Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIỂU LUẬN QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.13 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
`
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN NIỆM TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
SVTH : LÊ UYÊN PHƯƠNG
STT : 077
NHÓM : 5
LỚP : ĐÊM 1 - K20
Thành phố Hồ Chí Minh, 5/2011
Tiểu Luận Triết Học GVHD : T.S Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,


Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
Lê Uyên Phương – Nhóm 5
`
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG I - TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 8
1. Giới thiệu 8
2. Triết học Nho gia 9
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công
Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng
của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được
xem là người sáng lập ra Nho giáo 9
3. Triết học đạo gia 10
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại, ra đời sau thời
kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được Trang Tử phát
triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong
cuộc chiến triền miên 10
Nếu như Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và Trung Quốc
là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy.
Tuy nhiên, nhắc đến các tư tưởng, quan điểm về trị quốc thì các học thuyết triết học Trung
Quốc là nổi bật hơn cả. Đó là các học thuyết lớn và có giá trị kế thừa đến tận ngày nay 20
Theo dòng lịch sử, một trong những tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại đầu tiên
được nhắc đến là tư tưởng triết học Nho gia và nhân vật nổi bật của tư tưởng này là
Khổng Tử - người sáng lập học thuyết này ở Trung Quốc. Lịch sử triết học Nho gia về cơ
bản có sự khác nhau ở các giai đoạn : từ lúc định hình và làm kim chỉ nam thời Tiên, Tần,
đến các thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,…Nhưng quan điểm của học
thuyết này thực sự được nhà nước phong kiến khôn khéo vận dụng để trị quốc từ thời Nhà

Hán, đây là thời kỳ Nho giáo lên ngôi chiếm lĩnh vị trí trọng yếu trong chiến lược xây
dựng, vận hành của nhà nước phong kiến, trong giáo dục và trong thực tiễn ứng xử xã hội.
Với tình trạng loạn ly do chiến tranh triền miên thời bấy giờ cùng với tấm lòng nhân ái
thương dân của Khổng Tử khiến ông phải gầy dựng sách lược quốc trị cấp tiến với mục
đích cải tạo xã hội nhằm đạt được quốc thái dân an. Theo ông, “nhân đạo chính vi đại”
(đạo người thì chính trị là lớn); vì vậy cho nên chính trường trở thành nơi bậc quân tử áp
dụng phương pháp canh tân con người và xã hội theo Khổng giáo để an định quốc gia.
Sinh trưởng trong xã hội phong kiến (do vua chúa chi phối) vì vậy mà ông không thoát
khỏi chiều hướng tôn quân đương thời (vua năm trọn quyền hành và vận mệnh của quốc
gia). Chính vì lẽ đó, Khổng Tử chú trọng vào việc “trồng người” và sách lược quốc trị của
ông nhắm vào việc đào tạo “con người chính trị” hơn là xây dựng “hệ thống chính trị”.
Ông quan tâm đến việc hướng dẫn giai cấp lãnh đạo quốc gia tu thân để biết thương dân
và trị nước một cách anh minh, muốn như vậy người lãnh tụ quốc gia phải hành đạo
Nhân, luôn tu thân và xử sự như bậc quân tử, phải có “chính danh” tức phải xưng danh
đúng với phận và một khi đã xưng danh thì phải làm đúng theo như vậy. “Nói một đường
làm một nẻo” là đi sai với chính danh và có thể làm tiêu tan chính danh, do đó bậc quân tử
phải cẩn thận cân nhắc từng lời trong việc xưng danh định phận và cố gắng hành động
đúng với chức danh tiên định. Nhà lãnh đạo có chính danh mới kêu gọi được sự ủng hộ
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 3
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
của mọi người, nếu không có chính danh hay đánh mất đi chính danh vì các hành động sai
trái thì khó mà được lòng dân. Chủ nghĩa chính danh được xem là điểm quan trọng nhất
trong triết học của Khổng Tử và tương đối phù hợp với chủ trương “chính giả chính
giã”(chấp chánh hay việc chính trị phải minh chánh và ngay thẳng) của ông. Quân tử phải
biết phân biệt phải trái khi định danh hay xưng danh. Kẻ xấu không thể được gọi là người
tốt và bạo quân không thể được tôn trọng như minh quân bởi vì làm như vậy không khác
gì ngụy biện làm ố danh tức “danh bất chính” 20
Theo Khổng Tử, trật tự quốc gia đòi hỏi toàn thể nhân dân đặt thiên tử vào vai trò lãnh
đạo tối cao. Nhu cầu đoàn kết quốc gia để tránh thảm trạng chư hầu thôn tính lẫn nhau

