Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC










TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Đề tài 13

QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA
CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI






SVTH : HUỲNH NAM QUANG
STT : 83
NHÓM : 5
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA





TP Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2011



























TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2011




Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 1

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƢƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 3
1. Giới thiệu 3
2. Triết học Nho Gia 3
3. Triết học Đạo gia 4
4. Triết học Mặc gia 5
5. Triết học Pháp gia 6
CHƢƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 8
1. Giới thiệu 8
2. Quan điểm Đêmôcrít 9
3. Quan điểm Platon 10
CHƢƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN VỀ QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC 12
1. Quan điểm về con ngƣời 12
2. Quan điểm về kinh tế 13
3. Quan điểm về xã hội 14
4. Quan điểm về chính trị 19
5. Nhận định chung về các tƣ tƣởng trị quốc 23
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
PHỤ LỤC : CHÂN DUNG CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI 28


Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 2

LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đƣờng lối, chiến lƣợc trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm đƣợc
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tƣ tƣởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tƣ tƣởng triết học, nhƣng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chƣơng trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phƣơng Tây lẫn phƣơng Đông và là một vấn đề mang tính chất
thực tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lƣợc về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài đƣợc chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phƣơng Đông, nội dung trị quốc đƣợc phân tích thông
qua các tƣ tƣởng triết học Trung Quốc cổ đại nhƣ Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phƣơng Tây, khía cạnh này lại đƣợc mổ xẻ thông
qua tƣ tƣởng Đêmôcrít và Platon của triết học Hy Lạp.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 3


CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu

Trung Quốc là một nƣớc có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho
sự ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ
gắn liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức, thƣờng những nhà
triết học là những nhà chính trị, ông quan tham mƣu cho các vƣơng triều đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết giá trị .
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo đƣợc hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tƣ tƣởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực
truyền bá các tƣ tƣởng đó. Do đó, sau này ông đƣợc xem là ngƣời sáng lập ra
Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho đƣợc ngƣời cai trị kiểu mẫu - ngƣời lý tƣởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành ngƣời quân tử, con ngƣời ta
trƣớc hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, ngƣời quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ
đức, để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cƣơng và
ngũ thƣờng là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức
là chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 4


mọi ngƣời tuân theo tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức thì xã hội đƣợc
trật tự, thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đƣa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình ngƣời, ngƣời có nhân là ngƣời biết yêu thƣơng ngƣời khác, phải cai trị bằng
tình ngƣời. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp ngƣời khác
lập thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp ngƣời khác thành đạt”. Chính danh
ở đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho đƣợc những điều mà
danh đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu
tất cả mọi ngƣời đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn
lạc. Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận.
Lời nói không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thƣờng
đƣợc mọi ngƣời nhắc lại. Nói ngắn gọn hơn, quan điểm này đã đƣợc những
ngƣời sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hƣng thịnh của Nho giáo. Đạo gia đƣợc Lão Tử sáng lập ra và
sau đó đƣợc Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu đƣợc tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh
và bộ Nam hoa kinh. Những tƣ tƣởng triết học cơ bản của trƣờng phái Đạo gia
đƣợc thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan
niệm biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm
giải quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhƣng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trƣơng xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt

Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 5

đạo đức, pháp luật đối với con ngƣời để trả lại cho con ngƣời cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ƣớc đƣa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ƣớc cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con ngƣời vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trƣờng phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cƣ tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trƣờng phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phƣơng tiện để đạt cho
đƣợc cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phƣơng tiện nhƣ
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phƣơng pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Ngƣời quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để
đánh giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhƣng
nếu không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' và 'nghĩa là lợi'.
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thƣơng dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tƣ lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt đƣợc sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lƣợc quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lƣợc bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trƣơng lãnh đạo quốc gia phải biết

trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đƣa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đƣơng
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 6

thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân-thay vì ngƣời tài đức-vào các trách vụ quan trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trƣơng chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhƣng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phƣơng Đông đƣợc coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử. Về tƣ tƣởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có
hai thời kỳ đƣợc nói đến nhiều nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh
sống của Lão Tử và Khổng Tử và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh
sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao.
Học thuyết pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi các tác giả xuất sắc nhƣ: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thƣơng
Ƣởng và đƣợc hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử Tƣ tƣởng Pháp gia mà đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nƣớc và
phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Trong phép trị nƣớc, Hàn Phi Tử là ngƣời đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đƣờng lối trị nƣớc bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị đƣợc thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phƣơng tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phƣơng pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vƣơng.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu đƣợc trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và đƣợc dân tuyệt đối tôn trọng thi hành
thì nhà vua phải có "Thế". Thế chủ trƣơng: 1- Chủ quyền tập trung cả vào một

ngƣời là vua; 2- Vua phải đƣợc tôn kính tuân theo triệt để, dân không đƣợc
quyền làm cách mạng, không đƣợc trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không
chết tức là bất trung. 3- Đƣa sự thƣởng phạt lên hàng quốc sách vì thƣởng và
phạt là phƣơng tiện hiệu nghiệm nhất để cƣỡng chế. Muốn cho nƣớc trị thì vua
chỉ cần dùng thƣởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 7

