm xuất thế của phái Pháp trị chủ trương can thiệp bằng luật pháp nhằm
cải biến xã hội. Chính vì vậy mà quan điểm chính trị của Lão tử đương thời
không được trọng dụng mặc dù người ta nói và theo quan điểm thế giới quan của
ông.
Pháp gia thừa kế quan điểm duy vật trong đạo gia phát triển Đạo lên thành quy
luật với Lão tử đạo vốn là bản nguyên của vũ trụ mọi thứ được sinh ra từ đạo
quan điểm của Lão tử vượt xa quan điểm duy vật chất phác đương thời. Quan
điểm duy vật được Hàn Phi phát triển tiến bộ hơn Lão Tử ở điểm cơ sự con
người có thể nương theo quy luật mà phục vụ cho mình trong khi đó quan điểm
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 13

Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
của Lão tử là chấp nhận quy luật để tự nó cái gì đến ắt sẽ đến vì vậy dẫn ông đến
học thuyết vô vi không làm gì cả mà thuân theo lẽ tự nhiên đa được sắp xếp.
Trường phái Pháp gia đại diện cho giới quý tộc mới trong xã hội Trung Quốc lúc
bấy giờ, nội dung của nó tiến hành đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ gia
trưởng và tù trưởng, bảo thủ và mê tín tôn giáo đương thời. Pháp gia trở thành
công cụ thống nhất Trung Quốc thiết lập chế độ phong kiến trung ương tập
quyền. Chính vì mục đích của nó nhằm thống nhất thiên hạ nên nó có hạn chế là
đã bỏ qua những tư tưởng nhân văn của các trường phái khác do vậy nó có thể
phát huy công dụng nhất thời nhưng sau đó nó tỏ ra không phù hợp trong thời
bình nếu chỉ sử dụng duy nhất Pháp gia để trị nước.
Hàn Phi đã kết hợp được những tinh hoa của Nho – Lão – Pháp mà xây dựng
hoàn chỉnh học thuyết của phái Pháp gia. Dưới thời Hàn Phi pháp gia phát triển
trở thành một học thuyết hoàn thiện. Nó là sự kế thừa các tư tưởng trước đó của
Pháp gia kết hợp các học thuyết về Đạo của Lão giáo trong quan niệm về thế giới
quan, Chính danh của Nho gia. Hàn Phi đã tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão,
Pháp trong đó Nho là vật liệu xây dựng, Pháp là bộ khung, Lão là kỹ thuật thi
công làm nên tư tưởng Pháp gia hoàn chỉnh.Tuy nhiên cũng phải thấy rõ mặc dù
có những tiến bộ và phù hợp nhất định với thời đại nhưng sau đó Pháp gia tỏ ra
không còn phù hợp vì quá cứng nhắc khi thi hành. Pháp gia giúp nhà Tần thống
nhất đất nước, nhưng cũng chính Pháp gia làm cho nhà Tần phải sụp đổ vì đường
lối của mình vì nó đã không chịu biến đổi cho phù hợp với tình hình xã hội một
quan điểm mà Hàn Phi đã đưa ra trong chủ thuyết của mình. Để rồi nó lại
nhường chỗ cho địa vị độc tôn Nho gia, Pháp gia lui xuống hàng thứ yếu hỗ trợ
Nho gia trong việc trị nước. Sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của
Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan sau đây:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.

- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất. Thật ra
luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 14
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Các nhà tư tưởng của trường phái Pháp gia có lòng nhiệt huyết cải cách nhưng
mù quáng, thiếu ý thức lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
c) So sánh, đối chiếu tư tưởng pháp trị của Pháp gia với tư tưởng pháp
quyền của Hi Lạp và La Mã cổ đại:
Có ý kiến cho rằng sau khi tư tưởng pháp luật Trung Quốc đạt đỉnh cao thời kỳ
đầu, hai nghìn năm nay nó chỉ có vị trí là một cái bóng, điều đó không phải là
không có lý. Khi đặt Pháp gia trong sự đối chiếu với tinh thần pháp luật của
người Hy Lạp, La Mã cổ đại thì trên một phương diện nào đấy, ta có thể nhận
thấy sự khác nhau trong tinh thần thượng tôn pháp luật trong Pháp gia và trong
hệ thống pháp luật Hy Lạp và đặc biệt là La Mã.
Tư tưởng pháp trị của Trung Quốc mà Hàn Phi là đại biểu xuất sắc nhất vẫn thiếu
một tinh thần pháp luật tối thượng. Tuy Hàn Phi quan niệm vua phải tuân theo
pháp luật, song trên thực tế, vua là người vượt lên trên pháp luật, vì mọi quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua. Hơn nữa, xem xét
dưới góc độ kỹ thuật, dù có một số người vẫn quan niệm pháp luật của Hàn Phi
là sự kết hợp giữa lễ và hình, song để so sánh, thì “hình” vượt xa “lễ” rất nhiều.
Trên thực tế, hình phạt là nền tảng của những điều luật mà Pháp gia đưa ra.
Ở phương Tây thời cổ đại, người La Mã đã đạt đến trình độ cao nhất về tư tưởng
pháp luật, qua suốt thời kỳ trung cổ, đến tận thời cận đại, pháp luật luôn được coi
trọng và được mọi người công nhận là công cụ của chính nghĩa. Mặc dù đôi khi
có những trào lưu hay lý luận vô chính phủ đặt luật thói quen cao hơn luật hình
thức, song những hiện tượng này chỉ nằm ngoài lề đời sống xã hội và đời sống
văn hóa. Ở phương Tây cổ đại, các tư tưởng pháp quyền và tinh thần thượng tôn
pháp luật trong việc trị quốc được thể hiện rõ nét, triệt để hơn so với ở phương

Đông cổ đại. Ở phư ơng Tây cổ đại, mầm mống tư tưởng pháp quyền lúc bấy giờ
là chống lại "thuyết đặc miễn trách nhiệm của nhà vua", tư tưởng về nhà nước
pháp quyền (sau đây viết tắt là: NNPQ) ra đời chống lại sự chuyên quyền, độc
đoán, gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân chủ; bạo lực, lộng quyền và
hỗn loạn là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần phải xóa bỏ. Các nhà tư
tưởng pháp quyền thời kỳ này tiêu biểu là Solon (638-559TCN), Heraclite (530-
470 TCN), Socrate (469-399TCN), Platon (427-347 TCN), Aristote (384-322
TCN), Ceceron (106-43 TCN), Solon chủ trương "giải phóng tất cả mọi người
bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức mạnh và pháp luật".
Platon cho rằng Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật là điều kiện tồn tại của
pháp luật. Aristote khẳng định pháp luật phải thống trị trên tất cả, ông đề ra
"thuyết ba chức năng", phân biệt ba loại quyền lực Nhà nước: nghị viện, chấp
hành và xét xử Ceceron thể hiện tư tưởng của pháp luật bằng cách đặt câu
hỏi:"pháp luật là gì nếu không phải là trật tự chung?". Theo ông, pháp luật là cội
nguồn tạo ra chế độ Nhà nước và cho rằng:" Nhà nước là NNPQ không phải do
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 15
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà là vì về cội nguồn, về bản chất, Nhà
nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân".
 Tóm lại:
Mỗi học thuyết được sinh ra trong những giai đoạn và hoàn cảnh nhất định và nó
sẽ có thể phù hợp với giai đoạn hoặc hoàn cảnh lịch sử nhất định.
- Khi phù hợp nó sẽ mang lại những thành công thúc đẩy xã hội phát triển.
- Khi nó không còn phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội
Phải căn cứ vào thực tế xã hội mà áp dụng học thuyết nào đó cho phù hợp và
phải không ngừng tìm tòi, bổ sung, hoàn thiện, xây dựng những học thuyết mới
phù hợp với tình hình mới.
2. Tư tưởng trị quốc trong triết học Hi Lạp cổ đại:
a) Platon:
Bàn về nhà nước lý tưởng của Platon thì có nhiều ý kiến khen cũng như chê. Cái