đem đến vô vàn đau khổ cho nhân dân khiến Khổng Tử chủ trương tôn quân một cách
tuyệt đối - thần phục Chu triều. Làm vua thì phải ra làm vua tức là vua phải xử xự như
nhà lãnh đạo quốc gia vì khi vua, quan không làm tròn trách nhiệm của mình thì quốc gia
sẽ bị đại loạn, lãnh đạo kém anh minh, quần thần sẽ trở nên quan liêu, bòn rút của dân
khiến cho xã hội trở nên bất an, nhân dân sẽ rơi vào lầm than và bất phục chính quyền,
lúc này sẽ khiến quốc gia trở nên xáo trộn. Ðối với thần dân mà dùng công minh để trị thì
hiếm ai có thể bất nghĩa với mình; nhưng nếu bất chính với họ thì không thể bắt buộc họ
trung chính với mình 21
Khổng Tử không chú trọng về chiều hướng pháp chế, vì ông suy luận rằng chủ trương
pháp chế chỉ là hạ sách để trị quốc. Quốc gia không thể không có luật pháp và hình phạt
nhưng bậc lãnh đạo trước hết phải áp dụng phương pháp nhân trị để quản thống quốc sự
thì mới mong đạt được an bang tế thế. Theo ông, sử dụng luật pháp để trị quốc chỉ có thể
làm dân sợ nhưng không thể khiến họ kính nể mà tuân phục một cách tự nhiên; ngược lại,
nếu sử dụng nhân đức để trị nước thì sẽ được dân nể phục mà theo. Việc chính trị mà
dùng đến hình pháp thì dân có thể tránh được tội nhưng không tự cảm thấy hổ thẹn (để
sửa mình tu thân), nhưng nếu biết dùng đến đức mà dạy dân, dùng lễ mà trị dân thì dân
không những tự biết sỉ nhục mà còn cố làm điều tốt. Về lĩnh vực dân sinh, nhà trị quốc
luôn lưu phải lưu tâm hai vấn đề quan trọng là giúp cho dân giàu và khi dân giàu phải
giáo dục dân về đạo đức, lễ nghĩa. Khi mà dân ít thì rán làm cho dân số tăng lên nhưng lúc
đã có nhiều dân thì phải giúp cho dân giàu bởi vì có thực mới vực được đạo; và khi dân đã
no ấm thì phải dạy cho dân luân thường đạo lý. 'Nếu không dạy dân mà đem ra giết thì
điều ác đó gọi là ngược, nếu không chăm sóc nhắc nhở mà bắt dân phải thành nhân thì
điều ác đó gọi là bạo. Dân mà không giàu thì quốc gia không hùng cường; dân mà không
biết luân lý lễ nghĩa thì quốc gia tất loạn. Chính sách quốc gia phải chú trọng ba lĩnh vực:
lo cho dân no ấm, xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh và làm cho dân tin tưởng
nơi chính quyền. Tuy phải lo cho dân ấm no, chính sách quốc gia phải đặt mục tiêu 'tạo
niềm tin nơi dân' trên hết, trên cả việc quốc phòng và sự no ấm của dân. Khi dân đã tin
tưởng vào chính quyền thì đó là sức mạnh vô biên giúp cho việc xây dựng quốc gia thành
công tương đối dễ dàng; nhưng khi dân không tin vào chính quyền thì dẫu có được no ấm
thì họ cũng không phục nhà lãnh đạo, và sức mạnh muôn binh cũng không khiến họ sợ.

Nhà lãnh đạo phải biết thương dân, hiểu cái đạo của rời đất để biết khi tiến, khi thủ, khi
lùi. Tuy nhiên, thực tế khó kiếm ra được mẫu người quân tử như vậy, nhà cầm quyền dẫu
có anh minh bao nhiêu nếu không bị kiểm soát dễ sa vào hắc lộ lạm quyền 21
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 4
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Tương tự như Khổng Tử, Lão Tử sinh trưởng trong giai đoạn chiến tranh triền miên cho
nên rất ưu tư về vấn đề quốc trị. Ông thấy là dân đói vì người trên lấy thuế nhiều cho nên
dân đói, dân khó trị vì người trên theo hữu vi cho nên dân khó trị, thiên hạ nhiều kiêng kỵ
thì dân càng nghèo; dân nhiều lợi khí thì quốc gia thêm mờ tối, người càng nhiều xảo thuật
thì vật kỳ lạ càng xuất hiện, pháp luật càng sáng tỏ thì trộm cướp càng nhiều. Và vì nhận
xét như vậy cho nên Lão Tử chủ trương rằng lãnh tụ quốc gia phải áp dụng sách lược vô
vi để trở về (phản phục) với đạo hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế
thế, Đạo gia đã được hình thành từ đây. Ông cho rằng đường lối quốc trị tốt nhất là đường
lối vô vi: lo cho dân no ấm, mạnh khỏe và dạy cho dân sống tự nhiên hợp với môi trường
xung quanh, không suy nghĩ hay thèm thuồng mỹ vật. Một khi dân được ấm no, không
bệnh tật và không ham chuộng của quý vật lạ cũng như không có nhu cầu khoe tài hay
ganh đua để được lãnh tụ yêu mến thì dân đã thấm nhuần tinh thần vô vi (không làm); và
khi đã theo vô vi rồi thì dẫu có kẻ tài trí, tham lam xách động nhân dân nổi loạn thì họ
cũng không làm (vô vi) 22
Lãnh tụ thì phải biết thương dân, không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi dân làm sai rồi hành
hạ, giam cầm, xử trảm mà phải có nhiệm vụ chỉ bảo nhân dân hướng thiện theo đạo chứ
không thể đem cái chết ra hăm dọa nhân dân. Tương tự như con thú khi bị dồn vào chân
tường thì cắn lại, nhân dân khi bị bóc lột, khổ sở hết mức thì hết sợ chết; mà khi nhân dân
hết sợ chết thì sự dọa nạt của lãnh tụ trở nên vô dụng. Kẻ nào dùng bạo lực để trị quốc thì
hiếm khi không bị thương ở tay. Thái độ của dân phản ảnh tư cách và khả năng của giới
lãnh đạo quốc gia 23
Chính sách quốc trị căn bản theo vô vi đòi hỏi thành phần lãnh đạo quốc gia phải 'tuyệt
thánh bỏ trí, tuyệt nhân bỏ nghĩa, tuyệt xảo thuật bỏ lợi'. Lão Tử cũng khuyên là đừng nên
đề cao nhân nghĩa quá đáng. Loài người sống trong xã hội hỗn loạn có thể được hướng dẫn

