Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.21 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
HVTH : VÕ LÝ BỘI UYÊN
STT : 133
NHÓM : 8
LỚP : ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5/2011
LỜI CÁM ƠN
Đầu tiên, em xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn đến Thầy Bùi Văn Mưa
và Thầy Hoàng Trung trong thời gian qua đã tận tâm giảng dạy, cung cấp cho em
kiến thức về triết học nói chung và triết học Hy Lạp cổ đại, triết học Ấn Độ cổ
đại nói chung.
Xin gửi lời cảm ơn đến các thành viên nhóm 8 triết học lớp Đêm 1 – K20
đã cùng nhau làm việc, đóng góp ý kiến để hoàn thành đề tài tiểu luận này.
Và cuối cùng, em xin chúc quý thầy sức khỏe, gặt hái them nhiều thành
tựu trong sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu.
Tp.HCM, ngày 09 tháng 05 năm 2011
Học viên thực hiện
Võ Lý Bội Uyên
MỤC LỤC
Lời cám ơn i
Mục lục ii
Lời mở đầu iii
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT


HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. Khái quát triết học Hy Lạp cổ đại 1
1.1. Điều kiện lịch sử ra đời 1
1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 1
1.3. Những đặc điểm cơ bản 1
1.4. Các tư tưởng, trường phái triết học 2
II. Khái quát triết học Ấn Độ cổ đại 4
2.1. Điều kiện ra đời 4
2.2. Sự hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại 5
2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại 5
2.4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại 5
CHƯƠNG 2: SO SÁNH TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ HY LẠP CỔ
ĐẠI
I. Sự tương đồng của triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại 7
II. Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại 12
KÊT LUẬN 24
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài: Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết
học nhân loại chúng ta không thể không nói đến hai nền triết học lớn của
thế giới, đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói
Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là những cái nôi của triết học thế giới, là
khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học,
làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này. Nét nổi bật
của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của triết
học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo
nội dung của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra
và giải quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương
đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp
chúng ta có khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết
học phương Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và

Việt Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của
hai nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con
người và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu: Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc
điểm, những tư tưởng cùng những trường phái của hai nền triết học Hy
Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục đích chính của bài viết là làm rõ nét
được những tương đồng và khác biệt giữa hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu: Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn
tư liệu tham khảo với nhau để có được kết quả chính xác nhất, tránh cách
nhìn phiến diện.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ
ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.
1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai
đọan cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
1.3. Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp

chủ nô thống trị.
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy Lạp
cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện
chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
[1]
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các
lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song nhìn
chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa
1.4. Các tư tưởng, trường phái triết học
1.4.1 Chủ nghĩa duy vật:
a. Trường phái Milê: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet
này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm
triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những
khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập
b. Trường phái Hêraclít: Hêraclít là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này
Mác đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết
học Hêraclít vào tư tưởng của nhân loại.
c. Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago: Để giải thích tính đa dạng
của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empêđốc và Anaxago cố vượt
qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường phái
Hêraclít, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa
dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.

d. Trường phái nguyên tử luận Lơxip – Đêmôcrít: là một hệ thống quan
điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa duy
vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xôcrat -
Platông sau này.
 Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
[2]
+ Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
+ Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn
hoà, không hại mình, không hại người.
 Quan điểm về chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
+ Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do &
dân chủ cho con người.
1.4.2. Chủ nghĩa duy tâm:
a. Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là
bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã
đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
b. Trường phái Êlê: Do Xênôphan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng sau
đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
c. Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrat – Platông: do Xôcrat đặt nền
móng và Platông, học trò của ông hoàn thiện
+ Xôcrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của
điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của đạo
đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platông: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết
ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội của
Platông đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi
bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng
nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.

