Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.28 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
`
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC :
Đề tài 13:
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC
CỔ ĐẠI
SVTH : TRẦN THANH PHONG
LỚP : ĐÊM 1 - K20
NHÓM : 5
STT : 75
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
Thành phố Hồ Chí Minh, 5/2011
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 4
1. Giới thiệu 4
2. Triết học Nho Gia 4
3. Triết học Đạo gia 5
4. Triết học Mặc gia 6
5. Triết học Pháp gia 7
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 10
1. Giới thiệu 10
2. Quan điểm Đêmocrit 11
3. Quan điểm Platon 13
CHƯƠNG III: PHẦN NHẬN XÉT CÁ NHÂN 15
1. Triết học Trung Quốc cổ đại 15
2. Triết học Hy Lạp cổ đại 19
CHƯƠNG IV : NHẬN XÉT 23


Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 2
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là “vấn đề
về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào đường lối,
chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ khác nhau (cổ
đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được phát triển trên từ
đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi tư tưởng triết học đều
có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận thức luận, đạo đức, chính trị,
xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các tư
tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học cổ
đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai mảng
chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông qua các tư
tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia. Còn đối
với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông qua tư tưởng
Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 3
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài, chiến
tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong các thời kỳ
cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời các hệ

thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử
của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà triết
học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến đời
sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các
tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có
hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi
là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải
"tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận
phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị
quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và ngũ
thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là chuẩn
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 4
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi người tuân
theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự, thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng

tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở đây
có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh đó quy
định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả mọi người
đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc. Chính bởi thế mà
câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói không thuận tất việc
chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi người nhắc lại. Nói một
cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người sáng lập tóm gọn trong 9
chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại, ra
đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó
được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong bối cảnh
tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ Nam
hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện
chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng về
thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải quyết những vấn đề
do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp
đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách
kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông, chính phủ
yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 5
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là bằng lẽ tự nhiên
của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối
với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử
mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với

xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng của
tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với Nho
giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính trong thời
Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho được
cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như Khổng hay
Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu không
có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái 'dụng' của sự
việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc không việc gì quý
bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa, lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách mù
quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình chăm lo
cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối không ra
vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc là sách lược bác
ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong quốc gia và cả chính
sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 6
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết trọng
dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa ra quan
niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương thời và đả
kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc qua cách bổ

nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với nhiều
thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước cổ đại có
nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân loại. Về tư
tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân Thu
(770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử và Chiến Quốc (403
– 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ những nhân tố cho sự
phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát
triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân
Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử Tư tưởng Pháp gia mà
đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất
đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Thế,
Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong
đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai
trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn
"Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả
đều là công cụ của bậc đế vương.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 7
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có
luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua
phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1- Chủ
quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2- Vua phải
được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng, không được

trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. 3- Đưa sự thưởng
phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để
cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ không cần dùng
giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế
độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những
luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị
của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các
công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận
giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp
luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc
gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp
vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2-
Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4-
Pháp luật có tính cách phổ biến. Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách
quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và
vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái
gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật
được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật” có
hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm
thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.Nói ngược lại
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 8
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình
không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian
và dùng người.

Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi
tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế",
"Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một
học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng
chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu
dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn
"trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ trương
dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy
Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất
được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 9
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và
sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì
vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng,
để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và
của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác
dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự
nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người

tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời
sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày.
Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi
thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về
con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-
đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 10
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất
của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức sản xuất
thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế
giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu
chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn
hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy,
con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà biện
chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất
thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng
biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép
biện chứng.