làm điều lành, việc thiện; nhưng nếu lãnh tụ quốc gia đề cao nhân nghĩa bề ngoài mà
không chú trọng tâm phục thì nhân nghĩa trở thành cái vỏ lễ nghi tốn kém đè chết nhân
dân: kẻ dưới phải nịnh bợ, đút lót bề trên và hà hiếp cũng như chà đạp người ở dưới hơn.
Việc tôn trọng lợi lộc cũng đem đến tình trạng bi thảm như việc tôn trọng nhân nghĩa quá
đáng. Khi mọi người đều tôn thờ lợi lộc thì dồn cả tâm trí vào việc chiếm đoạt lợi lộc; dần
dần con người trở thành đạo tặc. Lão Tử không chủ trương dùng pháp luật để trị quốc mà
cổ võ cho sách lược đạo trị (vô vi) để vạn vật phát triển tự nhiên (không bày ra phép tắc,
xảo thuật để gò ép nhân dân). Theo ông, nếu muốn hướng thiện thì đừng trừng phạt kẻ
xấu mà nên dùng tư cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu. Chính sách quốc trị cao nhất là
đạo trị, rồi mới đến đức trị (nhân trị), và rồi đến pháp chế; chính sách xảo trị (dùng xảo
thuật để cầm quyền) là phương pháp thấp nhất vì lãnh tụ không còn được nhân dân tin
tưởng nữa mới dùng đến xảo thuật 23
Phê phán Nho gia vì lễ nghi phiền phức trói buộc con người vào vòng nghèo đói và tệ nạn
'giả nhân giả nghĩa và Đạo gia vì sách lược bất động không đem đến thực lợi cho nhân
dân, trường phái Triết học Mặc gia đã ra đời, khác với Đạo gia và đối lập với Nho gia cả
về nội dung tư tưởng lẫn chủ trương về nền tảng xã hội 24
Trong khi Khổng Mạnh và Lão Trang chỉ bàn về lý tưởng chính trị thì Mặc Tử nhấn
mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an bang tế thế. Đối với ông, hành động thực
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 5
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
dụng quan trọng hơn ngôn từ vì chỉ có hành động thực lợi mới chứng minh được sự hiểu
biết thật sự của bậc quân tử chân chính, phương tiện cũng không kém cứu cánh nếu chỉ
bàn mông lung về lý tưởng mà không có chương trình hành động cụ thể thì lý tưởng cũng
khó thành. Chủ trương 'tri hành hợp nhất' của Mặc Tử đòi hỏi 'tri thức' phải song hành
với 'ứng dụng,' tức là phải tự vấn xem vốn liếng hiểu biết của mình có khả năng thực hành
được không. Kẻ nào chỉ biết dùng đại ngôn nhưng khi va chạm thực tế mà không biết giải
quyết vấn đề thì chỉ là loại giả quân tử hay quân tử mồm mép vô tài đức 24
Mặc Tử không chấp nhận việc ký thác cuộc đời cho số mạng. Ông tin rằng muốn thay đổi
vạn vật thì phải bắt tay vào làm chứ không thể theo cách ngồi chờ thời. Khuôn phép cho

việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành xử theo minh ý của trời, chứ không
phải tin vào bói toán một cách mù quáng. Theo minh ý của trời là phải biết thương dân
bởi vì trời rất thương dân. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận
tình chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối
không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Mặc Tử không chủ trương phải tiến hành cách
mạng nhằm thay đổi các ông vua bất tài. Ông chủ trương rằng dân phải kính trọng lãnh tụ
quốc gia; và lãnh tụ quốc gia phải có lòng bác ái để thương dân bởi vì trời thương yêu dân,
và chỉ có thương dân thì mới tận tình chăm lo cho dân 24
Trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, một trong những trường phái có ảnh
hưởng đến sự thống nhất về tư tưởng và chính trị của xã hội Trung Quốc là tư tưởng Pháp
gia với đại biểu tiêu biểu là Hàn Phi Tử. Ông quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình
thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của
nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Ông quan niệm pháp luật là
công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng, khiến cho kẻ mạnh
không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người
trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha
con giữ gìn cho nhau 24
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một quan
niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê phán đời
nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ,
mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các
nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không
thể đem lại hiệu quả thực tế. Trong khi Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức
con người cũng như của chế độ, thì Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu
trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự 25
Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị
hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với
“thế”. Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận
giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh. Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so

với đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để
tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái
bẫy để hại dân. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 6
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
dân. Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để
quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội
là dùng pháp luật. Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế
để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh
tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Chủ
trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra nó là
một thứ cực hữu vi. Pháp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những những
yếu tố của những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết
vững chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc 25
Lịch sử triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy
là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh
giữa đường lối duy vật của Đê-mô-crít và đường lối duy tâm của Pla-tôn. Thời kỳ này, các
triết gia đã tìm cách xác định bản chất và ý nghĩa của những gì được gọi là xã hội tốt đẹp, nhà
nước và xã hội mẫu mực phải có những đặc điểm gì. Tư tưởng và cách lý giải của họ đã được
đúc kết lại thành những hệ thống quan điểm khác nhau về một nhà nước lý tưởng 27
Triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan điểm duy vật
(của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông
trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Ông đứng trên lập trường của chủ nô dân
chủ , bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “Cái nghèo trong
chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ giống như là tự
do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của
chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ. Ông coi nhà nước là trụ cột
của xã hội và cần trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức. Ông
chống phái chủ nô quý tộc mà ủng hộ chủ nô dân chủ, bởi theo ông, như vậy là bảo vệ quyền

lợi về kinh tế và gắn liền với sự phát triển công nghiệp, thương mại. Ông cũng ca ngợi tính ôn
hoà, tình thân ái và bảo vệ quyền lợi, lợi ích cũng tầng lớp dân tự do. Một cuộc sống được gọi
là hạnh phúc khi mình cảm thấy được tự do trong chế độ dân chủ, ngược lại nếu giàu có mà
sống trong chế độ quân chủ cũng như không 27
Platôn là học trò của Xôcrát, ông liên minh với phái triết học Pitago đấu tranh chống lại phái
chủ nô dân chủ và chống lại triết học của Đêmôcrit. Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính
thể cộng hoà), Pla-tôn chia linh hồn làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính.
Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà
thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng
thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng
lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là
đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của
họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải
vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống
đúng vị trí của mình 28
Quan điểm trị quốc của Phương đông và Phương Tây gồm hai đại diện tiêu biểu là Trung
Quốc và Hy Lạp đã phản ánh một cách rõ ràng và chân thực quan điểm trị quốc của các nhà
triết học thời kỳ cổ đại như những phân tích nói trên. Quan điểm trị quốc này thay đổi qua
nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn khác nhau đem lại sự phong phú trong phong cách trị quốc của
các nhà lãnh đạo. Chúng vừa có sự tương đồng, vừa có những điểm khác biệt, những tích cực
và hạn chế 29
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 7
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Sự tương đồng của các tư tưởng trị quốc thời cổ đại này là các quan điểm nói trên đều lấy
“nhân” làm trọng điểm, đề cao vấn đề đạo đức và chính trị - xã hội, luôn luôn hướng tới lợi ích
của nhân dân, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, đem lại cuộc sống ấm no và đầy đủ cho
muôn dân 29

CHƯƠNG I - TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài, chiến tranh
diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong các thời kỳ cổ đại,
đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời các hệ thống triết
học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà triết học
là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến quốc là
thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến đời sau
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 8
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
2. Triết học Nho gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử
phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Do
đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu
quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân
tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo",
phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức
cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức để
làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và ngũ thường là
chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là chuẩn mực đạo đức
mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi người tuân theo tam cương,
ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự, thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là tình
người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng tình người.

Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập thân, mình muốn
thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở đây có nghĩa là mang danh
nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh đó quy định. Tất cả phải có tôn ti,
thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu
sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc. Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì
lời nói không thuận. Lời nói không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ
vẫn thường được mọi người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã
được những người sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 9
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
3. Triết học đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại, ra đời
sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được
Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong bối cảnh tầng lớp
quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện
chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng về thế
giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải quyết những vấn đề do thời
đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến
việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo,
khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông, chính phủ yên tĩnh vô vi
thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử
cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ
trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại
cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời
đại nguyên thuỷ chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào
đạo (tự nhiên).

