Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.44 KB, 24 trang )

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 3
1.1.Giới thiệu 3
1.2.Triết học Nho Gia 3
1.3.Triết học Đạo gia 4
1.4.Triết học Mặc gia 5
1.5.Triết học Pháp gia 6
2.1.Giới thiệu 9
2.2.Quan điểm Đêmocrit 10
2.3.Quan điểm Platon 12
3.1.Đặc điểm của hai nền triết học Trung Quốc và Hy Lạp 14
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên
thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những nhà triết học đầu tiên
trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ
cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, tư duy nhận thức của con
người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Trải
qua các chế độ xã hội, các quốc gia được hình thành và phát triển, cùng với đó là
các giai cấp khác nhau giữ vị trí thống trị trong xã hội, các giai cấp lãnh đạo xã
hội luôn có xu hướng bảo vệ lợi ích cho giai cấp của mình và qua đó, hình thành
nên các tư tưởng triết học khác nhau. Tùy theo các đặc điểm về kinh tế, xã hội,
văn hóa, tôn giáo, vv… mà các tư tưởng triết học về trị quốc cũng có sự khác
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 1
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
biệt. Sự khác biệt này thể hiện trong tất cả các mặt của đời sống xã hội từ nhân
sinh quan, thế giới quan đến các lĩnh vực khác về đạo đức, kinh tế, chính trị,….


Một trong những khác biệt là tư tưởng về cách trị quốc, cách điều hành một
xã hội. Trong phạm vi đề tài này, quan điểm trị quốc của các nhà triết học thời kỳ
cổ đại là mục tiêu nghiên cứu. Đây chỉ là một phần của triết học, tuy nhiên đây
lại là một nội dung rất hấp dẫn, thể hiện được bản chất của giai cấp nắm quyền
của xã hội. Các nội dung thể hiện trong đề tài này được tổng hợp từ các kiến thức
được giảng dạy trong chương trình môn học và các tài liệu thu thập được từ các
nguồn tài liệu sách tham tham khảo, internet,…và quan điểm cá nhân người viết
về các tư tưởng triết học thời kỳ cổ đại và được sắp xếp theo trình tự về các điều
kiện tiền đề tự nhiên, văn hóa, xã hội hình thành nên các tư tưởng triết học.
Bài viết này thể hiện hai mảng triết học Phương Đông và Phương Tây với
các tư tưởng Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia của triết học Phương Đông
cùng với tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp cổ đại đại diện cho
nền triết học Phương Tây.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 2
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo
dài, chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học
trong các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề
cho sự ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của
họ gắn liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những
nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương
triều đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu –
Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền
đến đời sau.
1.2. Triết học Nho Gia

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội
loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực
truyền bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra
Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức
xã hội có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý
tưởng này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người
ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 3
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam
tòng, tứ đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam
cương và ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và
Tứ đức là chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội
mà có mọi người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội
được trật tự, thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh.
Nhân là tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai
trị bằng tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người
khác lập thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính
danh ở đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều
mà danh đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình.
Nếu tất cả mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không

loạn lạc. Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không
thuận. Lời nói không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn
thường được mọi người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã
được những người sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ.
1.3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc
cổ đại, ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng
lập ra và sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221
TCN) trong bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 4
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng
can thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không
làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với
ông, chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực
làm việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải
là bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
1.4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử
sáng lập, phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh

nguyện vọng của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển
cùng thời với Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết
học chính trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt
cho được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại
thăng tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi)
để đánh giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm,
nhưng nếu không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh
giá cái 'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn
việc không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi'
(nghĩa, lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử
theo minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
cách mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận
tình chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc,
tuyệt đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho
dân tộc là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái
trong quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải
biết trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không,
đưa ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp
đương thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý
tộc qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.

Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi
hỏi lãnh đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe
khoang nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
1.5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại,
với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn
nước cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh
nhân loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến
nhiều nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và
Khổng Tử và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử,
đã hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của
phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc
như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện
bởi Hàn Phi Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai
trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời
Xuân Thu - Chiến Quốc
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 6
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu
tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể
tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung
trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện
tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách

mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc
gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật,
luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển
tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến
lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 7
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn
trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ
nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn
Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả
năng quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm
của họ ra. Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người;
Ngầm hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được….Cũng như Tâm thuật, Kỹ
thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy

giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư
tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất
với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy
pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước
có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 8
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến
lâu dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu
tiên trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh
chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị
văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người
có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của
nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà
là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong
sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học
(khoa học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để
con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là

nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của
đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và
từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về
xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một
tất yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
− Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
− Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 9
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
− Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh
tuý nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương
thức sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn
đề cơ bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên,
về con người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng
vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con
người, khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới.
Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ
yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự
phátvà biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một
khối duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó,
những tư tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức
đầu tiên của phép biện chứng.
2.2. Quan điểm Đêmocrit

Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của
Hy Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở
xứ Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại.
Ông là học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và
phát triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử.
Khái niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và
“không tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái
xác định được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 10
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái
trống rỗng là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh
hưởng gì các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái
trống rỗng, cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một
sự trống rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm
nhận được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là
hoạt động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu
sinh. Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên
tử đặc biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng

và sinh ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện
cùng với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự
vận động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt
động nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm
giác và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở
tính chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác
nhau cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về
lượng, cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy
chỉ là sự hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của
tầng lớp dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 11
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
nô lệ là hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có
những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không
phải ở lời nói mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự
do và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản
tâm hồn được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận
nghiêng về lập trường vô thần.
2.3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng
dõi quý tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người
đệ tử, một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác
động mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù
ghét quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có
giá trị cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông,
nổi tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.

Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn
trong mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc
đời. Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn
đề của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai
cấp rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp
lãnh đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những
người tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những
người buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một
quốc gia cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của
chung. Tất cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên
không ai khác hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 12
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
được sở hữu bất cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp
cũng không được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm
vụ riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là
bảo vệ và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành,
không có chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo
phải là những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh
đạo, họ không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người
dân làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc
quá nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu
vào trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ
công nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài

năng đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu
ngang nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha
truyền con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình
đào tạo “chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được
phần nội lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là
chuyện khó.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 13
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
3.1. Đặc điểm của hai nền triết học Trung Quốc và Hy Lạp
3.1.1. Tư tưởng của nền triết học Trung Quốc
Triết học cổ đại Trung Quốc nảy sinh, phát triển trong thời kỳ xã hội
Trung Quốc có nhiều biến động lịch sử sâu sắc, do vậy, triết học Trung Quốc cổ
đại là một nền triết học phong phú với các tính chất và các khuynh hướng đa
dạng, đề cập tới hầu hết các lĩnh vực khác nhau của triết học, trong đó vấn đề
chính trị, xã hội, đạo đức luân lý được các nhà tư tưởng cổ đại Trung Quốc chú ý
quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Có thể nói, văn minh Trung Quốc là một trong
những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về
khoa học, văn minh Trung Quốc còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học
lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới. Nền triết
học Trung Quốc nhìn chung có các đặc điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư
tưởng triết học Trung Quốc cổ, tư tưởng liên quan đến con người như triết học
nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn
triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là chính trị đạo đức, các triết gia Trung Quốc đều tập trung
vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.

Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội.
Các nhà triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi
trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc
điều hoà các mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
Thứ tư là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy
triết học cổ Trung Quốc là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay
thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí,
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 14
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
ta và vật ăn khớp, khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ
đó mà nắm bản thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng
tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức.
3.1.2. Tư tưởng của nền triết học Hy Lạp
Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào
lưu, trường phái, duy vật và duy tâm, biện chức và siêu hình, vô thần và hữu
thần. Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản
đó. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học
tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới xây
dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".
Một đặc trưng khác của triết học Hy Lạp cổ đại là đề cao vai trò của lý
tính, vấn đề con người cũng được coi trọng . Con người trở thành một trong
những nội dung của triết học trong triết học Hy Lạp cổ đại , triết học Hy Lạp cổ
đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ. Nội dung cơ bản
của sự phát triển ở Hy Lạp cổ đại thể hiện cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm , phản ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ
tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp chủ nô quý tộc .
Tuy nhiên, triết học Hy Lạp cổ đại có tính chất biện chứng sơ khai , tự
phát . Những mà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng tự
phát , bẩm sinh . Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới chỉ dựa vào phỏng đoán và