2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy Lạp
cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ Tơraxia,
ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là học
trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát triển nó
thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái niệm
nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không tồn tại”.
Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định được, cái đa
dạng, cái có ngoại hình…
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 11
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng là
cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì các vật
thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng, cái phần
vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào được
gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa dạng, tự
thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể. Đêmôcrít cho
rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không.
Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết hợp của các
nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo Đêmôcrít là một
khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu tạo từ
vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc

biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh ra
nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng với
sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận động và
tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động nhận thức của
con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác và nhận thức lý
tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính chất, trình độ giữa
chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa hai dạng
nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng, cũng chưa thấy được sự
chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự hỗn hợp cái nguyên tử
trong cơ thể con người.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 12
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp dân
chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là hợp đạo
lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan điểm tiến
bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói mà ở việc
làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh
phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn được tự do. Về vấn đề
tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử, một
người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động mạnh mẽ
tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng và
cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị cho nhân loại cả
về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi tiếng và đặc biệt nhất
là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một cuốn bách khoa toàn thư vô
cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.

Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong mô
hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời. Trong mô
hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề của đời sống
mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy nghĩ. Đó là một quốc
gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với
những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ
rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo tức
là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người tham gia vào
quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người buôn bán và sản
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 13
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia cộng sản triệt để
trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi ích là vì xã
hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác hơn là giai cấp quý
tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất cứ tài sản nào, kể cả vợ
con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không được có sự quá chênh lệch
giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng
theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và xây
dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có chiến tranh,
kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là những triết gia vì
những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ không được tham
nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân làm ra phải được phân
chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá nghèo. Ông chủ trương một
nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào trong đất liền để tránh giao
thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều có

cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang nhau.
Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối,
nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội lực
bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 14
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III: PHẦN NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Triết học Trung Quốc cổ đại
Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Trung Quốc
là trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ nhất, phong phú nhất của nền văn minh
ấy.
Nho gia xuất hiện vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và
Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai hướng khác nhau ; duy tâm và duy vật
trong đó dòng Nho gia Khổng – Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch
sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Trong bối cảnh nước Trung Hoa thời Xuân Thu, một xã hội loạn lạc, chủ trương
dùng ‘‘Nhân’’ giáo hóa con người, cải biến xã hội từ loạn thành trị của Nho gia đã
biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho. Nhưng do chưa hiểu rõ nguyên
nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền lợi giai cấp quy định nên
phương pháp cải biến con người và xã hội của Khổng Tử chỉ đạt ở mức duy tâm chứ
không phải bằng cách mạng hiện thực.
Nho gia vốn đặt mối quan hệ vua – tôi lên cao nhất trong quan hệ giữa người với
người. Xây dựng tinh thần trung quân ái quốc nhưng không mù quáng trung quân
mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi vua trước hết phải trung thành với tổ
quốc và trung hậu với nhân dân. Vua phải dùng "nhân trị" nghĩa là cai trị bằng tình
người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Nhân được coi là điều cao nhất

của luân lý, đạo đức. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có
quyền lấy dân làm của riêng cho mình, phải duy dân và vì dân. Muốn vậy phải có
luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó.
Người trị dân trị nước phải châm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống củ dân
được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân
nghĩa làm cơ bản để thi hành. Tuy nhiên nhân nghĩa trong Nho giáo cũng là tình
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 15
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha,
của vợ đối với chồng. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành nhưng lại rất hợp lý. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để
hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
Tuy nhiên, Nho giáo cũng để lộ nhiều điểm tiêu cực, Nho giáo đưa con người
quá hướng nội, chuyên chú suy xét tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra
bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung
quanh. Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu nhữn cái mới ưu việt hơn, không coi
trọng thương nghiệp và khoa học. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tự
nhiên kỹ thuật sau một thời gain phát triển đã bị chựng lại so với Phương Tây vốn
xuất hiện sau.
Bên cạnh đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng là một nhược điểm rất lớn của
Nho gia. Trong gia đình, người cha, người chồng, người anh cả là có quyền lực cao
nhất. Người phụ nữ trong gia đình bị lệ thuộc hoàn toàn vào chồng với "tam tòng, tứ
đức, không có quyền tham gia vào việc đại sự trong gia đình. Điều này đã trói buộc
người phụ nữ không có quyền tự chủ quyết định cuộc đời và tương lai của mình.
Khác hẳn vơi Nho gia, Đạo Gia của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là
kẻ bất mãn thế cuộc nhiễu nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có
được một lẽ sống riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được
lối phản kháng bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho
xã hội mà mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren.