1.4.3. Triết học nhị nguyên của Arixtốt:
Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy Lạp cổ đại, đặt nền móng vững chắc cho
[3]
chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc đẩy lý trí Hy Lạp nảy nở, khoa học văn minh,
phương Tây phát triển.
 Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn và nhận thức:
+ Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
+ Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con người
sinh ra là để nhận thức.
+ Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới sinh
ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
 Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
+ Xã hội tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu lãnh
đạo.
+ Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội & bình
đẳng giữa các cá nhân…
+ Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
2.1. Điều kiện ra đời
2.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Quý tộc, Bình dân tự do,
Nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn (Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi
(không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc
2.1.2.Điều kiện về khoa học và văn hóa:
Người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong phú về nhiều lĩnh
vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến trúc…
[4]
Nền văn hóa mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh pha trộn sự thần

bí.
2.2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa,
mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh tín ngưỡng ma thuật và đa
thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Vêđa đã thể
hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một
nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh
thần và các nghi lễ.
Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ
VI TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa
nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
- Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang
tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết
học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết
học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
- Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
- Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
2.4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
2.4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad đánh
dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học.
Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã),
Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
[5]
2.4.2. Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta. Samkhya,
Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt

nơi mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi
vào vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không
giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn
2.4.3. Hệ thống triết học không chính thống
a. Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn
giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
b. Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính
duy vật và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian tương
đối ngắn Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là hiện hữu những gì ta tri giác
được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm tin vào những cái như thế bị
xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng hợp lý luận cho tính khả thi
của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như một nguồn có giá trị của tri
thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô điều kiện.
c. Triết phái Buddhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cổ đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo được thể hiện:
thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường, duyên khởi ) &
nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ đế, nhân đế, diệt
đế, đạo đế.
[6]
CHƯƠNG 2 : SO SÁNH TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ
HY LẠP CỒ ĐẠI
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI
Thứ nhất: Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch
sử, xã hội
Điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội đã tác động rất mạnh mẽ, có vai trò

quyết định đến sự hình thành tư tưởng triết học của Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ
đại.
• Điều kiện tự nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình có nhiều
núi non trùng điệp, vừa có sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú, có vùng
khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có vùng giá lạnh, có vùng sa mạc khô cằn, nóng
bức. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực
đè nặng lên đời sống và ghi đậm dấu ấn trong tâm trí người Ấn Độ. Người dân
lại sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên triết học Ấn Độ cổ đại mang đậm tính
chất tôn giáo, thần thánh, thiêng liêng và huyền bí.
• Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn. Nhờ vào
điều kiện tự nhiên thuận lợi mà Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm
hữu nô lệ với nền công – thương nghiệp phát triển. Các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu
biết về các lĩnh vực khác nhau, để hướng tới việc xây dựng thế giới quan tổng
thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có
sự phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng
lớp nô lệ. Các nhà triết gia của Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại đều không coi nô
lệ là con người theo đúng nghĩa con người. Tư tưởng triết học đại diện, phục vụ
và bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, tầng lớp trên của xã hội.
[7]
Thứ hai: Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra
đời của vạn vật
Cả hai nền triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều đề cao vai trò con
người, nghiên cứu về đạo đức nhân sinh quan. Triết học chưa tách rời được yếu
tố thần linh ra khỏi ý thức con người. Nền triết học nào cũng có những trường
phái chịu ảnh hưởng thần thánh, tôn giáo.
Ở Ấn Độ: tôn giáo đi sâu vào tư tưởng triết học. Tư tưởng Upanisát - là
gốc triết lý cho hầu hết các hệ thống triết học tôn giáo Ấn Độ - cho rằng trong thế
giới tồn tại đại ngã và tiểu ngã mang bản chất thần thánh. Triết học Ấn Độ cổ đại

rất quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề về bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn
gốc nổi khổ của con người nhằm giải thoát con người, mà Phật giáo là điển hình
với thuyết Tứ diệu đế gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Ở Hy Lạp: tuy xem “triết học là khoa học của mọi khoa học” nhưng vẫn
có những trường phái duy tâm, mang nặng tư tưởng tôn giáo. Chẳng hạn như
trường phái duy tâm của Pytago cho rằng đạo đức phải phục tùng tôn giáo, coi
linh hồn bất tử tồn tại độc lập với thể xác và chịu sự chi phối bởi luật luân hồi.
Giải thoát linh hồn ra khỏi sự ràng buộc của thể xác là mục đích của cuộc sống.
Nhận thức là chức năng của linh hồn. Chân lý có được nhờ vào sự mách bảo của
thần linh, thông qua hình thức chiêm nghiệm tâm linh, được thực hiện bởi linh
hồn bất tử.
Bên cạnh đó, cả hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế
giới tạo thành từ vật chất, phủ nhận vai trò của thần thánh.
Tuy triết học Ấn Độ cổ đại không có sự tách biệt rõ ràng giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm nhưng xen lẫn trong triết học tôn giáo đó vẫn có
những trường phái phủ nhận vai trò thần linh như:
Trường phái Mimansa “coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận
thức; và do cảm giác không nhận thức được thần linh , vì vậy, trong thế giới
không có thần linh”, không cần đến thần linh.
[8]
Trường phái Nyaga đầu kỳ với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới
vật chất được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại, đứng trên lập trường vô
thần để lý giải thế giới.
Trường phái Lokayata cho rằng vạn vật được tạo thành từ đất, nước, lửa,
gió, phủ nhận thần thánh, thiên đường, địa ngục…xa lạ với truyền thống tôn giáo
của Ấn Độ.
Vì gắn liền với khoa học nên nhiều trường phái triết học của Hy Lạp cổ
đại khi xem xét nguồn gốc thế giới đã xa rời thần thánh, thượng đế.
Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu
tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit kết hợp với

