Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.05 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : ĐÀO ÁNH TUYẾT
STT : 131
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
HCM, Tháng 5/2011
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta không thể
không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại
và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là những cái nôi của
triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của
triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này. Nét nổi bật
của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của triết học mà
sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo nội dung của thời đại
mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải quyết những vấn đề của
tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ
đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học
phương Tây và triết học phương Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói


chung và Việt Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của
hai nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người và xã
hội.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng những
trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục đích chính
của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa hai nền triết học
cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân
tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có được kết quả
chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu sắc các
quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử - chế độ chiếm
hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao lao
động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức
biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như
vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội
sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai đọan cực thịnh và
giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và
nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại.

3. Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị.
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật - duy
tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy Lạp cổ là
“những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện chứng để bảo vệ
quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống
nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các
triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
4. Các tư tưởng, trường phái triết học
4.1 Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet
này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm triết
học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những khái
niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
4.1.2 Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này Marx
đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học
Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính đa dạng
của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago cố vượt
qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường phái
Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng.
Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.

4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ thống quan
điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa duy vật
đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xocrat Platong
sau này.
Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
+ Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
+ Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn
hoà, không hại mình, không hại người.
Quan điểm về chính trị - xã hội:
+ Xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
+ Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân
chủ cho con người.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là
bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã đặc
nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng sau đó
được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do Xocrat đặt nền
móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
+ Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của điều
thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của đạo đức, tiêu
chuẩn của đức hạnh.
+ Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý
niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu
sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội. Quan điểm chính trị - xã hội của Platong đầy
mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi bảo vệ chế độ
đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hòa

lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy Lạp
cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc đẩy lý trí
Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn và nhận thức:
+ Sinh thể (cả con người) đều có thể xác và linh hồn
+ Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con người sinh
ra là để nhận thức.
+ Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới sinh ra,
linh hồn như một tấm bảng trắng.
Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu lãnh đạo.
+ Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH & bình đẳng
giữa các cá nhân… Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ ruộng đất
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt. Xã
hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng cấp bình dân tự
do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn (Thờ bò) (HinDu),
Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
1.2.Điều kiện về khoa học và văn hóa
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong phú về
nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha trộn sự
thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ

- Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập trung phản ánh
ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia
súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái
quát triết học.
- Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ VI TCN đến
thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa nhưng các trường phái
triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
- Thứ nhất, triết học Ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang tính cách
mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có trước, không
đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
- Thứ hai, triết học Ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín ngưỡng tôn
giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
- Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở Ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề nhân sinh
quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1 Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển
tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng đó được thể hiện
trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã), Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng
giải thoát.
4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta. Samkhya, Yoga, Mimansa,
Nyaya, Vaisêsika
- Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi mỗi người
thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng ám muội của thế
giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
- Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ hạnh hay tin
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 12
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa đến sự giải thoát là
phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành

vũ trụ.
4.3 Hệ thống triết học không chính thống
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn giáo, ra đời vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính duy vật chủ
nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian tương đối ngắn
- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ
đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường, duyên
khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ đế, nhân đế, diệt
đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2: SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & ẤN
ĐỘ CỔ ĐẠI
A. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ
ĐẠI
1. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những thành
tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng
một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau nhưng tất cả điều ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có sự
phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng lớp nô
lệ.
2. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn vật
Nghiên cứu về con người, đạo đức nhân sinh quan, đặt vai trò của con người
lên hàng đầu. Tuy nhiên, triết học vẫn chưa tách rời được yếu tố thần linh ra khỏi ý
thức của con người. Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của
thần thánh, tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi.
Thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.

• Ấn Độ: Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý niệm
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 14
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra vạn vật,
tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân hồi báo ứng.
Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã và tiểu ngã,
khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với đại ngã.
• Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm – tôn
giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu luân
hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh sáng
tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt đối.
Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần Tạo hóa mô
phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới dạng các tinh tú, và chỉ
được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người. Con người bao gồm thể xác khả
tử và linh hồn bất tử.
Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế giới tạo thành từ vật
chất, không tồn tại thần thánh.
• Ấn Độ:
- Trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất được
cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại.
- Trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ thuyết nguyên tử luận.
- Phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa
• Hy Lạp:
- Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu tố vật
chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng lửa tạo ra
van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí, kết hợp với
lực tình yêu và hận thù.
- Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu thành
từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã thì sự vật
mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.

3. Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần có tính biện chứng
sâu sắc.
• Ấn Độ:
- Nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách quan
cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận, tương tự và
bằng chứng.
- Phái Nyaga và Vaisêsika đều xây dựng những phương thức logic học.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 16
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
• Hy Lạp:
- Đêmôcrit đề cao nhận thức lí tính, xuất phát từ nhận thức cảm tính, để tìm ra
nhận thức lí tính
- Đêmôcrit cũng tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức logic học
như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
4. Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm
• Ấn Độ:
- Duy vật : Gaimini,Gotama,Kanada,
- Duy tâm : Upanisad(bratman,atman)
• Hy Lạp:
- Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
- Duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại cho con
người cuộc sống hạnh phúc:
6. Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ thống hóa
và giải thích được nguồn gốc, tính chất vai trò của phạm trù đối với nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
7. Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành tầng lớp tri
thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng nền triết học
và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
8. Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu thực,

vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu hình về
sự tồn tại.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Triết học Ấn Độ có sự đan xen với tôn giáo; Triết học Hy Lạp gắn bó mật thiết
với khoa học tự nhiên:
1.1 Triết học Ấn Độ có sự đan xen với tôn giáo
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng
tôn giáo. Do đó, triết học Ấn Độ cổ đại là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của
những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết
học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các bộ kinh Vêđa,
Upanisát.
Người Ấn Độ cổ tin và giải thích rằng trong vũ trụ tồn tại đồng thời 3 thế lực
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 18
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
liên quan nhau là thần linh, con người và qủy ác ứng với 3 cõi vũ trụ bao la là thiên
giới, trần thế và địa ngục. Họ đã phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý giải chúng
qua biểu tượng của thế giới thần linh phong phú, chia nhau chi phối sự biến hóa của
vũ trụ vạn vật theo sự điều khiển của nguyên lý rita
Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người. Triết
học Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản chất, là
nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy diệt của mọi
cái trong thế giới, còn linh hồn cá nhân bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn
nhục dục của thể xác. Con người phải dốc lòng tu luyện, chiêm nghiệm tâm linh để
nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với linh hồn vũ trụ. Vì vậy, triết
học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ quan, thần bí.
Xuất phát từ những đòi hỏi và hiện thực xã hội, các nhà triết học Ấn Độ cổ
đại là những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà giáo dục, đạo đức, chính trị - xã hội,
thiên về cải tạo thế giới, giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội khắc nghiệt.

1.2 Triết học Hy Lạp gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như
một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân
tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể
để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là
các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra
những kết luận triết học.
Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo
nên một bước ngoặc lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri
thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học -
tự nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân
ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học như
Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít, Từ các yếu tố đó có thể khẳng định rằng, triết học
Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và gắn với
khoa học.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 20
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2. Triết học Ấn Độ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình; Triết học Hy Lạp có sự phân chia và đối lập rõ
ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
2.1 Triết học Ấn Độ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu hình
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không thể
phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng
và phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ thống
không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình.

Chẳng hạn như những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những tư
tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra
học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học
thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại
nào có nguyên nhân của loại đó “Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi”. Từ
đó mà trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng nếu vạn vật của thế giới
này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên nhân cũng là vật
chất, đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) một dạng vật chất tiềm ẩn, không hình dạng,
không giới hạn, không thể nhận biết được bằng cảm tính. Thế giới vật chất là thể
thống nhất của ba yếu tố: Sativa (nhẹ nhàng, thuần khiết), razas (tích cực, năng
động), tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng
thái chưa biểu hiện, tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân
bằng bị phá vỡ thì sự sinh thành vạn vật của vũ trụ khởi đầu.
Ngược lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng
nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật
chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purasa) mang tính phổ quát,
vĩnh hằng, bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất ở
con người. Khi tinh thần chiếu rọi vào Sativa thì sinh ra trí tuệ, khi tinh thần chiếu
rọi vào razas thì sinh ra vận động, khi tinh thần chiếu rọi vào tamas thì sinh ra hình
thể.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới
được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác,
họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất
đi.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Qua đó có thể thấy, trong triết học Ấn Độ cổ đại sự phân chia các trường phái
triết học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu vào những nội dung cụ thể thì có mặt duy
vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm. Điều đó
thể hiện rõ sự thiếu nhất quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt để của triết học vì

phân kỳ lịch sử trong các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như phương Tây.
2.2 Triết học Hy Lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và chia
ra thành các trường phái khác nhau: trường phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm) và
trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra những nhà vô thần và hữu thần, gắn
liền với cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa
trào lưu triết học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm của Platông.
Hai học thuyết đó ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống phương Tây. Có thể nói triết học
Hy Lạp cổ đại rất nhất quán, kiên định một quan điểm, một lập trường.
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy Lạp)
là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên,
vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo
Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không
khí. Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên của
vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn vật.
Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở
miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại có
những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế giới là
một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên của vũ trụ
(trường phái Pitago).
Đối lập lại chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã xây
dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự nhiên
bắt nguồn từ ý niệm.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 24
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy Lạp -
La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý

niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật,
mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử
đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu tranh
ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã hội có
giai cấp đối kháng.
3. Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề luân
hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận; Triết học Hy Lạp cổ
đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ đó xây dựng nhân sinh
quan con người
3.1 Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề luân
hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh
(bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi khổ của con người) nhằm tìm kiếm
phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên
và kinh tế - xã hội khắc nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa con người trong lao
động sản xuất.
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn
tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh hồn"
đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng và hành
động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần tục đã
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 26
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là "nghiệp báo"
(Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác
khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự "luân hồi"
(Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là
Brahman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo

để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải dốc
lòng toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác,
thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn
bất tử mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu thoát"
(moksa).
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp báo" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã
đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra
khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi của
quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo.
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm
giải quyết các vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng “hướng
nội”. Có thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và là ưu thế của nhiều học
thuyết triết học Ấn Độ cổ đại.
3.2 Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ
đó xây dựng nhân sinh quan con người
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là suy tư về bản
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 28
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể bản nguyên tượng trưng làm
nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là nước, đối với
Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần. Pytago
tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số, Pacmênic cho rằng bản
chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự vật đều
được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia
được nữa và số lượng của chúng là vô hạn. Hêraclit đưa ra quan niệm mọi sự vật của
thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất
biến trong thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh

hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân sinh
quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt thành
với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội và sử
dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình Mỗi con người
là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức, mà cả sự vật
thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa cá nhân" và
"chủ nghĩa tương đối" cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con người, thước đo sự
vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã hội và cấu trúc linh
hồn (hay tự ngã) của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Bản chất
của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã hội được xếp đặt theo trật tự
duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá nhân không thể tách khỏi xã hội và "nhân
tính" là hình thành do xã hội và phát triển trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh
trong tư tưởng Hy Lạp Xôcrat và Platông thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản
chất con người trên tấm vải thô lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của bản
chất con người. Con người chỉ thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã
hội Arixtốt, một nhà duy lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của Platông “Con
người không thể là con người nếu không có xã hội "
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 30
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
4. Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”; Các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét khách quan
4.1 Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”
Các nhà triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng muốn nhận thức tốt thì phải hòa hợp
giữa chủ thể và khách thể với nhau.
Rig Vêđa đã suy tư về quan hệ giữa thế giới vĩ mô và vi mô, quan hệ giữa tự
nhiên và con người. Rig Vêđa không phân chia con người và tự nhiên thành chủ thể
và khách thể mà đồng nhất con người và tự nhiên.

Tư tưởng triết học cốt lõi của trường phái Yôga là sự thừa nhận nguyên lý
hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể, thông qua các phương pháp Yôga mà mỗi cá thể
có thể tập luyện để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm chủ
mình, tiến tới làm chủ môi trường, và sau cùng là vươn đến sự giải thoát.
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học Ấn Độ cổ đại như: lấy con người làm đối tượng nghiên
cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, hay nghiên cứu thế giới cũng để làm rõ con
người và vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ đại bị mờ nhạt.
4.2 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét
khách quan
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Đặt
trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 32
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên triết học Hy Lạp cổ đại thể
hiện đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời, mang
tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và thế giới sự
vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả biến, thoáng
qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự sinh thành của thế giới sự
vật, con người và hoạt động của linh hồn…
Triết học Hy Lạp có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho
khách quan. Phương tiện nhận thức của triết học Hy Lạp là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn
5. Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung trực giác; Triết học Hy Lạp ngã về tư
duy duy lý
5.1 Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung trực giác
Trường phái Mimansa coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức.
Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt đầu từ luân lý đạo đức, nhận thức gắn liền với

đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu. Điều
này quy định tính chất trực nhận, trực giác trong triết học Ấn Độ. Từ đó, một lôgíc
kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức lại nghiêng về ẩn dụ, hình ảnh.
5.2 Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của Hy
Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô
hạn cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật
của Triết học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến
mức độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá, cách ly hoá, làm
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 34
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
mất đi tính tổng thể.
.Triết học Hy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo
hướng đi lên. Một nét nữa của triết học Hy Lạp thiên về hướng ngoại, chủ động, tư
duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân
tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể
Các nhà triết học Hy Lạp đều đề cao tư duy lý tính. Chẳng hạn, Xênôphan
cho rằng nhận thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ. Bằng cảm
tính chúng ta không thể nhận thức được bản chất sự vật. Muốn nhận thức được bản
chất sự vật phải dựa vào tư duy, lý tính. Và quan điểm duy lý này đã được Pácmênít
phát triển thành chủ nghĩa duy lý. Pácmênít cho rằng bản chất của sự tồn tại là bất
biến, vĩnh hằng, đơn nhất và tồn tại – bản chất của vạn vật chỉ có thể được nhận thức
bởi tư duy lý tính.
6. Triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng phục cổ, không
có những bước nhảy vọt về chất; Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa
các trường phái mang tính chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá
rõ rệt
6.1 Triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng phục cổ,
không có những bước nhảy vọt về chất
Triết học Ấn Độ ít thấy có những bước nhảy vọt về chất mà chỉ là sự phát

triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ,
thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, xuất phát từ tinh thần Vêđa chia ra làm hai hệ
thống: hệ thống chính thống ủng hộ tinh thần Vêđa và trường phái không chính
thống phản đối lại tinh thần Vêđa.
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là
vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy nó
không mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ
định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 36
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
và cũng không triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến kéo dài quá
lâu và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen, cộng sinh bên nhau.
6.2 Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang tính
chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt
Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá
càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định
hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Mặc dù là học trò của Platông, nhưng Arixtốt đứng trên quan điểm duy vật
tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông. Về mặt bản thể luận, ông cho rằng việc
Platông chia thế giới thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật là hoàn toàn thiếu cơ
sở. Về mặt nhận thức luận, ông bác bỏ hoàn toàn quan niệm Platông cho rằng ý
niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật, theo Arixtốt điều này là vô dụng ngược
đời. Theo ông, bản chất phải nằm ngay bên trong sự vật và phải được nhận thức của
con người khái quát thành cái chung dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái
niệm, quy luật, phạm trù không phải là cái có trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại
của sự vật mà ngược lại sự tồn tại sự vật được phản ánh trong khái niệm, quy luật,
phạm trù của nhận thức.
Theo khuynh hướng duy vật. Empêđốc cho rằng, bản nguyên của vũ trụ
không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà gồm 4 thực thể:

đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ hạt cực
nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng. Đạt tới đỉnh cao nhất của chủ
nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít. Theo ông, tất cả
mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là những phần tử vật
chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận động, không có điểm
kết thúc.
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 38
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
KẾT LUẬN
Sau khi đã phân tích những điểm tương đồng và khác biệt của hai nền triết học Hy
Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, đại diện cho tinh hoa triết học phương Tây và triết học
phương Đông, ta có thêm cái nhìn khái quát hơn về nền triết học nhân loại.
Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo
nên cơ sở xuất phát của triết học châu Âu sau này. Alfred Whitehead nhận xét rằng
“triết học phương tây thực ra chỉ là một loạt các chú thích cho Plato”. Các nhà triết
học Hy Lạp tập trung vào hai chủ đề chính: thứ nhất, mối liên hệ giữa nguyên nhân
và hệ quả, nói cách khác là tìm câu trả lời cho câu hỏi phải chăng các sự vật hiện
tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân – hệ quả tất yếu khách quan hay chỉ là
trùng hợp ngẫu nhiên; thứ hai, bản chất và khởi thủy thế giới tồn tại.
Triết học Ấn Độ cổ đại gắn liền với các tôn giáo. Đúng như lời nhận xét của
Radhakrishnan: “Triết học Ấn Độ mang đượm màu sắc chủ nghĩa duy linh”. Bên
cạnh những thành công trong việc giải thích về vấn đề phạm trù, vấn đề thuộc về
bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy
rằng, các nhà triết học Ấn Độ cổ đại chưa lý giải được nguồn gốc, tính chất, vai trò
của phạm trù đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn. Điều này chỉ được giải quyết
khi có sự ra đời của học thuyết phạm trù của Cantơ, của Hêgen đặc biệt là hệ thống
và lý luận về phạm trù của triết học Mác - Lênin.
Thông qua tiểu luận này bản thân nhận thấy được sự tương đồng một phần nào đó
trong tư tưởng người Việt Nam với hai nền triết học nói trên, thể hiện trong tư tưởng
tôn giáo (thuyết luân hồi), cách nhìn nhận thế giới quan, nhân sinh quan, con

người…
STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 40
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương lịch sử Triết học – TS Bùi Văn Mưa & TS Nguyễn Ngọc Thu chủ
biên; Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh; Năm 2003
2. Triết học Mác-Lênin – GSTS Nguyễn Ngọc Long & GSTS Nguyễn Hữu Vui
chủ biên
3. Triết học Mác-Lênin – Nguyễn Thị Hồng Vân, Đỗ Minh Sơn và Trần Thảo
Nguyên biên soạn
4. www.chungta.com
5. www.hoailinhthoai.com
6. tamlinhvahanhphuc.forumotion.net
7. Thư viện trực tuyến Hoàng Ngọc Vĩnh: hngocvinh54.violet.vn
8. Blog Đào Duy Thanh: daoduythanh999.blogspot.com
9. />10. />STT 131 - ĐÀO ÁNH TUYẾT - K20 - Đ1 42

×