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, đang lúc vua quan các nước thực thi chính sách
kiêm tính, để trở thành nước lớn, khả dĩ "kẹp thiên tử nhi lệnh chư hầu . (Uy hiếp
nguyên thủ trung ương, chỉ huy các nước địa phương). Đồng thời, phần tử trí thức
cũng chủ trương “định ư nhất”, mong sao thực hiện được lý tưởng thiên hạ thống
nhất thịnh trị, thì ngược lại, Lão Tử chủ trương "Tiểu quốc quả dân" (Nước nhỏ dân
ít). Người cho rằng, với nước nhỏ dân thưa, thì ít có tranh chấp và dễ trị. Nhà nước
chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành. Lý luận đó của Lão Tử,
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 16
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
lúc bấy giờ chẳng ai nghe theo, cả Khổng Tử cũng chẳng tin. Nào ngờ thế giới ngày
nay lại có lối tư duy mới, chẳng hẹn mà gặp nhau với Lão Tử. Sau thời kỳ "Chiến
tranh lạnh", có nhiều xứ khác nhau về dân tộc, tôn giáo trong cùng một quốc gia,
đang đua nhau đứng lên tranh đấu, giành quyền độc lập tự chủ, như các nước cộng
hòa trong Liên bang Sô viết, liên bang Nam Tư và khối dân miền bắc Iraq, ấn Độ
hiện nay, cũng như Mông Cổ, Tây Tạng của Trung Quốc từ trước. Trực diện với vấn
đề này, quốc tế tuy chẳng tiện can dự trực tiếp, nhưng cũng không phản đối, thậm
chí còn khuyến khích một cách gián tiếp.
Tuy nhiên, thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách
nhiệm, nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ
bảo nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
Trái ngược với Nho gia, Mặc gia chủ trương "Kim ái", đó là tình thương bình
đẳng và phổ cập. Quan niệm luân lý này, sai biệt rất lớn so với quan niệm luân lý gia
tộc, trong xã hội tôn pháp đương thời, chứng tỏ Mặc Tử có lập trường chống lại quy
tác tôn pháp, ưu tiên thương người nhà hơn người ngoài, dưới chế độ phong kiến
nhà Chu. Sở dĩ Mặc Tử không nhìn nhận giá trị của luân lý tôn pháp, là vì cho rằng,
cha mẹ chưa chắc đã là tấm gương tốt cho con cái trong gia đình. Lý do là, "Thiên
hạ chi vi phụ mẫu giả chúng, nhi nhân giả quả". (Dưới bầu trời, kẻ làm cha mẹ thì
đông, nhưng người nhân đức thì hiếm), và kẻ làm vua cũng rất ít có người nhân đức.
Cho nên Mặc Tử chủ trương sống theo đức Trời, bởi chỉ có Trời mới "Kiêm nhi ái

chi, kiêm nhi lợi chi". (Trời thương tất cả làm lợi cho tất cả mọi người). Riêng về
chủ trương "phi công" của Mặc Tử, thì rõ ràng là lập trường phản đối chiến tranh,
tinh thần yêu chuộng hòa bình, đồng thời cũng là phương pháp chính yếu của Mặc
Tử, nhằm đạt tới lý tưởng "Kiêm ái”.Tinh thần nghĩa hiệp của những người theo
Mặc học, đã bén rễ ăn sâu vào hạ tầng xã hội và tiếp tục phát huy. Tinh thần nghĩa
hiệp đó, là thái độ công bằng, lập trường ngay thẳng, hết lòng bênh vực cho bình
dân và chủ trì chính nghĩa cho xã hội, bằng lời nói và hành động hào hiệp, coi
thường tánh mạng vì hai chữ "tín nghĩa". Tinh thần nghĩa hiệp ấy được kết hợp với ý
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 17
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
thức dân tộc, đã phát huy công dụng về mặc chính trị xã hội lớn lao. Song, Mặc gia
lại xem nhẹ luân thường, đạo lý. Thuyết của Mặc Tử làm đảo lộn luân thường, xem
cha không ra cha, vua không ra vua, điều này dễ dẫn đến xã hội rối loạn. Mặc gia
khuyên người ta thắt lưng buộc bụng, chỉ làm cho người đời, sống trong cảnh nghèo
khó và buồn tẻ thôi, điều này là trái với lẽ tự nhiên, cho nên Mặc gia đã dần suy tàn
vào thời Tây Hán.
Còn Pháp gia thì phủ định đức tính nhân nghĩa của nhà Nho, coi trọng quyền lực
của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong tư tưởng chính trị thời cổ Trung Hoa.
Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo có đủ phương tiện, mưu
cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề xướng. Tuy
rằng Khổng Tử đã từng chủ trương "Tiên phú hậu giáo", nhưng thật sự thì chữ
"Phú” đó, chỉ chiếm một tỉ số rất nhỏ, trong nấc thang giá trị của nhà Nho. Đến
Mạnh Tử thì lại càng coi trọng nhân nghĩa hơn phú cường, rõ ràng có khuynh hướng
đi ngược lại với đòi hỏi của chính trị thời đại, nên không được vua chúa các nước
hoan nghênh. Mãi cho đến thời Tuân Tử, nhà Nho mới bắt đầu để ý tới vấn đề làm
sao cho quốc gia giàu mạnh, là bởi chịu ảnh hưởng về tư tưởng và thành quả cụ thể
của Pháp gia cùng thời.
Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao của quốc gia. Để đạt tới mục tiêu phú
cường đó, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính sách "Canh chiến", đưa hết trăm họ

vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được như vậy thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ
lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một khi xây ra
chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành
lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã nói: vô sự
tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cường". (Ngày thường vô sự, thì làm cho nước giàu,
khi biến cố hữu sự, thì có sẵn quân mạnh) và "Hữu nạn tắc dụng kỳ tử, an bình tắc
dụng kỳ lực". (Khi hoạn nạn thì họ bỏ mình vì nước, lúc an bình thì họ ra sức xây
dựng quốc gia)
Nếu chúng ta nhìn bằng con mất thời đại, thì thấy chính sách "Canh chiến" thời xưa
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 18
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
của Hàn Phi, chẳng khác gì cho lắm, so với chế độ "Công xã nhân dân" thời nay của
Mao Trạch Đông, coi nhân dân như một công cụ, nô lệ của tập đoàn thống trị. Trên
lịch sử Trung Hoa, tư tưởng của Pháp gia đã gây nên ảnh hưởng chính trị, tạo cho
Tần Thủy Hoàng thành tên bạo chúa.
2. Triết học Hy Lạp cổ đại
Theo quan điểm củ Democrite, ông cho sự phát triển của xã hội thông qua nhu
cầu của con người. Tuy nhiên ông không cho nhu cầu của con người là động lực của
sự phát triển xã hội mà chỉ là động lực để sản xuất. Đemocrite chống phái chủ nô
quý tộc, ủng hộ chủ nô dân chủ, bởi theo ông, như vậy là bảo vệ quyền lợi về kinh tế
và gắn liền với sự phát triển về công nghiệp, thương mại. Ông cũng ca ngợi tính ôn
hòa, tình nhân ái và bảo vệ quyền lợi, lợi ích tầng lớp dân tự do. Một cuộc sống
được gọi là hạnh phúc khi mình cảm thấy được tự do trong chế độ dân chủ, ngược
lại nếu giàu có mà sống trong chế độ quân chủ cũng như không. Democrite cho
rằng, nhà nước và pháp luật là sản phẩm cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân bị
thiếu thốn, bị đè nén nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng xã hội để bảo vệ
quyền lợi của mình. Nhà nước là sự hiện thân quyền lực chung của mọi công dân.
Sự tự do của công dân chính là sự tuân thủ pháp luật.Ông có những quan điểm tiến
bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói mà ở việc

làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh
phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn được tự do. Về vấn đề
tôn giáo, Democrite và các nhà nguyên tử luận nghiêng về lập trường vô thần.
Trái ngược với Democrite, Platon là đại diện của trường phái duy tâm của triết
học cổ Hy Lạp. Ông cho rằng do 3 bộ phận cấu thành linh hồn trong mỗi con người
cụ thể là không giống nhau nên trong xã hội có 3 loại người, làm 3 việc: triết gia
lãnh đạo; chiến binh chiến đấu; thợ thủ công, thương gia sản xuất. Ông đề cao triết
gia nhất vì bộ phận lý trí trong linh hồn họ đóng vai trò chủ đạo nên nhận thức sáng
suốt và đạo đức hơn cả. Họ sẽ tạo ra những con người mới và những người này sẽ
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 19
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
xây dựng xã hội mới không bị tha hóa, thân thể tráng kiện, linh hồn trong sáng và trí
tuệ lý tưởng. Sở dĩ Platon không xếp thầy giáo trên nông dân vì thầy giáo sống vì
của cải, dùng lý trí để lật lộng, không có đạo đức. Platon coi nô lệ không là con
người mà là động vật biết nói, do không có lý trí nên nô lệ không biết nhận thức, do
không nhận thức nên không có đời sống đạo đức, do không có đời sống đạo đức nên
nằm ngoài vòng chính trị…Trước đó, có nhiều nhà triết học đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác
nhưng tất cả đều coi trọng vấn đề con người, con người là tinh hoa cao quí nhất của
tạo hóa. Do đó, nhà nước được hình thành nhằm đảm bảo cho sự phân công 3 bộ
phận trên được thực hiện.
Tuy nhiên, chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho nhà nước không thực hiện
được sứ mệnh cao cả của mình, mà hơn thế nữa, nó làm cho nhà nước tha hóa, gây
ra sự băng hoại đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hòa của xã hội
Do chế độ sở hữu tư nhân có nhiều hạn chế nên ông thấy cần phải xóa bỏ sở hữu
tư nhân; phải xây dựng chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con cái
chung, mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng theo từng giai cấp
đã được phân chia. Có như vậy mới xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Bên cạnh đó,
phải thực hiện một chương trình giáo dục, tuyển lựa đào tạo đặc biệt có chú trọng

đến thành phần tinh túy trong xã hội. Tất cả phải được học tất cả các môn, ít nhất
cũng phải biết thể dục và âm nhạc. Những ai có học thức và trình độ cao hơn sẽ
được cho học toán học, nghệ thuật và phép biện chứng. Theo Platon, chế độ xã hội
tốt nhất phải là chế độ cộng hòa quý tộc, do một vị vua là triết gia tài ba lãnh đạo.
Những của cải của người dân làm ra phải được chia một cách đồng đều, công bằng
để không ai quá giàu cũng như quá nghèo, “Một xã hội gồm những ngừời công bằng
là một xã hội điều hoà và hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí của họ, làm theo
đúng bản tính của họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc toàn hảo”.
Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 20
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Quan niệm về chính trị xã hội của Platon chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn:
ông vừa đòi hỏi phải xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi hỏi phải xây dựng cho bằng được
chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi phải xây dựng cho
bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa ra sức bảo vệ cho bằng được lợi ích
và địa vị tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân chủ Athen.
Về nhà nước lí tưởng của Platon là một xã hội “không tưởng” thế nhưng nó là
một cơ sở về sau của giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã sống theo tinh thần của ông.
Còn xã hội chính trị lí tưởng của ông mặc dù được che đậy bằng những ý tưởng rất
tốt đẹp nhưng nó đã không bảo đảm được những vấn đề cơ bản của cá nhân.
Thêm vào đó, bằng hệ thống nhất quán, chặt chẽ, Platon đã nâng cao chủ nghĩa
duy tâm Hi Lạp cổ điển lên đỉnh cao, người đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh
của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến
hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại
biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Heraclit, Democrit. Ngoài ra, triết học
Platon còn được nhiều nhà triết học thời trung cổ và sau đó, nhiều nhà duy tâm thời
cận đại lặp lại dưới những hình thức cải biên nhằm phục hồi và đẩy cao tính duy
tâm mà Platon mắc phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu hiệu “trở về với
Platon”.