lực tình yêu và hận thù. Hay thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận
định vũ trụ được cấu thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình
thành sự vật, tan rã thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.cho
rằng lửa tạo ra vạn vật. Empêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí,
Thứ 3: Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và chủ nghĩa
vô thần có tính biện chứng sâu sắc.
Triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều có những trường phái tương
đồng trong nhận thức như:
• Ở Ấn Độ: trường phái Nyaya và Vaisêsika đều cho rằng nhận thức tồn tại
khách quan, nhận thức đúng khi nó phản ánh đúng bản than đối tượng,
phù hợp với bản chất sự vật.
• Ở Hy Lạp: trong quan niệm về nhận thức, Đêmôcrít cho rằng muốn nắm
bắt bản chất thế giới bắt buộc phải sử dụng nhận thức lý tính.
Chính vì những quan điểm đó, trường phái Nyaya, Vaisêsika và Đêmôcrít
đã xây dựng các phương pháp nhận thức logic.
Thứ 4: Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy
tâm :
[9]
Tuy triết học Ấn Độ không có sự rạch ròi giữa trường phái duy tâm và duy
vật nhưng ít nhiều các trường phái trong các thời kỳ khác nhau đều thể hiện rõ
quan điểm duy tâm và duy vật của mình.
• Duy vật: với các trường phái Samkhya đầu kỳ, Lokayata…
• Duy tâm: với các trường phái Vêđanta, Phật giáo…
Ở Hy Lạp, các trường phái được phân biệt rõ ràng hơn:
• Duy vật : với các nhà triết học như Talet,Anaximen,Hecraclit, Đêmôcrít…
• Duy tâm : với các nhà triết học như Pytago, Pácmêníc, Xôcrát , Platông,…
Thứ 5: Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách
đem lại cho con người cuộc sống hạnh phúc:
Hai nền triết học đã đề cập và giải quyết rất nhiều vấn đề, trong đó vấn đề
về con người được đặc biệt quan tâm. Do đặc điểm xã hội và điều kiện tự nhiên

khác nhau nên cách tiếp cận vấn đề cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung, các triết
gia đều muốn giải thoát, mang lại hạnh phúc cho con người.
Ở Ấn Độ, đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực nhân sinh, truy tìm nguồn gốc
của cái khổ và tìm cách giải thoát con người ra khỏi cái khổ đó. Còn ở Hy Lạp,
các nhà triết học tìm hiểu, lý giải quan hệ giữa linh hồn và thể xác.
Nhìn tổng thể các triết gia Hy Lạp và Ấn Độ cổ đại đều hướng đến việc
xây dựng đời sống đạo đức, chính trị, xã hội của con người.
Thứ 6: Hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ thống hóa và giải
thích được nguồn gốc, tính chất vai trò của phạm trù đối với nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
Thứ 7: Hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình
thành tầng lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế
giới và xây dựng nền triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
[10]
Thời kỳ cổ đại, cả Ấn Độ và Hy Lạp đều có sự phân chia giai cấp rõ rệt.
Chính điều này đã dẫn đến sự phân hóa lao động. Đối với họ, lao động chân tay
là lao động thấp kém, chỉ dành cho tầng lớp cuối cùng trong xã hội, những con
người này không có khả năng nhận thức. Chỉ có tầng lớp trí thức biết xây dựng
và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học, khoa học mới có khả
năng cải tạo thế giới.
Thứ 8: Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý
tưởng siêu thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới
những phán đoán siêu hình về sự tồn tại.
Như thuyết nguyên nhân của Arixtốt, ông cho rằng mọi sự vật tồn tại trên
thế giới đều xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: vật chất, hình thức, vận động và
mục đích. Ông đã dùng các nguyên nhân này để cắt nghĩa lý giải sự tồn tại. Còn
ở Ấn Độ điển hình với trường phái Vêđanta “coi linh hồn vũ trụ là bản chất, là
nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy diệt của
mọi cái trong thế giới”
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI

Do chịu ảnh hưởng khác nhau của hai nền văn hóa, điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội nên triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại có những nét khác nhau rõ
rệt.
Một là, triết học Ấn Độ có sự đan xen với tôn giáo, còn triết học Hy Lạp cổ
đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngưỡng tôn giáo. Do đó, triết học Ấn Độ cổ đại là một nền triết học chịu ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân
biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các
bộ kinh Vêđa, Upanisát.
[11]
Ấn Độ cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ với hai hệ thống triết học, là hệ
thống chính thống và hệ thống không chính thống dựa trên cơ sở thái độ đối với
kinh Vêđa. Đó là một bộ sách thâu lượm tất cả các câu ca dao, vịnh phú về sự
giàu đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, về những tập tục nghi lễ, quan điểm tư
tưởng và những bài thánh ca cầu nguyện các đấng thần linh của người Arya.
Người Ấn Độ cổ tin và giải thích rằng trong vũ trụ tồn tại đồng thời 3 thế
lực liên quan nhau là thần linh, con người và quỹ ác ứng với 3 cõi vũ trụ bao la là
thiên giới, trần thế và địa ngục. Họ đã phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý
giải chúng qua biểu tượng của thế giới thần linh phong phú, chia nhau chi phối
sự biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự điều khiển của nguyên lý rita ( chân xác,
thích hợp, trật tự vận hành vũ trụ).
Do đó, người Ấn Độ cổ đại rất sùng bái, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến
tế. Triết học của họ bênh vực và đề cao tầng lớp tăng lữ “ Vì sự phồn vinh của
thế giới mà từ mồm, tay, đùi và bàn chân mình, Ngài (Bratman) đã tạo ra tăng lữ,
quý tộc, bình dân tự do và nô lệ”, “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của
Bratman, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa mà tăng lữ có quyền làm chúa tể
của các tạo vật ấy” (Luật Manu).
Tuy Jaina giáo và Phật giáo thuộc hệ thống không chính thống nhưng
cũng đều thể hiện quan điểm điểm duy tâm, thần bí. Về thế giới tự nhiên, bằng sự

phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên nhân đầu
tiên cho vũ trụ, có nghĩa là phủ nhận đấng tối cao Bratman sáng tạo ra vũ trụ và
phủ nhận luôn Atman nghĩa là không có tôi, và quan điểm “vô thường”.
Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người.
Triết học Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản
chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy
diệt của mọi cái trong thế giới, còn linh hồn cá nhân bị vây hãm, ràng buộc bởi
những ham muốn nhục dục của thể xác. Con người phải dốc lòng tu luyện ,
chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với
[12]
linh hồn vũ trụ. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ
quan, thần bí.
Xuất phát từ những đòi hỏi và hiện thực xã hội, các nhà triết học Ấn Độ
cổ đại là những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà giáo dục, đạo đức, chính trị - xã
hội, thiên về cải tạo thế giới, giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội khắc nghiệt.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong
nó. Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình
độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên cứu tự
nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã
tạo nên một bước ngoặc lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần
thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất,
những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ
thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời

bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán
học, nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít, Từ các yếu tố đó có thể
khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với
nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham hiểu biết, yêu thích sự thông thái
(philosophia). Triết học được coi như “người mẹ” của các ngành khoa học, “triết
học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học mang lại cho chúng ta năng lực
hiểu biết, “người mẹ” đó nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì nếu không có tư duy
lý luận nhà khoa học không thể trở thành nhà khoa học đúng nghĩa.
[13]
Hai là, triết học Ấn Độ cổ đại có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình. Trong khi đó
triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện
chứng và phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ
thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan
xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép
siêu hình.
Chẳng hạn như các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn
giáo của Vêđa, nhưng coi Vêđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ.
Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta
thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần.
Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa
không phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu
thần chú của nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần
linh, mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như
một hành động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái
Mimansa không được tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã

thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế
giới được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với
thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể
xác thì mất đi.
Qua đó có thể thấy, trong triết học Ấn Độ cổ đại sự phân chia các trường
phái triết học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu vào những nội dung cụ thể thì có
mặt duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy
tâm. Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt để
[14]
của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như
phương Tây.
Trong khi đó, triết học Hy Lạp cổ đại chia ra thành các trường phái rõ rệt:
trường phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm) và trường phái nhị nguyên, thậm chí
còn chia ra những nhà vô thần và hữu thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị
tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu triết học duy vật của
Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm của Platông. Hai học thuyết đó ảnh hưởng
sâu đậm đến đời sống phương Tây. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ đại rất nhất
quán, kiên định một quan điểm, một lập trường.
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê là Talét, Anaximăngđrơ
và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên, vĩnh viễn vận động
tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo Anaximăngđrơ đó là một
thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không khí. Hêraclít không
thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa, lửa
thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn vật.
Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê như Xênôphan,
Pácmênít, Đênông và trường phái Pitago lại có những quan điểm duy tâm, siêu
hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế giới là một tồn tại bất động và bất
biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên của vũ trụ (trường phái Pitago). Đặc
biệt, ở chủ nghĩa duy tâm có trường phái duy tâm khách quan của Platông. Ông

đã xây dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới
tự nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Platông là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy
Lạp - La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ
thuyết ý niệm của Platông; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của
mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
[15]
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch
sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng.
Ba là, triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là
vấn đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận. Triết
học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh
(bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi khổ của con người) nhằm tìm kiếm
phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa con người
trong lao động sản xuất.
Upanisát bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn
tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh
hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng
và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống
trần tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là
"nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác
này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với

chân bản của mình là Brátman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp
báo để đạt tới đồng nhất với "tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người
phải dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức
trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi
đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu
"siêu thoát".
[16]
Thừa nhận quan niệm "luân hồi" và "nghiệp báo" trong Upanisát, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni
đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh
ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi
của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo.
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm
giải quyết các vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng
“hướng nội”. Có thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và là ưu thế của
nhiều học thuyết triết học Ấn Độ cổ đại.
Ngược lại, các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là
suy tư về bản chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể bản nguyên
tượng trưng làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là
nước, đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là
tinh thần. Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số,
Pacmênic cho rằng bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit
phỏng đoán mọi sự vật đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử
nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn.
Hêraclit đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của
các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được
thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.

Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân
sinh quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt
thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội
và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình Mỗi
con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức,
mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa
cá nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con,
[17]
thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã
người hội và cấu trúc linh hồn của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn
nhau. Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã hội được
xếp đặt theo trật tự duy lý. Xôcrat và Platông thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của
bản chất con người trên tấm vải thô lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của
bản chất con người. Con người chỉ thực sự sống trong xã hội, không thể sống
ngoài xã hội Arixtốt, một nhà duy lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của
Platông “Con người không thể là con người nếu không có xã hội "
Bốn là, triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét
khách quan
Các nhà triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng muốn nhận thức tốt thì phải hòa
hợp giữa chủ thể và khách thể với nhau.
Upanisát cho rằng “tinh thần vũ trụ tối cao” Brátman là thực thể cao nhất,
có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh
ra và nhập về với nó sau khi chết, là khách thể. Còn Atman là tinh thần con
người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hóa, là chủ thể, và chẳng qua chỉ là linh
hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi. Linh hồn con người “Átman” chỉ là sự
biểu hiện, là một bộ phận của “Brátman”.
Rig Vêđa đã suy tư về quan hệ giữa thế giới vĩ mô và vi mô, quan hệ giữa
tự nhiên và con người. Rig Vêđa không phân chia con người và tự nhiên thành