4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập, phát
triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng của tầng lớp
dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với Nho giáo, Đạo giáo,
Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính trong thời Xuân Thu và Chiến
Quốc.
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 10
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho được cứu
cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như Khổng hay Mạnh.
Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng tiến.
Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh giá tất cả
các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu không có lợi cho
nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái 'dụng' của sự việc cũng không
nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự
mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa, lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo minh ý
của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách mù quáng. Lãnh
tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình chăm lo cho đời sống của
dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp
dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc là sách lược bác ái bao gồm các chính sách
khuyến khích tinh thần bác ái trong quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong
xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết trọng dụng
nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa ra quan niệm bình
đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương thời và đả kích tệ nạn bám
víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì
người tài đức - vào các trách vụ quan trọng.

Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh đạo
quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang nhưng không
đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với nhiều
thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước cổ đại có nền
văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân loại. Về tư tưởng, lịch
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 11
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN)
là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ
sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học
thuyết pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác
giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn
thiện bởi Hàn Phi Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai
trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Thế, Thuật,
và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị
nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện
bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương
pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế
vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có luật
pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có
"Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1- Chủ quyền (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2- Vua phải được tôn kính tuân
theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết
thì phải chết, không chết tức là bất trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì

thưởng và phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua
chỉ cần dùng thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ
chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ
mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia
thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay
phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 12
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền:
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những
nguyên tắc chính như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ
hiểu, dễ thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt,
xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm
chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển
người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực
hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía cạnh:
Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để
chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò
xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và
dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư
tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật",
"Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy
nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp

gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ trương dùng phép
trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết
quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc
sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 13
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II – TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 14
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu
sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử-chế
độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển
tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã
hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo
ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân
loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất
yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian,
trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người tưởng
tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm
linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là
nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình
tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…

Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là
kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất
của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức sản xuất thứ
hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan
và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa thoát
khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 15
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng
định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở
đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp
và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện
chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường
xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng
của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmôcrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy Lạp cổ đại,
sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ Tơraxia, ven bờ phía
Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là học trò của
Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát triển nó thành một học
thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.

Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái niệm nguyên
tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không tồn tại”. Trái với quan
niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định được, cái đa dạng, cái có ngoại
hình…
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng là cái
không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì các vật thể nằm
trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng, cái phần vật chất thuộc
cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận được
bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa dạng, tự thân
không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể. Đêmôcrít cho rằng mọi sự
vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không. Sự xuất hiện, tồn
tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết hợp của các nguyên tử hay phân tâm của
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 16
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó
chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt động
tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh. Theo ông, linh
hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc biệt có cấu hình, linh
động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn
và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng với sự
tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận động và tồn tại
của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động nhận thức của con người
theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác và nhận thức lý tính. Sự khác nhau
giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít
chưa phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác
nhau đơn thuần về lượng, cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất

coi tư duy chỉ là sự hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp dân chủ
chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là hợp đạo lý, nền
tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo
đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói mà ở việc làm. Mục tiêu của con
người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu
có, mà là sự thanh thản tâm hồn được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà
nguyên tử luận nghiêng về lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý tộc tại
Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử, một người bạn
trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động mạnh mẽ tới tâm thức
Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng và cả giai cấp quý tộc
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 17
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị.
Trong những tác phẩm của ông, nổi tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà
(Republic). Có thể nói đó là một cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử
nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong mô hình
“Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời. Trong mô hình quốc
gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề của đời sống mà xã hội chúng
ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi
người luôn được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo
ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ rệt
tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo tức là
những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người tham gia vào quan

đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người buôn bán và sản xuất lương
thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi
cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh
đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc
này không được sở hữu bất cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông
nghiệp cũng không được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng theo
từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và xây dựng đời
sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có chiến tranh, kể cả ngoại
chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là những triết gia vì những người như
họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ không được tham nhũng vơ vét của cải của
dân. Những của cải của người dân làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để
không ai quá giàu hoặc quá nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 18
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
hình nằm sâu vào trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông,
thủ công nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều có cơ
hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang nhau. Trong chế
độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối, nếu không có
năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo “chất
liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội lực bên trong
từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 19
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III – NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc

Nếu như Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và Trung
Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn
minh ấy. Tuy nhiên, nhắc đến các tư tưởng, quan điểm về trị quốc thì các học thuyết triết
học Trung Quốc là nổi bật hơn cả. Đó là các học thuyết lớn và có giá trị kế thừa đến tận
ngày nay.
Theo dòng lịch sử, một trong những tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại đầu
tiên được nhắc đến là tư tưởng triết học Nho gia và nhân vật nổi bật của tư tưởng này là
Khổng Tử - người sáng lập học thuyết này ở Trung Quốc. Lịch sử triết học Nho gia về
cơ bản có sự khác nhau ở các giai đoạn : từ lúc định hình và làm kim chỉ nam thời Tiên,
Tần, đến các thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,…Nhưng quan điểm của học
thuyết này thực sự được nhà nước phong kiến khôn khéo vận dụng để trị quốc từ thời
Nhà Hán, đây là thời kỳ Nho giáo lên ngôi chiếm lĩnh vị trí trọng yếu trong chiến lược
xây dựng, vận hành của nhà nước phong kiến, trong giáo dục và trong thực tiễn ứng xử
xã hội. Với tình trạng loạn ly do chiến tranh triền miên thời bấy giờ cùng với tấm lòng
nhân ái thương dân của Khổng Tử khiến ông phải gầy dựng sách lược quốc trị cấp tiến
với mục đích cải tạo xã hội nhằm đạt được quốc thái dân an. Theo ông, “nhân đạo chính
vi đại” (đạo người thì chính trị là lớn); vì vậy cho nên chính trường trở thành nơi bậc
quân tử áp dụng phương pháp canh tân con người và xã hội theo Khổng giáo để an định
quốc gia. Sinh trưởng trong xã hội phong kiến (do vua chúa chi phối) vì vậy mà ông
không thoát khỏi chiều hướng tôn quân đương thời (vua năm trọn quyền hành và vận
mệnh của quốc gia). Chính vì lẽ đó, Khổng Tử chú trọng vào việc “trồng người” và sách
lược quốc trị của ông nhắm vào việc đào tạo “con người chính trị” hơn là xây dựng “hệ
thống chính trị”. Ông quan tâm đến việc hướng dẫn giai cấp lãnh đạo quốc gia tu thân để
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 20
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
biết thương dân và trị nước một cách anh minh, muốn như vậy người lãnh tụ quốc gia
phải hành đạo Nhân, luôn tu thân và xử sự như bậc quân tử, phải có “chính danh” tức
phải xưng danh đúng với phận và một khi đã xưng danh thì phải làm đúng theo như vậy.
“Nói một đường làm một nẻo” là đi sai với chính danh và có thể làm tiêu tan chính danh,

do đó bậc quân tử phải cẩn thận cân nhắc từng lời trong việc xưng danh định phận và cố
gắng hành động đúng với chức danh tiên định. Nhà lãnh đạo có chính danh mới kêu gọi
được sự ủng hộ của mọi người, nếu không có chính danh hay đánh mất đi chính danh vì
các hành động sai trái thì khó mà được lòng dân. Chủ nghĩa chính danh được xem là
điểm quan trọng nhất trong triết học của Khổng Tử và tương đối phù hợp với chủ trương
“chính giả chính giã”(chấp chánh hay việc chính trị phải minh chánh và ngay thẳng) của
ông. Quân tử phải biết phân biệt phải trái khi định danh hay xưng danh. Kẻ xấu không thể
được gọi là người tốt và bạo quân không thể được tôn trọng như minh quân bởi vì làm
như vậy không khác gì ngụy biện làm ố danh tức “danh bất chính”.
Theo Khổng Tử, trật tự quốc gia đòi hỏi toàn thể nhân dân đặt thiên tử vào vai trò
lãnh đạo tối cao. Nhu cầu đoàn kết quốc gia để tránh thảm trạng chư hầu thôn tính lẫn
nhau đem đến vô vàn đau khổ cho nhân dân khiến Khổng Tử chủ trương tôn quân một
cách tuyệt đối - thần phục Chu triều. Làm vua thì phải ra làm vua tức là vua phải xử xự
như nhà lãnh đạo quốc gia vì khi vua, quan không làm tròn trách nhiệm của mình thì
quốc gia sẽ bị đại loạn, lãnh đạo kém anh minh, quần thần sẽ trở nên quan liêu, bòn rút
của dân khiến cho xã hội trở nên bất an, nhân dân sẽ rơi vào lầm than và bất phục chính
quyền, lúc này sẽ khiến quốc gia trở nên xáo trộn. Ðối với thần dân mà dùng công minh
để trị thì hiếm ai có thể bất nghĩa với mình; nhưng nếu bất chính với họ thì không thể bắt
buộc họ trung chính với mình.
Khổng Tử không chú trọng về chiều hướng pháp chế, vì ông suy luận rằng chủ trương
pháp chế chỉ là hạ sách để trị quốc. Quốc gia không thể không có luật pháp và hình phạt
nhưng bậc lãnh đạo trước hết phải áp dụng phương pháp nhân trị để quản thống quốc sự
thì mới mong đạt được an bang tế thế. Theo ông, sử dụng luật pháp để trị quốc chỉ có thể
làm dân sợ nhưng không thể khiến họ kính nể mà tuân phục một cách tự nhiên; ngược lại,
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 21
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
nếu sử dụng nhân đức để trị nước thì sẽ được dân nể phục mà theo. Việc chính trị mà
dùng đến hình pháp thì dân có thể tránh được tội nhưng không tự cảm thấy hổ thẹn (để
sửa mình tu thân), nhưng nếu biết dùng đến đức mà dạy dân, dùng lễ mà trị dân thì dân