"Pháp" đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nƣớc; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tƣ
tƣởng Pháp trị của pháp gia thời trƣớc, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thƣởng hay phạt đều đƣợc dân tin chắc là thi hành,
thƣởng ngƣời cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, nhƣ vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trƣơng của Pháp
gia, là vua tƣợng trƣng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành
pháp, tƣ pháp. "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận,
phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối,
đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trƣớc hết là cách thức, phƣơng thức, mƣu lƣợc, thủ đoạn trong
việc tuyển ngƣời, dùng ngƣời, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó
pháp luật đƣợc thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn
Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: kỹ thuật, là phƣơng án để tuyển, dùng, xét khả
năng quan lại; Tâm thuật tức mƣu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm
của họ ra. Nói ngƣợc lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của ngƣời;
Ngầm hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa đƣợc … cũng nhƣ Tâm thuật,
Kỹ thuật đƣợc Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng ngƣời.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nƣớc của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tƣ tƣởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tƣ tƣởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa đƣợc phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau

trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tƣ tƣởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nƣớc, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nƣớc có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" đƣợc.
Pháp gia của Hàn Phi Tử đƣợc coi là trƣờng phái triết học đầu tiên chủ
trƣơng dùng phép trị để trị nƣớc. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã đƣợc Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đƣa nƣớc Tần đến thành công trong việc
thống nhất đƣợc đất nƣớc Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 8


CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tƣ duy con ngƣời có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tƣ tƣởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nƣớc của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
ngƣời tƣởng tƣợng, diễn giải về các hiện tƣợng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng nhƣ muôn mặt của đời

sống thƣờng ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tƣ duy triết học ra đời và từng
bƣớc triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tƣ duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con ngƣời, …
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 9

Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phƣơng thức sản xuất thứ nhất đến phƣơng thức
sản xuất thứ hai ở phƣơng Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
ngƣời, mặc dầu chƣa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhƣng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ, …
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con ngƣời,
khẳng định con ngƣời là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con ngƣời ở đây cũng chỉ là con ngƣời cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tƣợng trong một khối duy
nhất thƣờng xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tƣ
tƣởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên
của phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmôcrít
Đêmôcrít - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy

Lạp cổ đại, sinh trƣởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê. Ông là học trò của Lơxíp và là ngƣời kế
tục tƣ tƣởng của Lơxip về nguyên tử và phát triển nó thành một học thuyết gắn
liền với tƣ tƣởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử đƣợc xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon, tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
đƣợc, cái đa dạng, cái có ngoại hình, …
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hƣởng gì
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động đƣợc trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào đƣợc gọi là nguyên tử.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 10

Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia đƣợc, nhỏ bé có thể cảm nhận
đƣợc bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều đƣợc tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đƣa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, đƣợc cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động nhƣ ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hƣng phấn và vận động.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trƣờng của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Athènes. Ông coi chế độ nô lệ
là hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nƣớc của giai cấp chủ nô. Ông có những
quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức, phẩm chất con ngƣời theo ông không phải ở

lời nói mà ở việc làm. Mục tiêu của con ngƣời, theo ông là hƣớng tới tự do và
hạnh phúc, nhƣng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm
hồn đƣợc tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận
nghiêng về lập trƣờng vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi
quý tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một ngƣời đệ
tử, một ngƣời bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tƣ tƣởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thƣ vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tƣ tƣởng về chính trị xã hội của Platon đƣợc gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tƣởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 11

Trong mô hình quốc gia lí tƣởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi ngƣời luôn đƣợc sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tƣởng của Platon đƣợc phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tƣơng ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những ngƣời
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thƣơng nhân tức là những ngƣời
buôn bán và sản xuất lƣơng thực. Quốc gia lí tƣởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều đƣợc gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nƣớc. Ngƣời lãnh đạo lý tƣởng tất nhiên không ai

khác hơn là giai cấp quý tộc nhƣng những ngƣời quý tộc này không đƣợc sở hữu
bất cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
đƣợc có sự quá chênh lệch giữa mọi ngƣời.
Về quan hệ xã hội thì mọi ngƣời đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã đƣợc phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo
vệ và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi ngƣời đều phải đƣợc học hành, không
có chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những ngƣời nhƣ họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không đƣợc tham nhũng vơ vét của cải của dân. Ông chủ trƣơng một nhà nƣớc lí
tƣởng cần phải có địa hình nằm sâu vào trong đất liền để tránh giao thƣơng buôn
bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng
đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu
ngang nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha
truyền con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” nhƣ vậy tất nhiên đã bảo đảm đƣợc phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 12

CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN VỀ QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC

Mỗi nhà tƣ tƣởng, ở mỗi thời kỳ lịch sử thậm chí trong cùng thời kỳ có
những cách nhìn nhận rất khác nhau về lịch sử, về giá trị con ngƣời, về đạo đức,
về giáo dục, về xã hội, về chính trị, về nhà nƣớc,…
1. Quan điểm về con người
Khổng Tử rất chú trọng đạo đức, đặc biệt đạo làm ngƣời trong xã hội phong
kiến. Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu
nhƣng suy đến cùng đạo đức ấy là đạo làm ngƣời ấy bao gồm hai chữ “nhân

nghĩa”. Một trong những tích cực đó là đặt rõ vấn đề ngƣời quân tử, tức là ngƣời
lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả, dù nguyên tắc ấy không đƣợc thực
hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh,
Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội.
Là một nhà giáo dục lớn, Khổng Tử cho rằng tri thức không phải ngẫu nhiên
mà có, nó chỉ có đƣợc khi ngƣời ta chịu khó học tập, tu dƣỡng. Nếu không học
thì dù có thiện tâm, nhân đức, trung tín đến dâu cũng bị cái ngu muội, phản loạn
che mờ. Mục đích của học, theo Khổng Tử không chỉ để biết đạo, “khắc kỷ phục
lễ vi nhân” mà điều quan trọng là để làm quan, tham gia chính sự quốc gia. Ông
chỉ rõ: “Trong lúc xã hội rối ren, không ra làm quan không phải là ngƣời nhân”
Theo Đạo gia, Lão Tử yêu cầu con ngƣời cần phải “thuận theo tự nhiên”,
không đƣợc làm trái quy luật tự nhiên, không đƣợc cải tạo tự nhiên theo những
toan tính lợi ích tầm thƣờng của mình.Với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và
luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con ngƣời cần tránh mọi cực đoan, thái quá,
nóng vội, chủ quan duy ý chí… Đạo gia còn dạy con ngƣời phải biết sống khiêm
tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trƣớc mọi
biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh,
giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ…
Theo các triết gia pháp gia mà ngƣời đại diện là Hàn Phi, nhấn mạnh tính
vƣợt trội của nhà nƣớc so với quyền cá nhân. Cá nhân trong xã hội cô độc không
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 13

có các quyền cá nhân hợp pháp và bất kỳ quyền tự do cá nhân nào cũng phải bị
hạn chế để tăng cƣờng sức mạnh của vị vua cai trị.
Ở Hy Lạp thời kỳ cổ đại này, có rất nhiều nhà tƣ tƣởng lớn đại biểu xuất sắc
là Đêmôcrít và Platon. Về đạo đức, Đêmôcrít đánh giá cao lòng nhân ái và tình
bạn. Con ngƣời phải sống có đức hạnh, trung thực và chính trực, dù trong hoàn
cảnh bất hạnh đi chăng nữa. Ông đề cao giáo dục, đề cao trí tuệ và cho rằng con
ngƣời có thể đạt đƣợc đức hạnh bằng trí tuệ, giáo dục và học vấn; muốn có học

vấn thì cần phải hội đủ ba điều kiện: năng lực thiên phú, rèn luyện và thời gian.
Ông đề cao sự chuyên cần, chăm chỉ và kiên nhẫn trong học tập, không phải con
ngƣời sinh ra đã định sẵn là giỏi hay dở, mà còn vì rèn luyện mà nên.
Về giáo dục, Platon quan điểm giáo dục là một phƣơng pháp nhằm bảo vệ và
duy trì nhà nƣớc. Platon đề cao việc giáo dục và tự giáo dục, coi đây là vấn đề
vô cùng thiết yếu mà nhà nƣớc cần quan tâm. Điều này là hợp lý vì trong bất cứ
một xã hội nào, con ngƣời ta cũng cần phải có tri thức và đội ngũ trí thức chính
là phần không thể thiếu đƣợc của một quốc gia vững mạnh. Ngƣời cai trị cần
phải học đến nơi đến chốn mới có thể biết đƣợc thuật trị nƣớc
2. Quan điểm về kinh tế
Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo có đủ phƣơng
tiện, mƣu cầu quốc gia phú cƣờng, bằng chính sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề
xƣớng. Hàn Phi coi phú cƣờng là mục tiêu tối cao của quốc gia. Để đạt tới mục
tiêu phú cƣờng đó, Hàn Phi chủ trƣơng áp dụng chính sách "Canh chiến", đƣa
hết trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Đƣợc nhƣ vậy thì vào thời bình,
nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nƣớc giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích;
một khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã đƣợc tổ chức sẵn trong thời
bình, đều trở thành lính chiến, có thể đƣa ngay ra chiến trƣờng chống giặc, nhƣ
Hàn Phi đã nói: vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cƣờng" và "Hữu nạn tắc
dụng kỳ tử, an bình tắc dụng kỳ lực.
Theo Platon thì con ngƣời luôn bị chi phối bởi lòng tham lam và ích kỷ do
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 14