Cái mất là xã hội chính trị lí tưởng của ông mặc dù được che đậy bằng những ý
tưởng rất tốt đẹp như công bằng hạnh phúc nhưng nó đã không bảo đảm được những
vấn đề cơ bản của cá nhân bởi “những mối nguy hiểm đều bắt nguồn từ những ý
định rất tốt đẹp là xác lập sự công bằng chung cho mọi người”.
Thứ nhất ông đã phạm một sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem thường
những giai cấp dưới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lí tưởng vấn đề trật tự
mà quên đi rằng con người rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do vì họ không phải là
những con robot để có thể đặt định như thế nào cũng được. Thật ra, những giai cấp
dưới không phải không biết làm chính trị, chỉ tại bởi lằn ranh giai cấp đã bó buộc và
ngăn cản bước tiến của họ. Nếu có điều kiện, họ cũng làm chính trị rất giỏi và rất
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 21
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
xuất sắc. Vì thế, việc phân chia giai cấp của ông “không khác gì nhà côn trùng phân
loại các côn trùng. Ông tạo ra các huyền thoại để bắt dân chúng tin tưởng vào sự
phân loại ấy”.
Thứ hai, đối với vấn đề bế môn toả cảng ngăn chận phát triển kinh tế để bảo vệ
nhà nước là một sai lầm nghiêm trọng bởi chúng ta đâu có cản ngăn được những cái
từ bên ngoài đưa vào mà quan trọng là ta phải củng cố nội lực để nó không làm
mình biến chất. Xã hội càng ngày càng toàn cầu hoá thì làm sao mà đóng cửa trong
nhà dạy nhau.
Ngoài ra ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm
vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu được tính ghen của người đàn
ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà vì thế ông mới chủ trương
chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm đến phong tục
tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người.
Do vậy, Will Durant mới nhận xét: “Quốc gia của Platon là một quốc giai thủ
cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẽo, nó đề cao trật tự mà không
đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không biết nuôi dưỡng nghệ sĩ, khi ông muốn
phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho của một nếp sống đạo đức.

Chế độ cộng sản chẳng qua chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân,
khi đã kích gia đình, Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lí
tưởng mà ông sắp xây cất”.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 22
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG IV : NHẬN XÉT
Mỗi quan điểm trị quốc của một nhà triết học cổ đại đều có ưu và nhược điểm
của riêng nó, nhưng nói chung chúng đã góp một phần to lớn vào việc phát triển của
xã hội loài người. Nho gia thể hiện tính nhân bản trong cách trị quốc, lấy cái tâm để
trị. Đạo gia đề cao thuyết “vô vi”, coi đây là cái gốc để trị quốc, là tuân theo quy luật
tự nhiên, quay về với tự nhiên. Mặc gia với chủ trương “Kim ái”, yêu chuộng hòa
bình, phản đối chiến tranh, đưa tình yêu thương con người lên một tầm cao mới.
Pháp gia nêu cao pháp trị, dùng luật để trị quốc, ban hành luật để dân làm theo, luật
không phân biệt sang hèn, không phân biệt dân hay quan, mọi người cùng bình đẳng
với pháp luật. Democrite thì tôn trọng sự tự do, dân chủ. Ông cho rằng tự do, dân
chủ là nhu cầu cơ bản của con người, ngoài ra Democrite cũng quan tâm vấn đề đạo
đức trong xa hội. Platon đòi hỏi một xã hội lý tưởng với một sự công bằng, xóa bỏ
chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu; mọi tài sản đều là của chung. Trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay, nếu ta có thể vận dụng tốt
những ưu điểm, và loại bỏ những khuyết điểm của các quan điểm trên, sẽ là một nền
tảng vững chắc để xây dựng đất nước. Một xã hội chủ nghĩa với một nền pháp luật
vững chắc, nhưng công bằng cho nhân dân, thể hiện sự tự do dân chủ. Pháp luật đó
cũng phải tuân theo quy luật tự nhiên, thể hiện tình yêu thương con người.
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 23
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Tài liệu tham khảo
1. Nguyên Ngọc, Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây, 2004, NXB
Đà Nẵng

2. Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi, Hàn Phi Tử, 1994, NXB Văn Hóa.
3. Phan Ngọc, Sử Ký Tư Mã Thiên, 2008, NXB Văn Học
4. TS. Bùi Văn Mưa, Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học, 2010
5. TS.Bùi Văn Mưa, Triết học và Bức tranh VẬt lý học về Thế giới, NXB Đại học
Quốc gia TPHCM 2008
Các nguồn khác:

nho-giao-den-nen-van-hoa-truyen-thong-cua-viet-nam.154399.html

phuong-dong-thoi-co-dai-va-y-nghia-phuong-phap-luan 33974.html


9479.html


%E1%BA%BET-H%E1%BB%8CC-HY-L%E1%BA%A0P-C%E1%BB
%94-%C4%90%E1%BA%A0I
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 24
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Nhóm 5 – Trần Thanh Phong Page 25

×