được với ông là mặc dù nhiều người cho nó là một xã hội “không tưởng” thế
nhưng nó đã có cả một cơ sở về sau đó là giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã sống
theo tinh thần của ông suốt hơn một ngàn năm ở châu Âu và gần đây là các nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chũ nghĩa.
Nhưng cái mất là xã hội chính trị lý tưởng của ông mặc dù được che đậy
bằng những ý tưởng rất tốt đẹp như công bằng hạnh phúc nhưng nó đã không bảo
đảm được những vấn đề cơ bản của cá nhân.
Thứ nhất ông đã phạm một sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem thường
những giai cấp dưới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lý tưởng vấn đề
trật tự mà quên đi rằng con người rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do vì họ
không phải là những cỗ máy để có thể đặt định như thế nào cũng được. Thật ra,
những giai cấp dưới không phải không biết làm chính trị, chỉ tại bởi lằn ranh giai
cấp đã bó buộc và ngăn cản bước tiến của họ. Nếu có điều kiện, họ cũng làm
chính trị rất giỏi và rất xuất sắc. Vì thế, việc phân chia giai cấp của ông “không
khác gì nhà côn trùng phân loại các côn trùng. Ông tạo ra các huyền thoại để bắt
dân chúng tin tưởng vào sự phân loại ấy”.
Đối với vấn đề bế môn tỏa cảng, ngăn chặn phát triển kinh tế để bảo vệ nhà
nước là một sai lầm nghiêm trọng bởi lẽ với sự thay đổi liên tục của các điều kiện
kinh tế, xã hội thì không một quốc gia nào có thể cưỡng lại hoặc ngăn cản tiến
trình hội nhập, giao lưu giữa các quốc gia cũng như tiếp thu các yếu tố từ bên
ngoài đưa vào. Điều quan trọng là “hòa nhập chứ không hòa tan”, tranh thủ thời
cơ và các yếu tố bên ngoài, kết hợp với củng cố và phát huy nội lực để đẩy mạnh
sự phát triển của quốc gia.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 16
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Ngoài ra ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm
vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu được tính ghen của người
đàn ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà vì thế ông mới chủ
trương chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã phá vỡ phong
tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người. Triết gia Will Durant đã nhận

xét: “Quốc gia của Platon là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon
thiếu sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái
đẹp mà không biết nuôi dưỡng nghệ sĩ, khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình,
ông đã phá vỡ điều kiện cho của một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng
qua chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đã kích gia đình,
Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lý tưởng mà ông sắp
xây cất”.
Xây dựng một nhà nước lý tưởng ở trong ý tưởng, đối với nhiều người, có
thể là không khó khăn nhưng để có thể xây dựng một đất nước lý tưởng thật sự ở
trong thực tế thì không phải dễ mà nếu không khéo thì sẽ chuốc lấy những hậu
quả chẳng lấy gì tốt đẹp lắm. Điều này chúng ta cũng có thể nhận thấy ở giáo hội
Thiên chúa giáo trong thời Trung Cổ. Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên
đây của Platon chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu,
mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một
mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của
giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi
là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như
nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Ai Cập vào Athens
mà thôi.
Ở đây ta nhận ra một điều là dù muốn xây dựng quốc gia lý tưởng theo bất
cứ chủ trương đường lối cũng được nhưng tuyệt đối phải đặt nền móng trên
người dân, tất cả phải “do dân và vì dân”. Lịch sử đã cho thấy, chưa có quốc gia
nào xa rời với người dân mà thành công và tồn tại lâu dài. Và có một điều cần
phải lưu ý là xã hội là một thực thể sống động, luôn luôn biến chuyển và đổi thay
vì thế, khi xây dựng phát triển nền chính trị xã hội chúng ta cũng cần phải linh
động và uyển chuyển theo từng thời điểm mà có những việc làm thích hợp.
Chúng ta không thể lấy cái cố định mà ràng buộc cái bất định, đó là việc làm phi
lý, không hợp với quy luật, không hợp với tự nhiên thì không thể nào thành công
là một điều dễ dàng nhận ra.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, các ý niệm của Platon về một