chủ thể và khách thể mà đồng nhất con người và tự nhiên.
Tư tưởng triết học cốt lõi của trường phái Yôga là sự thừa nhận nguyên lý
hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể, thông qua các phương pháp Yôga mà mỗi cá
thể có thể tập luyện để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn trong mình để
làm chủ mình, tiến tới làm chủ môi trường, và sau cùng là vươn đến sự giải thoát.
[18]
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học Ấn Độ cổ đại như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, hay nghiên cứu thế giới cũng để làm
rõ con người và vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ trong triết học Ấn Độ
cổ đại bị mờ nhạt.
Về vấn đề con người, triết học Ấn Độ cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối
quan hệ giữa người với đời sống tâm linh ít quan tâm tới mặt sinh vật của con
người, chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh quan (bản
chất, ý nghĩa, đời sống, nguồn gốc, nổi khổ của con người” gắn liền với quan
điểm tôn giáo nhằm tìm kiếm con đường, phương tiện, cách thức giải thoát con
người, mà không thấy mối quan hệ giữa con người trong lao động sản xuất.
Đối lập lại, các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi
vũ trụ, coi con người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách
quan. Đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề
con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên triết học
Hy Lạp cổ đại thể hiện đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời,
mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và thế
giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả
biến, thoáng qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự sinh thành
của thế giới sự vật, con người và hoạt động của linh hồn…
Năm là, triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung trực giác, triết học Hy Lạp
ngã về tư duy duy lý
Trường phái Mimansa coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức.

Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt đầu từ luân lý đạo đức, nhận thức gắn liền
với đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu.
Điều này quy định tính chất trực nhận, trực giác trong triết học Ấn Độ. Từ đó,
[19]
một lôgíc kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức lại nghiêng về ẩn dụ, hình
ảnh.
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của
Hy Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân
lý vô hạn cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy
luật của Triết học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất
thấp đến mức độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá,
cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể.
Các nhà triết học Hy Lạp đều đề cao tư duy lý tính. Chẳng hạn, Xênôphan
cho rằng nhận thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ. Bằng cảm
tính chúng ta không thể nhận thức được bản chất sự vật. Muốn nhận thức được
bản chất sự vật phải dựa vào tư duy, lý tính. Và quan điểm duy lý này đã được
Pácmênít phát triển thành chủ nghĩa duy lý. Pácmênít cho rằng bản chất của sự
tồn tại là bất biến, vĩnh hằng, đơn nhất và tồn tại – bản chất của vạn vật chỉ có thể
được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Triết học Hy Lạp có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan. Phương tiện nhận thức của triết học Hy Lạp là khái niệm, mệnh
đề, biểu thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn.
Sáu là, triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng
phục cổ, không có những bước nhảy vọt về chất, còn triết học Hy Lạp cổ đại
có sự đấu tranh giữa các trường phái mang tính chất quyết liệt, triệt để, có
sự phát triển về chất khá rõ rệt
Triết học Ấn Độ ít thấy có những bước nhảy vọt về chất mà chỉ là sự phát
triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục
bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, xuất phát từ tinh thần Vêđa chia ra làm
hai hệ thống: hệ thống chính thống ủng hộ tinh thần Vêđa và trường phái không

chính thống phản đối lại tinh thần Vêđa.
[20]
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là
vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy
nó không mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không
phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không
gay gắt và cũng không triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến
kéo dài quá lâu và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen, cộng
sinh bên nhau.
Ngược lại, triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên
càng tiến hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái
sau phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Mặc dù là học trò của Platông, nhưng Arixtốt đứng trên quan điểm duy
vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông. Về mặt bản thể luận, ông cho
rằng việc Platông chia thế giới thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật là hoàn
toàn thiếu cơ sở. Về mặt nhận thức luận, ông bác bỏ hoàn toàn quan niệm
Platông cho rằng ý niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật, theo Arixtốt
điều này là vô dụng ngược đời. Theo ông, bản chất phải nằm ngay bên trong sự
vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành cái chung dưới dạng
khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù không phải là cái có
trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại của sự vật mà ngược lại sự tồn tại sự vật
được phản ánh trong khái niệm, quy luật, phạm trù của nhận thức.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những
trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường
phái Talét, Hêraclit đến Đêmôcrit. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại có thể chia
làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật
của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông.
Có thể thấy được triết học Ấn Độ cổ đại thiên về giải quyết mặt thứ hai

của vấn đề cơ bản triết học “con người có khả năng nhận thức thế giới hay
[21]

×