không những tự biết sỉ nhục mà còn cố làm điều tốt. Về lĩnh vực dân sinh, nhà trị quốc
luôn lưu phải lưu tâm hai vấn đề quan trọng là giúp cho dân giàu và khi dân giàu phải
giáo dục dân về đạo đức, lễ nghĩa. Khi mà dân ít thì rán làm cho dân số tăng lên nhưng
lúc đã có nhiều dân thì phải giúp cho dân giàu bởi vì có thực mới vực được đạo; và khi
dân đã no ấm thì phải dạy cho dân luân thường đạo lý. 'Nếu không dạy dân mà đem ra
giết thì điều ác đó gọi là ngược, nếu không chăm sóc nhắc nhở mà bắt dân phải thành
nhân thì điều ác đó gọi là bạo. Dân mà không giàu thì quốc gia không hùng cường; dân
mà không biết luân lý lễ nghĩa thì quốc gia tất loạn. Chính sách quốc gia phải chú trọng
ba lĩnh vực: lo cho dân no ấm, xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh và làm cho
dân tin tưởng nơi chính quyền. Tuy phải lo cho dân ấm no, chính sách quốc gia phải đặt
mục tiêu 'tạo niềm tin nơi dân' trên hết, trên cả việc quốc phòng và sự no ấm của dân. Khi
dân đã tin tưởng vào chính quyền thì đó là sức mạnh vô biên giúp cho việc xây dựng
quốc gia thành công tương đối dễ dàng; nhưng khi dân không tin vào chính quyền thì dẫu
có được no ấm thì họ cũng không phục nhà lãnh đạo, và sức mạnh muôn binh cũng
không khiến họ sợ. Nhà lãnh đạo phải biết thương dân, hiểu cái đạo của rời đất để biết
khi tiến, khi thủ, khi lùi. Tuy nhiên, thực tế khó kiếm ra được mẫu người quân tử như
vậy, nhà cầm quyền dẫu có anh minh bao nhiêu nếu không bị kiểm soát dễ sa vào hắc lộ
lạm quyền.
Tương tự như Khổng Tử, Lão Tử sinh trưởng trong giai đoạn chiến tranh triền miên
cho nên rất ưu tư về vấn đề quốc trị. Ông thấy là dân đói vì người trên lấy thuế nhiều cho
nên dân đói, dân khó trị vì người trên theo hữu vi cho nên dân khó trị, thiên hạ nhiều
kiêng kỵ thì dân càng nghèo; dân nhiều lợi khí thì quốc gia thêm mờ tối, người càng
nhiều xảo thuật thì vật kỳ lạ càng xuất hiện, pháp luật càng sáng tỏ thì trộm cướp càng
nhiều. Và vì nhận xét như vậy cho nên Lão Tử chủ trương rằng lãnh tụ quốc gia phải áp
dụng sách lược vô vi để trở về (phản phục) với đạo hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 22
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
có thể an bang tế thế, Đạo gia đã được hình thành từ đây. Ông cho rằng đường lối quốc
trị tốt nhất là đường lối vô vi: lo cho dân no ấm, mạnh khỏe và dạy cho dân sống tự nhiên

hợp với môi trường xung quanh, không suy nghĩ hay thèm thuồng mỹ vật. Một khi dân
được ấm no, không bệnh tật và không ham chuộng của quý vật lạ cũng như không có nhu
cầu khoe tài hay ganh đua để được lãnh tụ yêu mến thì dân đã thấm nhuần tinh thần vô vi
(không làm); và khi đã theo vô vi rồi thì dẫu có kẻ tài trí, tham lam xách động nhân dân
nổi loạn thì họ cũng không làm (vô vi).
Lãnh tụ thì phải biết thương dân, không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi dân làm sai rồi
hành hạ, giam cầm, xử trảm mà phải có nhiệm vụ chỉ bảo nhân dân hướng thiện theo đạo
chứ không thể đem cái chết ra hăm dọa nhân dân. Tương tự như con thú khi bị dồn vào
chân tường thì cắn lại, nhân dân khi bị bóc lột, khổ sở hết mức thì hết sợ chết; mà khi
nhân dân hết sợ chết thì sự dọa nạt của lãnh tụ trở nên vô dụng. Kẻ nào dùng bạo lực để
trị quốc thì hiếm khi không bị thương ở tay. Thái độ của dân phản ảnh tư cách và khả
năng của giới lãnh đạo quốc gia.
Chính sách quốc trị căn bản theo vô vi đòi hỏi thành phần lãnh đạo quốc gia phải
'tuyệt thánh bỏ trí, tuyệt nhân bỏ nghĩa, tuyệt xảo thuật bỏ lợi'. Lão Tử cũng khuyên là
đừng nên đề cao nhân nghĩa quá đáng. Loài người sống trong xã hội hỗn loạn có thể được
hướng dẫn làm điều lành, việc thiện; nhưng nếu lãnh tụ quốc gia đề cao nhân nghĩa bề
ngoài mà không chú trọng tâm phục thì nhân nghĩa trở thành cái vỏ lễ nghi tốn kém đè
chết nhân dân: kẻ dưới phải nịnh bợ, đút lót bề trên và hà hiếp cũng như chà đạp người ở
dưới hơn. Việc tôn trọng lợi lộc cũng đem đến tình trạng bi thảm như việc tôn trọng nhân
nghĩa quá đáng. Khi mọi người đều tôn thờ lợi lộc thì dồn cả tâm trí vào việc chiếm đoạt
lợi lộc; dần dần con người trở thành đạo tặc. Lão Tử không chủ trương dùng pháp luật để
trị quốc mà cổ võ cho sách lược đạo trị (vô vi) để vạn vật phát triển tự nhiên (không bày
ra phép tắc, xảo thuật để gò ép nhân dân). Theo ông, nếu muốn hướng thiện thì đừng
trừng phạt kẻ xấu mà nên dùng tư cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu. Chính sách quốc
trị cao nhất là đạo trị, rồi mới đến đức trị (nhân trị), và rồi đến pháp chế; chính sách xảo
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 23
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
trị (dùng xảo thuật để cầm quyền) là phương pháp thấp nhất vì lãnh tụ không còn được
nhân dân tin tưởng nữa mới dùng đến xảo thuật.