quốc gia lý tưởng, một xã hội theo khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa đã chứa
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 17
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đựng những giá trị nhân văn tiến bộ nhất định, là nguồn cảm hứng cho các nhà tư
tưởng ở thời kỳ sau tiếp tục hoàn thiện ý tưởng này.
b) Democrite:
Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít ủng hộ, bảo vệ quyền lợi của
giai cấp mình, ủng hộ việc thành lập nhà nước dân chủ và coi đó là hình thức cai
trị ưu việt, tiến bộ lúc bấy giờ. Đêmôcrít cho rằng “Chế độ nhà nước của chúng
ta là chế độ dân chủ vì nó được xây dựng không trên thiểu số, mà trên đa số các
công dân tự do”. Khái niệm “công dân” là một phát minh chính trị của người Hi
Lạp, trong đó phân định rạch ròi quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân
với xã hội, quyền và nghĩa vụ, chỉ ra sức mạnh của luật pháp trong việc bảo vệ
công lý. Chính nền dân chủ đã tạo ra các khởi sắc trong đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội của Athens-Hi Lạp. Tuy nhiên, do sự phân biệt giai cấp khá nặng nề
nên đã có nhiều cuộc đấu tranh của nô lệ làm cho nền dân chủ bị suy yếu. Đó là
nhược điểm và hệ quả tất yếu của hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, khép kín,
chỉ mở rộng cửa cho dân tự do, tức công dân, với số lượng chỉ bằng 1/10 dân số.
Đêmôcrít xem nhà nước cộng hòa dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô
điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản lý
nhà nước phải mang lại cho con người hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ.
Đêmôcrít cho rằng sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ còn đáng quý hơn cái
mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi sự tự do vẫn
tốt hơn nô lệ.
Dù còn những hạn chế nhất định nhưng những quan điểm của Đêmôcrít đã góp
phần quan trọng trong phát triển lý luận về nhận thức, đạo đức, logic học và đóng
góp vào việc xây dựng và phát triển chế độ nhà nước cộng hòa với các giá trị
nhân bản.
3. Ý nghĩa và ảnh hưởng của các tư tưởng trị quốc trong triết học phương
Đông và phương Tây cổ đại– Liên hệ với thực tiễn Việt Nam:

a) Ý nghĩa và ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc của Nho gia:
Việt Nam ta có khoảng 1000 năm dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến
Trung Quốc nên cũng không tránh khỏi việc chịu ảnh hưởng của các tư tưởng trị
quốc của Trung Quốc trong đường lối trị quốc của mình qua các thời kỳ. Với tư
tưởng trọng văn của Nho giáo Việt Nam, các nhà nước quân chủ Việt Nam đã
học tập cách tổ chức triều đình, hệ thống pháp luật từ Trung Hoa. Tổ chức ra hệ
thống thi cử tuyển chọn nhân tài để bổ sung vào bộ máy cai trị trên nguyên tác
“Trọng văn hơn trọng võ”. Hệ thống thi cử khoa bảng này được bắt đầu từ thời
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 18
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nhà Lý (Chính thức cho xây dựng Văn Miếu) và kết thức vào thời nhà Nguyễn,
kéo dài khoảng 800 năm, tổ chức được 185 khoa thi, có 56 trạng nguyên. Có
những Trạng nguyên tuổi đời rất trẻ nhưng có trí thông minh xuất chúng, học
giỏi hơn người như Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi mới 12 tuổi, Lương Thế
Vinh đỗ trạng nguyên lúc 22 tuổi là tổ sư nghề toán ở Việt Nam. Mạc Đỉnh Chi,
Nguyễn Trực là lưỡng quốc trạng nguyên Nói chung hệ thống tổ chức xã hội,
hệ thống khoa bảng Nho giáo Việt Nam nhìn chung có nét tương tự như Nho
giáo Trung Hoa.
Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt
không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy
những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nhà Nho
tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không
thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành
tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho
giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí
Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ
phong kiến và lật đổ nhà vua. Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo
hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ
phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh
thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân

thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. Trong khi Nho
giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không
bằng người nhiều tuổi thì cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào
thanh niên và tiền đồ dân tộc. Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục
tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội
dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ
thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần
nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách Mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã sử
dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 19
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ
vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên
cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.
Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện
và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng,
ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất. Ngày nay cả nước
bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trên con đường tiến tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo
tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện
diện, bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính
diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những
tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá
nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời
kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
b) Ý nghĩa, ảnh hưởng và sự phát triển của các tư tưởng pháp quyền trong
việc trị quốc của triết học phương Đông cổ đại và phương Tây cổ đại:
Tư tưởng pháp quyền trong việc trị quốc trong các trường phái triết học phương
Đông và phương Tây cổ đại đã đặt nền móng cho các ý tưởng về việc xây dựng

một nhà nước pháp quyền (NNPQ) trong quá khứ cũng như hiện tại.
Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng NNPQ đã xuất hiện cả ở phương Đông và
ở phương Tây. Ở phương Đông, đó được xem là tư tưởng pháp trị của các nhà
pháp gia như: Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi Quản Trọng chủ trương đề
cao "Luật, lệnh, hình, chính", vua phải giữ pháp, "không vì vua muốn mà thay
đổi lệnh, lệnh đáng tôn hơn vua". Hàn Phi coi pháp là chuẩn mực cao nhất của
việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng,
không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật
.Theo ông, "pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình
theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ
dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái
đúng không bỏ sót kẻ thất phu".
Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền lúc bấy giờ là chống lại "thuyết
đặc miễn trách nhiệm của nhà vua", tư tưởng về NNPQ ra đời chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân chủ; bạo
lực, lộng quyền và hỗn loạn là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần phải
xóa bỏ. Các nhà tư tưởng pháp quyền thời kỳ này tiêu biểu là Solon (638-
559TCN), Heraclite (530-470 TCN), Socrate (469-399TCN), Platon (427-347
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 20
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TCN), Aristote (384-322 TCN), Ceceron (106-43 TCN), Solon chủ trương
"giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp giữa
sức mạnh và pháp luật". Platon cho rằng Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật
là điều kiện tồn tại của pháp luật. Aristote khẳng định pháp luật phải thống trị
trên tất cả, ông đề ra "thuyết ba chức năng", phân biệt ba loại quyền lực Nhà
nước: nghị viện, chấp hành và xét xử Ceceron thể hiện tư tưởng của pháp luật
bằng cách đặt câu hỏi:"pháp luật là gì nếu không phải là trật tự chung?". Theo
ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước và cho rằng:" Nhà nước là
NNPQ không phải do Nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà là vì về cội
nguồn, về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân

dân".
Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kỳ này không có mầm
mống tư tưởng về NNPQ vì sự ngự trị của bóng đêm thần học. Tuy nhiên,cũng
có người cho rằng vẫn có những mầm mống về NNPQ trong chính các nhà tư
tưởng thần học. Tư tưởng về NNPQ là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình đẳng,
công bằng, dân chủ. Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù trong hoàn
cảnh nào, trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng nữa thì những
tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác.Các nhà thần học thời
kỳ này tiếp thu tư tưởng từ các triết gia cổ đại. Vì vậy, tiếp cận đến tư tưởng về
NNPQ là hoàn toàn có thể xảy ra. Cũng như Saint Thomas đã cơ đốc giáo hóa
triết học Aristote thì Saint Augustin đã cơ đốc giáo hóa triết học Platon mà ông
đã tu dưỡng qua Ceceron. Cũng chính vì điều này, tư tưởng pháp quyền Trung cổ
gắn liền với Saint Augustin (357-430) và Saint Thomas D'Aquin (1225-1247).
Saint Augustin cho rằng quyền lực Nhà nước phải được thực hiện như một thứ
quyền lực phục vụ. Đó là công cụ để thực hiện tình yêu và sự công bằng. Saint
Thomas D'Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho con người cái thuộc về họ
và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất, tinh thần; xã hội công dân sẽ
thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại pháp luật: luật vĩnh cửu, luật tự
nhiên, nhân luật và thần luật.
Thời kì cận đại, tư tưởng về NNPQ thực sự có bước phát triển mới. Nó đã trở
thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở một số quốc gia
phương Tây, mà ta gọi là NNPQ TBCN hay NNPQ Tư sản để phân biệt với
NNPQ XHCN sau này. Sự phát triển lý luận học thuyết NNPQ Tư sản chịu ảnh
hưởng của hai luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng định ngày càng cao những quan
điểm mới về tự do của con người, thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp
luật - pháp luật tự nhiên. Hai là, xác lập mối tương quan giữa quyền lực chính trị
mới giữa giai cấp tư sản đang lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần
loại trừ tình trạng (khả năng ) độc quyền, bán quyền lực trong cơ quan hay cá
nhân cụ thể. Học thuyết NNPQ vì lẽ đó gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.
Thời kỳ này, học thuyết NNPQ được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua các giai