vậy họ thƣờng không cam phận trong những cái gì họ đã có mà luôn tìm cách sở
hữu những cái họ chƣa có, kể cả những vật của ngƣời khác, nhƣng lòng tham
không bao giờ đƣợc thỏa mãn, từ đó xảy ra cƣớp giựt, chiến tranh, xâm lấn đất
đai, chiếm giữ tài nguyên, Platon nhận thấy rằng kinh tế còn tác động tới nền
chính trị và quốc gia; lịch sử cho thấy khi một nền kinh tế phát triển hay suy sụp
thì nó cũng kéo theo sự phát sinh ra những giai cấp mới. Đối với vấn đề bế môn

toả cảng ngăn chận phát triển kinh tế để bảo vệ nhà nƣớc là một sai lầm nghiêm
trọng bởi chúng ta đâu có cản ngăn đƣợc những cái từ bên ngoài đƣa vào mà
quan trọng là ta phải củng cố nội lực để nó không làm mình biến chất, đó là xu
hƣớng đi ngƣợc lại với xu hƣớng thời đại.
3. Quan điểm về xã hội
Về mặt xã hội, Nho giáo, mà đại diện là Khổng Tử chủ trƣơng dùng “Nhân”
để giáo hoá con ngƣời, cải biến xã hội từ loạn thành trị của Nho gia đã biểu hiện
tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho, đã xây dựng mối quan hệ xã hội rộng
rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tự hơn, … vƣợt quá phạm vi cục bộ là các
làng xã, thô, ấp hƣớng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối
quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ti hơn, …. Nho học khích lệ lòng nhân ái
của con ngƣời, dạy ngƣời đời trung thành với bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, tín
nghĩa với bạn bè. Nghĩa là nhất nhất đều phải giữ đúng chữ "Lễ", rất có lợi cho
trật tự xã hội, càng có lợi cho tầng lớp lãnh đạo quốc gia cũng nhƣ bậc phụ
huynh trong gia đình.
Tƣ tƣởng “nhân nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý,
nội dung từng thời kỳ có thêm bớt nhƣng căn bản vẫn là những lễ giáo phong
kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buột con ngƣời vào khuôn khổ pháp
lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Đặc biệt, Nho giáo đặt
mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa ngƣời với ngƣời.
Nho giáo tuyệt đối sự trung thành của các tầng lớp nhân dân đối với nhà vua và
chế độ phong kiến.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 15

Bên cạnh những tƣ tƣởng tiến bộ của Nho gia cũng có một số hạn chế, đó
là lối sống gia trƣởng trong gia đình, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ. Trong gia
đình ngƣời cha, ngƣời chồng, ngƣời anh cả là ngƣời có quyền lực cao nhất,
ngƣời phụ nữ trong gia đình bị phụ thuộc vào chồng, không có quyền tham gia
vào những việc đại sự trong gia đình. Đặc biệt đạo “tam tòng” đã trói buộc

ngƣời phụ nữ họ không có quyền tự quyết định cuộc đời và tƣơng lai của mình.
Muốn xây dựng một xã hội dân chủ tự do, trƣớc hết phải bồi dƣỡng cho tâm hồn
cởi mở. Triết lý của Khổng Tử có từ trƣớc đây hai ngàn năm, đã chứa đựng tƣ
tƣởng đó rồi, chỉ tiếc là, trong xã hội Trung Hoa truyền thống, lại thiếu hẳn môi
trƣờng tƣơng ứng để phát triển tƣ tƣởng cởi mở đó.
Trong khi đó, Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất
mãn thế cuộc nhiễu nhƣơng, đầy cạm bẫy nhƣ thời Xuân Thu Chiến Quốc, có
đƣợc một lẽ sống riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh
đƣợc lối phản kháng bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể,
khiến cho xã hội mà mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren.
Trong khi Nho giáo vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội,
và với Hán Nho, nó đã thực sự trở thành một vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo
giáo, trên cơ sở thuyết vô vi, lại mang sẵn trong mình tƣ tƣởng phản kháng giai
cấp thống trị. Đạo gia chủ trƣơng đƣờng lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại
chủ trƣơng “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó
là sự áp đặt, cƣỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con ngƣời. Lão Tử
lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đƣơng thời và ông gọi giới quý tộc thống trị là
bọn ăn bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng.
Tuy nhiên, thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị ngƣời ta mƣợn cớ trốn tránh
trách nhiệm, nhất là những ngƣời công chức ăn lƣơng nhà nƣớc, lại có tâm lý
tiêu cực, họ bảo nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi". Tƣ tƣởng “vô
vi” chủ trƣơng thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho dân sáng
mà làm cho dân ngu” (sđd, chƣơng 65). Thuyết “vô vi” sẽ dẫn chúng ta đến với
chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tƣ tƣởng biện chứng tuần hoàn thô thiển,
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 16

chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri. Tuy nhiên, nếu xét ngƣợc lại,
với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ trƣơng con ngƣời không nên
tăng cƣờng các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo

tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống nhƣ thời nguyên thủy, đúng với bản
tính tự nhiên thuần phác của một loài động vật bậc cao đƣợc sinh ra từ “đạo”,…
phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Đạo gia chủ trƣơng xây dựng
một xã hội phi thể chế, phi nhà nƣớc, phi giáo dục, phi khoa học – kỹ thuật,
chẳng cần văn hóa với văn minh; một cộng đồng ít dân ngu đần ấu trĩ, sống bằng
săn bắn hái lƣợm gắn với trồng trọt và chăn nuôi tự cấp tự túc, khép kín hoàn
toàn, không trao đổi qua lại với bên ngoài.
Luân lý xã hội của Mặc Tử đƣợc xây dựng trên quan niệm "Kiêm ái", đó là
tình thƣơng bình đẳng và phổ cập. Quan niệm luân lý này, sai biệt rất lớn so với
quan niệm luân lý gia tộc, trong xã hội tôn pháp đƣơng thời, chứng tỏ Mặc Tử có
lập trƣờng chống lại quy tắc tôn pháp, ƣu tiên thƣơng ngƣời nhà hơn ngƣời
ngoài, dƣới chế độ phong kiến nhà Chu. Luân lý căn bản của Mặc học là "Kiêm
ái", thì đƣơng nhiên cũng dẫn tới quan niệm bình đẳng phổ quát trong xã hội,
không phân biệt giai cấp và tôn giáo. Riêng về chủ trƣơng "phi công" của Mặc
Tử, thì rõ ràng là lập trƣờng phản đối chiến tranh, tinh thần yêu chuộng hòa
bình, đồng thời cũng là phƣơng pháp chính yếu của Mặc Tử, nhằm đạt tới lý
tƣởng "Kiêm ái”. Nhƣ vậy, Mặc Tử là một triết gia giàu nhiệt tính tôn giáo và
tinh thần hy sinh, khổ hạnh. Mặc Tử cực lực chống lại sự căm thù giai cấp trong
xã hội “ cho nên thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ, không thể không cấm sự
căm thù đối với nhau và khuyến khích sự yêu thương nhau” và chủ trƣơng mọi
ngƣời phải có lòng bác ái để có thể sống thái hòa với nhau. “Nếu như thiên hạ
đã gồm yêu nhau, nước nọ với nước kia không đánh lẫn nhau, nhà nọ với nhà
kia không làm loạn nhau, trộm giặc không có, vua tôi, cha con đều hiếu từ, như
thế thì thiên hạ trị. Cho nên thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ, không thể
không cấm sự căm thù đối với nhau và khuyến khích sự yêu thương nhau”. Do
đó chính sách quốc trị phải phản ảnh xác thực ý trời, có nghĩa là phải phục vụ
hết lòng cho quyền lợi của nhân dân.
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 17


Có một điều cần quan tâm, đó là tinh thần nghĩa hiệp của những ngƣời theo
Mặc học, đã bén rễ ăn sâu vào hạ tầng xã hội và tiếp tục phát huy. Tinh thần
nghĩa hiệp đó là thái độ công bằng, lập trƣờng ngay thẳng, hết lòng bênh vực
cho bình dân và chủ trì chính nghĩa cho xã hội, bằng lời nói và hành động hào
hiệp, coi thƣờng tánh mạng vì hai chữ "tín nghĩa". Tinh thần nghĩa hiệp ấy đƣợc
kết hợp với ý thức dân tộc, đã phát huy công dụng về mặt chính trị xã hội lớn
lao, nhƣ "Hội Bạch Liên” đã trỗi dậy vào cuối thời nhà Nguyên Mông Cổ, cũng
nhƣ Thanh bang và Hồng bang hoạt động mạnh mẽ vào cuối thời nhà Minh.
Truy nguyên ra, những tổ chức đó đều bắt nguồn từ tinh thần nghĩa hiệp của tập
đoàn dân sự, mà Mặc Tử là ngƣời sáng lập đầu tiên.
Mặc tử chỉ ra rằng xã hội tồn tại nhƣ một tổ chức hữu sinh làm giảm
những tổn thất và giảm sự thiếu hiệu quả. Tranh chấp xảy sinh ra bởi sự thiếu
vắng một chuẩn mực đạo đức chung của con ngƣời trong điều kiện tự nhiên.
Nhƣ vậy ta phải chọn những ngƣời lãnh đạo ngƣời biết chọn những thuộc cấp
chính trực, những ngƣời sẽ giúp ngƣời lãnh đạo tạo ra thệ thống thứ bậc hài hòa
giữa đúng và sai. Từ đó, triều đình sẽ trở thành một bộ máy có quyền lực và là
công cụ cai trị tự hành. Nếu các nhà lãnh đạo hoàn toàn phục tùng ngƣời trị quốc
và ngƣời trị quốc hoàn toàn phục tùng thiên đình thì toàn dân cũng sẽ tuân thủ
trong lời nói cũng nhƣ trong hành động.Tuy nhiên trong mô hình xã hội này
không có tự do ngôn luận.
Theo Hàn Phi Tử, then chốt của việc xây dựng đất nƣớc giàu mạnh là
phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật và pháp luật đƣợc thi hành một cách phổ
quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng
để xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, làm cho dân chúng đƣợc yên bình, hạnh phúc.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố
rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thƣởng cho những
kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhƣng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tƣ
tƣởng hết sức tiến bộ so với đƣơng thời. Pháp luật rõ ràng đƣợc ban bố cho trăm
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 18


họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho
hành vi của mọi ngƣời, chứ không phải là cái bẫy để hại dân.
Tuy thế, những pháp luật do pháp gia ủng hộ là biện pháp ủng hộ quốc
gia, nhà vua, và gia đình hoàng gia, cũng là những biện pháp có tính cải cách và
đổi mới. Về lý thuyết, pháp gia tin rằng nếu những sự trừng phạt là nặng nề và
pháp luật đƣợc áp dụng bình đẳng thì kể cả ngƣời có quyền lực và ngƣời dân
thƣờng đều không thể thoát khỏi sự quản lý của nhà nƣớc. Pháp gia đặc biệt
nhấn mạnh tính thực dụng chứ không phải địa vị và phong tục là những nền tảng
của pháp luật. Dựa vào việc phát triển các nguồn lợi quốc gia, pháp luật nhà Tần
là một công cụ vừa để kiểm soát dân chúng vừa để ngăn ngừa tội phạm
Còn ở Hy Lạp, Đêmôcrit cũng xây dựng mẫu ngƣời hiền nhân tƣơng tự
trong triết học Nho giáo phƣơng Đông. Đó là ngƣời không màng danh lợi, không
ham của cải và phải trung dung, điều độ, sử dụng mọi thứ vừa đủ. Quan điểm
này của ông đƣợc xây dựng trong thời điểm nền dân chủ đạt đƣợc những thành
quả nhất định tại Athènes. Đây là một quan điểm vừa có ý tích cực (khuyên con
ngƣời sống tốt hơn) nhƣng cũng có mặt hạn chế của nó (đó là không kích thích,
động viên con ngƣời lao động tích cực hơn nữa, để phát triển xã hội, mà chỉ nên
sống vừa đủ).
Platon đã đề nghị một chế độ cộng đồng khắt khe không những cho các
nhà cầm quyền mà cả các binh lính, họ không đƣợc quyền có tài sản riêng tƣ, kể
cả vàng bạc cũng bị ngăn cấm. Tất cả mọi thứ của bạn bè đều nên xem là của
chung của mọi ngƣời, kể cả vợ con. Những ngƣời bảo vệ và thống trị đất nƣớc
sau khi đƣợc ngƣời lập pháp chọn ra đều phải sống chung dƣới một mái nhà, ăn
chung một chế độ ăn uống, có chung vợ con, những đứa trẻ đƣợc cộng đồng
nuôi dƣỡng và giáo dục.
Và một điều nữa đó là xã hội phải công bằng. Để bảo đảm mọi chức
vụ hoạt động suôn sẽ không dẫm chân lên nhau thì mọi ngƣời cần phải ý thức rõ
nhiệm vụ và giai cấp của mình đang đứng, không đƣợc lấn tuyến vựơt rào. Nếu
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa

SVTH: Huỳnh Nam Quang 19

một trong ba giai cấp không còn nhận thức đƣợc vị trí của mình thì chiến tranh
nhất định sẽ xảy ra.
Tuy nhiên, ông đã phạm một sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem
thƣờng những giai cấp dƣới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lí tƣởng
vấn đề trật tự mà quên đi rằng con ngƣời rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do
vì họ không phải là những con robot để có thể đặt định nhƣ thế nào cũng đƣợc.
Trong tất cả các thể chế chính trị hiện thực cũng nhƣ ảo tƣởng của Platon nêu ra,
nô lệ đều không đƣợc coi là một tầng lớp. Ông nhận xét về sự cần thiết của lao
động trong tay chủ nô và hết sức nhấn mạnh sự phân biệt giữa chủ nô và nô lệ,
ngay cả trong nhà nƣớc lý tƣởng của ông.
Ngoài ra ông đã không nhận thấy đƣợc sự quý giá và thiêng liêng
trong tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu đƣợc tính
ghen của ngƣời đàn ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của ngƣời đàn bà vì
thế ông mới chủ trƣơng chồng chung vợ chung, con cũng chung và nhƣ vậy ông
đã xúc phạm đến phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con ngƣời.
Ông cũng còn đề cập tới vấn đề dân số, nhằm xây dựng một xã hội
lớn mạnh thì cần phải có những ngƣời con đƣợc sinh ra cần phải khoẻ mạnh chứ
không đƣợc èo uột. Những cặp vợ chồng nào khoẻ mạnh và đầy đủ năng lực thì
nên cho sinh sản nhiều, ngƣợc lại thì không nên. Dân số lúc nào cũng phải đƣợc
kiểm soát, không để vƣợt quá khả năng sinh sống của xã hội, vì dân số đông
cùng với buôn bán đều là nguyên nhân của sự chiến tranh, giết chóc.
4. Quan điểm về chính trị
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng
luật pháp, hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội
loạn lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát
triển thì phải giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính
danh, định phận” là làm mọi việc cho ngay thẳng, ngƣời nào có địa vị, bổn phận
chính đáng của ngƣời ấy cứ thế mà làm, trên dƣới, vua tôi, cha con, chồng vợ

Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 20

trật tự đƣợc phân minh. Nho giáo với hệ thống tƣ tƣởng chính trị của mình đã
góp phần xây dựng các nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng, tập quyền vững mạnh,
góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức
mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
Ngƣợc lại, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, đang lúc vua quan các nƣớc thực
thi chính sách kiêm tính, để trở thành nƣớc lớn, khả dĩ “kẹp thiên tử nhi lệnh chƣ
hầu”. Đồng thời, phần tử trí thức cũng chủ trƣơng “định ƣ nhất”, mong sao thực
hiện đƣợc lý tƣởng thiên hạ thống nhất thịnh trị, thì Lão Tử chủ trƣơng "Tiểu
quốc quả dân". Ngƣời cho rằng, với nƣớc nhỏ dân thƣa, thì ít có tranh chấp và dễ
trị. Nhà nƣớc chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành.
Lão Tử, đã tìm cách cải cách chính quyền, nhƣng triết học của ông ít có tính
ứng dụng hơn. Ông đƣợc cho là ngƣời sáng lập Đạo giáo, một cách tiếp cận tiêu
cực và siêu hình tới Đức với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng
giáo chủ trƣơng tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhƣng có đức
thì trái lại Lão giáo khuyên không can thiệp và không phấn đấu (vô vi).
Tuy nhiên bƣớc tiến lớn nhất về tƣ tƣởng chính trị nổi bật nhất là Pháp gia
trong thời cổ Trung Hoa, Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo, điều
hành nhà nƣớc bằng pháp luật. Ban đầu các thành viên của tầng lớp cai trị,
những ngƣời theo Pháp gia nhấn mạnh rằng hoàng đế với tƣ cách ngƣời đứng
đầu quốc gia luôn gắn liền với "sự bí ẩn của chính quyền", và nhƣ thế những
quyết định của chính quyền buộc ngƣời dân phải kính trọng và tuân thủ. Nhà vua
đại diện cho tính chính thống. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu chuẩn của Hàn
Phi Tử, phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan trung thành
khi chúng có sai sót, nhƣng cũng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ dƣới quyền
và không quá tham lam.
Trong khi những luật lệ do phái pháp gia đƣa ra bề ngoài có vẻ là để
mang lại lợi ích cho ngƣời dân thì trên thực tế nó lại có mục đích mang lại lợi

ích cho đất nƣớc bằng cách đặt chiến tranh và nông nghiệp lên vị trí những chính
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 21

sách hàng đầu của đất nƣớc. Pháp gia nhấn mạnh trên chiến tranh là một công cụ
nền tảng quan trọng cho sự sống còn của quốc gia và yêu cầu có một quần chúng
hăm hở tham gia chiến tranh
Đa số các nhà triết học và tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc có cái nhìn rất
tiêu cực đối với Pháp gia, buộc tội nó là một xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là
xã hội chuyên chế. Nhiều học giả Trung quốc tin rằng chính một phản ứng
chống lại pháp gia đã làm cho chính trị đế quốc Trung Quốc mang nhiều đặc tính
cá nhân và đạo đức hơn là sự nhấn mạnh vào sự cai trị của pháp luật.
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục đƣợc
các nƣớc còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hƣng thịnh trở lại, Pháp gia
cùng hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phƣơng diện
này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng ngƣời Trung Quốc, đã
đƣa ra một nhận xét tƣơng đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản
thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực
đoan:
 Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào
các hình phạt nghiêm khắc.
 Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói
riêng quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong
việc sử dụng pháp luật.
 Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù
hợp với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
 Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phƣơng diện vật
chất; thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các
lợi ích khác nhau.

 Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý
thức lịch sử, dƣờng nhƣ là muốn sáng tạo lại lịch sử
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 22