Phê phán Nho gia vì lễ nghi phiền phức trói buộc con người vào vòng nghèo đói
và tệ nạn 'giả nhân giả nghĩa và Đạo gia vì sách lược bất động không đem đến thực lợi
cho nhân dân, trường phái Triết học Mặc gia đã ra đời, khác với Đạo gia và đối lập với
Nho gia cả về nội dung tư tưởng lẫn chủ trương về nền tảng xã hội.
Trong khi Khổng Mạnh và Lão Trang chỉ bàn về lý tưởng chính trị thì Mặc Tử
nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an bang tế thế. Đối với ông, hành động
thực dụng quan trọng hơn ngôn từ vì chỉ có hành động thực lợi mới chứng minh được sự
hiểu biết thật sự của bậc quân tử chân chính, phương tiện cũng không kém cứu cánh nếu
chỉ bàn mông lung về lý tưởng mà không có chương trình hành động cụ thể thì lý tưởng
cũng khó thành. Chủ trương 'tri hành hợp nhất' của Mặc Tử đòi hỏi 'tri thức' phải song
hành với 'ứng dụng,' tức là phải tự vấn xem vốn liếng hiểu biết của mình có khả năng
thực hành được không. Kẻ nào chỉ biết dùng đại ngôn nhưng khi va chạm thực tế mà
không biết giải quyết vấn đề thì chỉ là loại giả quân tử hay quân tử mồm mép vô tài đức.
Mặc Tử không chấp nhận việc ký thác cuộc đời cho số mạng. Ông tin rằng muốn
thay đổi vạn vật thì phải bắt tay vào làm chứ không thể theo cách ngồi chờ thời. Khuôn
phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành xử theo minh ý của trời, chứ
không phải tin vào bói toán một cách mù quáng. Theo minh ý của trời là phải biết thương
dân bởi vì trời rất thương dân. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải
tận tình chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Mặc Tử không chủ trương phải tiến hành cách
mạng nhằm thay đổi các ông vua bất tài. Ông chủ trương rằng dân phải kính trọng lãnh tụ
quốc gia; và lãnh tụ quốc gia phải có lòng bác ái để thương dân bởi vì trời thương yêu
dân, và chỉ có thương dân thì mới tận tình chăm lo cho dân.
Trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, một trong những trường phái
có ảnh hưởng đến sự thống nhất về tư tưởng và chính trị của xã hội Trung Quốc là tư
tưởng Pháp gia với đại biểu tiêu biểu là Hàn Phi Tử. Ông quan niệm nhà vua cũng chỉ là
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 24
Tiểu Luận Triết Học
GV : T.S Bùi Văn Mưa
người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là

ông vua của nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Ông quan niệm
pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng, khiến cho
kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa
lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân
yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê
phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng,
mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của
đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con
nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế. Trong khi Đạo gia nhấn mạnh đến tính
tương đối của tri thức con người cũng như của chế độ, thì Pháp gia đi đến kết luận rằng,
cần phải lấy yêu cầu trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính
sự.
Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận
pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật”
với “thế”. Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố
rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh. Đây là một tư tưởng hết sức tiến
bộ so với đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp
luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không
phải là cái bẫy để hại dân. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để
vua cai trị thần dân. Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho giáo
(vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất
để quản lý xã hội là dùng pháp luật. Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh
trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về
chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới,
Nhóm 5 – Lê Uyên Phương Page 25

×