trực giác thiên tài về sự vận động và phát triển của tự nhiên chứ chưa lý giải
được những quy luật vận động và phát triển một cách khoa học . Mặt khác , do
khoa học kỹ thuật thời kỳ đó còn lạc hậu nên họ chưa thể giải thích rõ ràng từng
lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên . Xét về mặt lịch sử , tính chất biện chứng trong
triết học Hy Lạp cổ đại là một thành tựu vĩ đại song nó vẫn là biện chứng ngây
thơ .
3.2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc
3.2.1. Nho gia
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 15
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Với chủ trương coi trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân cách đạo
đức của mỗi người là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho
gia đã góp phần tạo dựng cho con người lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất
nước, với cả chính mình và đặc biệt coi trọng trật tự, kỷ cương. Nho giáo hướng
tới việc tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti trật tự, hòa mục từ trong gia đình
đến Nhà nước, thiên hạ.
Chủ trương dùng “Nhân” để giáo hoá con người, cải biến xã hội từ
loạn thành trị của Nho gia đã biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho.
Nhưng do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những
quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp cải biến con người và xã hội của
Khổng Tử chỉ đạt ở mức duy tâm chứ không phải bằng cách mạng hiện thực.
Tóm lại, trong quan niệm của các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã
hội bảo đảm được sự kết hợp hài hòa giữa đời sống kinh tế và đời sống tinh thần,
đạo đức lành mạnh. Và theo họ, sự hài hòa ấy là một trong những yếu tố cơ bản
để giữ vững ổn định, trật tự của xã hội phong kiến.
Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ thì những tư tưởng của triết học
Nho gia là một bước tiến dài trong lịch sử triết học Trung Quốc thời cổ đại. Tuy
nhiên bên cạnh đó những tư tưởng của Nho gia cũng có một số hạn chế đó là lối
sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ.

3.2.2. Đạo gia
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư
tưởng biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội. Do
nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia
không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu
thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu
thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư
tưởng về sự phát triển. Học thuyết chính trị - xã hội Đạo gia với cốt lõi là luận
điểm "Vô vi". Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động
mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo".
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 16
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Tóm lại, những tư tưởng sâu sắc và độc đáo về Đạo, về phép biện
chứng, về Vô Vi trong hệ thống triết học của Lão Tử đã nâng ông lên hàng ngũ
những người đứng đầu trong triết học Trung Hoa cổ đại. Chúng đã đóng góp
đáng kể vào sự phát triển tư tưởng triết học Phương Đông nói trung và triết học
Trung Hoa nói riêng.
3.2.3. Mặc gia
Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là thuyết “kiêm ái” (thương
yêu mọi người không phân biệt thân sơ). Mặc Tử chủ trương đề cao người có tài
đức bất kể nguồn gốc xuất thân để giữ những chức vị cao. Tư tưởng của phái
Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau,
ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể.
3.2.4. Pháp gia
Sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia tồn tại
nhiều điểm quá cực đoan như: Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc
cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia
nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có
tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật. Coi các điều khoản pháp luật chính

thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật
tập quán. Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất;
thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác
nhau. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch
sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử
Tóm lại, tư tưởng của Pháp gia hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị,
pháp luật, triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục, ; trong đó, then chốt
chính là tư tưởng chính trị. Pháp gia định hướng cho vị vua trong điều kiện xã
hội đương thời có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được
cục diện chính trị ổn định, để cho nước giàu quân mạnh. Minh chứng là việc Học
thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 17
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau
những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng
chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực
đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều
yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp
3.3.1. Đêmôcrít
Trong quan điểm chính trị, xã hội của mình, Đêmôcrit tập trung vào
các vấn đề đạo đức và nhà nước, từ đó chú tâm lý giải những động lực, sự phát
triển của xã hội loại người
Chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit đã ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát
triển tiếp theo của tư tưởng triết học tự nhiên phương Tây. Như vậy, dù triết học
của ông còn mang tính thô sơ, chất phác, nhưng với những thành tựu triết học rực
rỡ của mình, Đêmôcrit đã đưa chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại lên một đỉnh cao

mới.
3.3.2. Platon
Platon đã sai lầm khi xem thường những giai cấp dưới trong việc phân
chia giai cấp. Ông đã quá lí tưởng vấn đề trật tự mà quên đi rằng con người rất
cần và rất quan trọng vấn đề tự do. Thật ra, những giai cấp dưới nếu có điều kiện,
họ cũng làm chính trị rất giỏi và rất xuất sắc. Vì thế, việc phân chia giai cấp của
ông “không khác gì nhà côn trùng phân loại các côn trùng. Ông tạo ra các huyền
thoại để bắt dân chúng tin tưởng vào sự phân loại ấy”.
Vấn đề bế môn toả cảng ngăn chận phát triển kinh tế để bảo vệ nhà
nước là một sai lầm nghiêm trọng bởi chúng ta không thể ngăn được những cái
từ bên ngoài đưa vào mà quan trọng là ta phải củng cố nội lực để nó không làm
mình biến chất. Ngoài ra ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 18
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
trong tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu được tính
ghen của người đàn ông và tình mẫu tử thiêng liêng của phụ nữ vì thế ông mới
chủ trương chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm
đến phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người.
Do vậy, triết gia Will Durant mới nhận xét: “Quốc gia của Platon là
một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẽo, nó đề
cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không biết nuôi dưỡng
nghệ sĩ, khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho của
một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua chỉ là một chế độ gia đình
được nới rộng cho toàn dân, khi đã kích gia đình, Platon không biết rằng ông đã
phá vỡ nền móng của xã hội lí tưởng mà ông sắp xây cất”.
Phép biện chứng duy tâm của Platôn còn nhiều hạn chế do chịu sự tác
động của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đương thời. Song sự xuất hiện của
hệ thống triết học Platôn cùng với phép biện chứng duy tâm đã để lại dấu ấn
trong lịch sử triết học bằng cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Đêmôcrít