đoan lịch sử khác nhau. Đó là lí thuyết về pháp quyền tự nhiên của các nhà triết
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 21
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
học Hà Lan thế kỷ XVI-XVII với các đại diện: B. Spinoza (1632-1677), H.
Grotius (1583-1645); lý thuyết về tự do của các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với
các đại diện như : J. Locke (1632-1704) - người thể hiện rõ rệt nhất các quan
điểm pháp quyền của xã hội TBCN, T. Hobbs (1588-1679), J.S.Mill (1806-
1873); lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội của các
nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII với các đại diện: Montesquieu - người đưa ra
học thuyết phân quyền được các nước Tư sản sau này áp dụng dưới các hình thức
khác nhau, Rousseau (1712-1788) - người đưa ra lý thuyết về chủ quyền nhân
dân và "khế ước xã hội"; lý thuyết về pháp quyền của các nhà triết học cổ diển
Đức với các dại diện như : I. Kant (1724-1804), Hegel (1770-1831) Bước sang
thế kỷ XIX-XX, lý thuyết về NNPQ tiếp tục được các nhà triết học Đức quan tâm
như: Mohn và Valker, Stein
Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các học thuyết
này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện diện của chủ
nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng thuận của người dân;
Nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật không hành động độc đoán; Nhà nước phải
tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người và quyền công dân; quyền lực
Nhà nước được chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao
cho ba cơ quan Nhà nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát, kiềm
chế quyền lực.
Học thuyết NNPQ không chỉ có những tư tưởng của các triết gia tư sản mà còn
có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển CNXH. Marx, Engels và Lenin dù
không chính thức nói đến NNPQ như là một trong những nội dung chính yếu
trong học thuyết của mình nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách
mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói ít nhiều họ đã thể hiện
tư tưởng về pháp quyền. Đó là những tư tưởng đầu tiên về NNPQ XHCN. Quan
điểm của Marx và Engels được thể hiện trong các tác phẩm như: "Sự khốn cùng