Ở Hy Lạp, Đêmôcrít đại diện cho giai cấp chủ nô, ủng hộ việc thành lập
nhà nƣớc dân chủ và coi nó là hình thức cai trị ƣu việt lúc bấy giờ. “Chế độ nhà
nƣớc của chúng ta là chế độ dân chủ, vì nó đƣợc xây dựng không trên thiểu số,
mà trên đa số các công dân tự do”. Khái niệm “công dân” là một phát minh
chính trị của ngƣời Hy Lạp, trong đó phân định rạch ròi quan hệ giữa ngƣời với
ngƣời, giữa cá nhân với xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ, chỉ ra sức mạnh của luật
pháp trong việc bảo vệ công lý. Chính nền dân chủ đã tạo ra sự khởi sắc trong
đời sống kinh tế và văn hoá của xã hội, giúp Athenes là thị quốc giàu có nhất Hy
Lạp vào thế kỷ V trCN. Tuy nhiên, theo quan điểm của ông thì nô lệ là “những
công cụ biết nói”, đây là lực lƣợng sản xuất chủ yếu trong tất cả các ngành,
nhƣng lại bị coi thƣờng và bị đối xử bất công, cuộc sống thấp hèn.
Đối với Platon, ông quan tâm đến triết học chính trị, và ông muốn giáo dục
các nhà chính trị về bản chất đích thực của sự công bằng, sự tốt lành, can đảm,
và các đức tính cần thiết khác cho việc cai trị khôn ngoan. Bất luận thế nào, các
nhà chính trị sẽ không thể đem lại lợi ích một cách hiệu quả cho xã hội nếu họ
không hiểu sự tốt lành là gì. Mặc dù các nhà tƣ tƣởng của Hy Lạp trƣớc kia đôi
khi cũng đề cập đến những vấn đề nhƣ vậy nhƣng nói cho cùng, đó chỉ là ngẫu
nhiên và không có nguyên tắc cao độ.
Kết luận quan trọng nhất đối với quốc gia lý tƣởng, theo Platon chính là
"Nhà triết học cần phải làm vua, hoặc người thống trị cần phải là nhà triết học".
Có thể thấy sự tự tôn mù quáng của Platon đối với triết học và nhà triết học. Thế
nhƣng trong thời đại lúc bấy giờ chỉ các nhà triết học mới là nhà khoa học, nhà
tri thức. Tƣ tƣởng của Platon muốn đem triết học vào chính trị đã đề cập đến mối
quan hệ giữa triết học và thế giới hiện thực. Triết học không phải thuộc lĩnh vực
của tƣ tƣởng thuần tuý mà nó phải có liên hệ tới pháp chế, chính phủ và thế giới

hiện thực. Khi triết học tham gia vào quản lý quốc gia tức là ngƣời lãnh đạo phải
nắm đƣợc quy luật và tính quy luật, bản chất của quá trình chính trị và xã hội.
Nhƣ vậy là khoa học chính trị cần phải dựa trên một hệ thống khái niệm, phạm
trù và những quy luật. Đây cũng chính là nguyên tắc của toàn bộ quá trình hoạt
Đề tài:Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn Mưa
SVTH: Huỳnh Nam Quang 23

động của con ngƣời trong lĩnh vực chính trị. Platon đã trở thành nhà tƣ tƣởng
đầu tiên đặt nền móng cho triết học chính trị ngay từ thời cổ đại. Tƣ tƣởng của
ông đã có ảnh hƣởng to lớn đến những nguyên tắc chủ yếu của nhà nƣớc, pháp
quyền, luân lý và đạo đức của các nƣớc Phƣơng Tây.
5. Nhận định chung về các tư tưởng trị quốc
Xin trích lời nhận xét của Ông Phan Kế Bính, viết trong quyển Việt Nam
Phong Tục, về Nho giáo VN nhƣ sau: “Đạo Nho là một đạo bình thƣờng giản dị,
thuận theo lẽ tự nhiên của Tạo Hóa, hợp với tánh tình đƣơng nhiên của ngƣời ta,
ai cũng có thể noi theo đƣợc. Ngƣời mà có Nho học thì nên một ngƣời nết na,
có phép tắc, có lòng nhân ái. Nƣớc mà dùng đạo Nho thì nên một nƣớc có kỷ
cƣơng, có thể thống, dễ cho việc cai trị, mà nhân dân cũng đƣợc hƣởng phƣớc
hòa bình. Duy có một điều, triết lý thì nhiều điểm viễn vông, khiến ngƣời ta khó
hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc khiến ngƣời ta khó theo. Tánh tình thì chuộng êm
ái hòa nhã khiến cho dân khí nhu nhƣợc, không hùng dũng hoạt động nhƣ tánh
ngƣời Âu Châu, nhu dụng thì chuộng cách tiết kiệm tầm thƣờng, khiến cho kỹ
nghệ thô sơ, không đƣợc tinh xảo phát đạt nhƣ các nƣớc Âu Châu. Nói rút lại,
đạo Nho là một đạo tự trị rất hay, mà đem đối với đời cạnh tranh thì không
mạnh. Còn nhƣ các thói hủ bại, phần nhiều là bởi tự ngƣời làm nên tệ, chớ
không nên đổ cho tại Nho giáo”.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn
quay ngƣợc bánh xe lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối,
nhƣng đã hé lộ cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công
bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ tƣ hữu

và nhà nƣớc, con ngƣời đƣợc sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tƣởng tới và
rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián tiếp cho những tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa
không tƣởng ở Tây Âu sau này. Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học
từ những hạt nhân tƣ tƣởng tích cực và tiến bộ, thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta

×