và Platôn, tạo điều kiện cho tư duy triết học Hy Lạp cổ đại có cơ hội khám phá
và phát triển.
3.4. So sánh sự khác biệt giữa triết học Phương Đông và
Phương Tây
Ta có thể thấy do các đặc điểm về điều kiện địa lý, bối cảnh ra đời,
điều kiện về tự nhiên, văn hóa, xã hội mà các trường phái triết học có sự khác
biệt nhau. Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông được
thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong
mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một
nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 19
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng
nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ
lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những
triết gia với những tác phẩm triết học độc lập
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một môn khoa học
độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau
triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo
tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt
về chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen
kẽ.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi

thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính
chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit đến
Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển
Đức Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết
liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, sự phân chia trường phái triết học cũng khác: Ở phương Đông
đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ
nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường
là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy
tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân
kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét
hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến
duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 20
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so
với triết học phương Tây ở 3 mảng:
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình,
vạn pháp, hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ Để nói về bản chất của
vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương
Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý
thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí,
hình – thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều
nhất.
Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ “biện
chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái
động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô

thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì
phương Đông triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang
tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông
dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên
nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc của
vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ
trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về
giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan.
Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai
phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy vật
lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 21
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những
cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng
được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học
hỗn mang – dự báo.
Tuy có sự khác biệt nhau, nhưng nhìn chung hai nền triết học Phương Đông
và Phương Tây đều hướng đến con người làm trung tâm, đều nhằm vào tìn
ra bản nguyên của sự vật hiện tượng và hướng con người đến những giá trị
tốt đẹp theo hướng riêng của mình.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 22
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI

KẾT LUẬN
Sự hình thành của triết học Phương Đông và Phương Tây cổ đại có
những hoàn cảnh lịch sử khác nhau do điều kiện địa lý của hai chậu lục. Ở
Phương Đông thì được thiên nhiên ưu đãi hơn còn ở Phương Tây khí hậu khắc
nghiệt hơn, con người phải chống chọi lại thiên nhiên nên trong thế giới quan
nhận thức có sự khác biệt và từ đó cũng hình thành những nền triết học khác
nhau nhưng tóm lại triết học Phương Đông và triết học Phương Tây đều nhằm
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Triết học Phương Đông đặt trọng tâm vào
việc giải quyết các vấn đề do nhận thức khoa học và thực tiễn đặt ra. Triết học
Phương cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và gắn
với khoa học.
Buổi bình minh của nhân loại nhận thức về khoa học còn nhiều hạn chế nhưng
các nhà triết học cổ đại của cả Phương Đông và Phương Tây đã cho chúng ta
những học thuyết , những quan điểm vô cùng quý báu nó là nền tảng cho sự phát
triển của các ngành khoa học nói chung và triết học nói riêng
Nhìn chung, các trường phái triết học đều đứng trên quan điểm duy vật
và duy tâm khi đưa ra luận điểm của mình về các vấn đề triết học đồng thời đều
có xu hướng đánh giá chuẩn mực xã hội dựa trên quan điểm lập trường giai cấp
thống trị nhưng chung quy lại, các nền triết học đều nhằm hướng con người đến
cái Chân Thiện Mỹ, hướng đến một thế giới tốt đẹp nhất mà các nền triết học đó
có thể định hướng ra được.
Các nền triết học cổ đại cũng cung cấp những quan điểm cơ bản, nền
tảng cho hệ thống triết học ngày nay phát triển. Đây cũng là nền tảng xây dựng
nên chuẩn mực đạo đức xã hội, xây dựng nên những tiền đề cần thiết cho sự phát
triển của nhân loại.
SVTH: TRẦN KỲ QUANG 23
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Tiểu luận Triết học
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Triết học, phần I, đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao học &

nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), trường đại học kinh tế Tp.
HCM, 2010
Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học, TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên),
2010
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 3(26) năm 2008.
Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Quốc. Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội,
2004.
/>cat=48&id=344&pcat=&vientriet=articles_deltails

/> />SVTH: TRẦN KỲ QUANG 24

×