của triết học", "Phê phán triết học pháp quyền Hegel" Marx chỉ ra cơ sở xã hội
như nền tảng vật chất của pháp luật:"( ) xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở.
Đó chỉ là những ảo của những nhà Luật học. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội
làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội
do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý
muốn tùy tiện của một cá nhân". Marx cho rằng "chế độ dân chủ không phải con
người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con nguời" ”Thực tế, với việc
trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong tương quan với sở hữu, sự phát
triển, sự phát triển công, thương nghiệp với mỗi giai cấp, quan điểm của các ông
là về tính giai cấp của pháp luật , pháp quyền nói riêng và Nhà nước nóí chung".
Marx và Engels đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó "tự do của mỗi
người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người", là "sự phát triển toàn
diện của con người". Có thể nói,"vì con người" và "giải phóng con người" là mục
tiêu của một NNPQ kiểu mới. Về mặt Nhà nước, Marx và Engels chủ trương xác
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 22
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
lập một chế độ dân chủ triệt để, "do nhân dân tự quy định". Trong xã hội mới sẽ
tạo ra nhiều điều kiện để giải phóng cá nhân, rằng "xã hội sẽ không giải phóng
cho mình được nếu không giải phóng mỗi một cá nhân riêng biệt" (Engels) và xã
hội đó phải được xây dựng trên cơ sờ pháp luật, Engels viết: "đối với chúng
ta điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và người bị lãnh đạo
phải được thiết lập trên cở sở pháp luật". Lenin tiếp thu và phát triển tư tưởng
của Marx và Engels và đã đưa học thuyết của các ông đến mức độ hoàn bị hơn.
Về NNPQ, trong tư tưởng về Nhà nước và cách mạng, về xây dựng xã hội mới
của Lenin cũng có chứa yếu tố pháp quyền. Lenin hướng đến một xã hội dân chủ
rộng rãi, giải phóng con người và phát triển tòan diện con người. Lenin nói: "Nếu
không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư
bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho CNXH mà không cần phải có một tiêu
chuẩn pháp quyền nào cả". Trong việc xây dựng Nhà nước Xôviết, Lenin đã
nhiều lần đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động, phải

thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu tranh
chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật lên
trên hết). Như vậy, các nhà kinh điển của CNXH dù không xem NNPQ là bộ
phận trong học thuyết của mình nhưng đâu đó trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy
vẫn có những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của các ông, góp phần làm
phong phú các tư tưởng về NNPQ và đặt ra những ý tưởng mầm mống về xây
dựng NNPQ XHCN.
Như vậy, NNPQ là một Nhà nước thượng tôn pháp luật và phải bảo đảm dân chủ.
Lịch sử NNPQ đã có từ xa xưa và ngày càng hoàn thiện qua các giai đọan lịch sử
khác nhau và trở thành học thuyết vào thế kỷ XVII- XVIII, gắn liền với Nhà
nước Tư sản, nền dân chủ Tư sản.Bên cạnh đó, các nhà kinh điển của CNXH
cũng đã có sự đóng góp nhất định vào học thuyết NNPQ nói chung, và định
hướng cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở các nước XHCN - NNPQ XHCN
của dân, do dân, vì dân sau này. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng về NNPQ chúng ta
có thể rút ra những dấu hiệu cơ bản chung nhất của một NNPQ nói chung gồm
các yếu tố sau đây:
- Sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội
- Sự ràng buộc của Nhà nước và cơ quan Nhà nước bởi pháp luật
- NNPQ định rõ trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân trên cở sở
pháp luật
- NNPQ có những hình thức kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tuân theo pháp
luật.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng
bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng
việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được
tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 23
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước.
Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực,
tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình
đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo
giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị
duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ,
trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 24
Quan điểm về cách trị quốc GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Các tư tưởng trị quốc trong nền triết học phương Đông cổ đại và phương Tây
cổ đại cho chúng ta cái nhìn thú vị về tiến trình hình thành và phát triển của tư
duy lý luận của con người trong việc xây dựng và điều hành đất nước, chứa đựng
các giá trị mang tính khoa học và nhân văn, phản ánh đặc điểm và trình độ phát
triển xã hội con người ở các phạm vi địa lý và qua các thời kỳ khác nhau. Những
tư tưởng trị quốc thời cổ đại đã đặt nền móng cho việc hoàn thiện các thiết chế
chính trị, các phạm trù xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các tư tưởng
và học thuyết về xây dựng nhà nước trong các giai đoạn xã hội tiếp theo. Nhiều
tư tưởng trị quốc thời cổ đại vẫn còn nguyên giá trị và sức sống cho đến ngày nay
cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn và là một trong các tiền đề lý luận để xây dựng
nhà nước và các định chế xã hội trong tương lai.
SVTH: Trần Hoàng Nguyên – Lớp Cao học Đêm 1 – K20 Page 25

×