Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN Đề tài SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.37 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : NGUYỄN XUÂN YÊN
STT : 141
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5/2011
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương I: Khái quát chung về triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại 3
1. Khái quát chung về triết học Hy Lạp cổ đại 3
1.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại 3
1.2. Những tư tưởng và những nhà triết học tiêu biểu 4
2. Khái quát chung về triết học Ấn Độ cổ đại 8
2.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại 8
2.2. Những tư tưởng và những nhà triết học tiêu biểu 9
Chương II: So sánh triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại 12
1. Sự tương đồng của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại 12
2. Sự khác biệt của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại 16
Kết luận 25
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học


Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là
những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học
thế giới sau này. Từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau này đã nhìn thấy
mầm mống của các kiểu thế giới quan, các trường phái tư tưởng vẫn còn nguyên
giá trị đến bây giờ.
Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ
bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết
theo nội dung của thời đại mình. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ.
Những thành tựu triết học của Hy Lạp cổ đại xứng đáng ghi một mốc son trong
lịch sử triết học loài người.
Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải quyết những vấn đề
của tư duy triết học. Đó là những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhận thức luận và
nhân sinh quan nhằm tìm kiếm con đường giải thoát chúng sinh ra khỏi thực tế
xã hội luôn xung đột đẳng cấp và chủng tộc khắc nghiệt. Đặc biệt, triết học Ấn
Độ cổ đại đã giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn giáo.
Sự phản tỉnh nhân sinh là một ưu thế của nền triết học này, là một giá trị triết học
mà con người hiện đại không thể bỏ qua.
Tuy xuất phát từ hai nền văn hoá khác nhau nhưng cả triết học Hy Lạp cổ
đại và Ấn Độ cổ đại đều nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học, nâng
cao khả năng tư duy lý luận của loài người, là hai mặt của một vấn đề, chúng tồn
tại và bổ sung hoàn hảo cho nhau.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 1
Việc tìm hiểu sự tương đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và
Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương
Tây và triết học phương Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai
nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người và xã
hội. Vì vậy, việc tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt của hai nền triết học này là

vấn đề cần thiết, rất cấp bách trong điều kiện thế giới đổi thay nhanh chóng như
hiện nay. Đó cũng chính là lý do chúng tôi chọn đề tài này làm đề tài tiểu luận
Tuy nhiên với lượng kiến thức tìm hiểu còn chưa đầy đủ và quỹ thời gian
có hạn nên bài viết của chúng tôi khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, kính
mong sự giúp đỡ và đóng góp của thầy và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh
hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng
những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục
đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa
hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có
được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỘC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1 Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất
liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu
Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát
triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì
vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để Hy Lạp trở thành một quốc gia
chiếm hữu nô lệ có một nền công – thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa

tinh thần phong phú, đa dạng.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là
kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong
sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao
lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành
tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu
triết học và khoa học.Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ
đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Những tư tưởng triết học thời kỳ này có những đặc điểm cơ bản là: thứ
nhất, nó thể hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị; thứ hai,
triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trường phái
duy vật và duy tâm, vô thần và hữu thần; thứ ba, nó nổi bật bởi tính tổng hơp, đa
dạng, nhưng là triết học còn ở trình độ thấp; thứ tư, nó đã xây dựng nên phép
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 3
biện chứng tự phát; và cuối cùng, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con
người.
1.2 Những tư tưởng và những nhà triết học tiêu biểu
1.2.1 Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet-trường phái
Heraclite, trường phái Đa nguyên và đạt đỉnh cao trong trường phái Nguyên tử
luận.
1.2.1.1 Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet do 3 nhà triết học lập nên: Thales, Anaximandre
và Anaximène nhằm làm sáng tỏ bản nguyên vật chất của thế giới.
Thales là thủy tổ của khoa học và triết học Hy Lạp. Ông cho rằng nước là
bản chất của vạn vật, nước luôn luôn thay đổi hình thái nên mới sinh ra các vật
thể khác nhau. Ông cho rằng trong thế giới "Vật chất là có mãi, không thể sáng
tạo ra và cũng không thể tiêu diệt đi". Ông nhận xét rằng : Nước là yếu tố đầu
tiên, là bản nguyên của vạn vật; vạn vật bắt đầu từ nước và luôn quay trở về với

nước; không có nước thì không có gì cả. Như vậy ông cũng đã phá vỡ mê tín cho
rằng "Thần là kẻ sáng tạo ra vạn vật". Quan niệm của ông tuy còn mộc mạc thô
sơ nhưng đã chống lại quan điểm tôn giáo về nguồn gốc vũ trụ.
Anaximandre cho rằng cơ sở vật chất đầu tiên không phải là vật cụ thể mà
là các nguyên tố khởi đầu khó nhận thức bằng giác quan. Vũ trụ là một thể vật
chất vô cùng rối ren, phức tạp, luôn chia thành những mặt đối lập nhau: khô và
ướt, nóng và lạnh. Vũ trụ được phản ánh trừu tượng hơn và vật chất không đồng
nhất với vật cụ thể và có liên hệ vĩnh viễn, có biến chuyển và ảnh hưởng lẫn
nhau. Đó là cái quan điểm biện chứng có tính chất nguyên thủy.
Anaximène cho rằng nguồn gốc của vạn vật bắt đầu từ không khí. Nhờ
không khí và sự chuyển động của nó, vạn vật trong vũ trụ được tạo ra và sau đó
lại quay về dạng không khí. Ông là người nghiên cứu nguồn gốc vụ trụ trên quan
điểm vô thần.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 4
Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet này là đã được đặt
nền móng cho sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp
tục bổ sung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất,
không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
1.2.1.2 Trường phái Héraclite
Do nhà duy vật Héraclite (530-470 TCN) sáng lập. Ông sớm trở thành một
nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy
Lạp. Ông cho rằng lửa là dạng vật chất đầu tiên. Vũ trụ là một thể thống nhất của
vạn vật, không phải do thần linh sáng tạo ra, cũng không phải do người sáng tạo
ra. Trong quá khứ, trong hiện tại cũng như trong tương lai, nó là do ngọn lửa
vĩnh viễn, linh hoạt nhen nhóm lên theo quy luật, đồng thời cũng theo quy luật
mà tiêu vong, tàn lụi và bùng cháy theo cái logic "Quy luật trật tự" nội tại của
chính mình. Khi coi vận động của vật chất là vĩnh viễn, và dựa vào kinh nghiệm
mà ông xem thế giới "vừa tồn tại, vừa không tồn tại", vạn vật luôn nằm trong
quá trình không ngừng sinh thành, biến đổi và chuyển hóa "Không ai tắm hai lần
trên một dòng sông". Thế giới vật chất "vừa đa dạng, vừa thống nhất, vừa mang

tính hài hòa, vừa xung đột".
Như vậy Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán thiên tài về quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này Marx đã đề cập và
đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Héraclite vào
tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt đêm.
1.2.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle - Anaxago
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,
Empédocle và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn nguyên, xây dựng quan niệm
đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empédocle đề xướng thuyết
nguyên tố cho rằng thế giới do bốn nguyên tố: đất, nước, lửa và không khí tạo
thành, chúng chịu sự tác động của hai lọai lực là : tình yêu và hận thù. Dưới sự
tác dụng của lực tình yêu, đất, nước, không khí, lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật,
nhưng dưới tác dụng của lực hận thù, chúng bị chia tách ra làm vạn vật mất đi.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 5
Phát triển những tư tưởng của các nhà triết học trước đó, Anaxago cho rằng
vạn vật trong vũ trụ do vô số các “hạt giống” tạo nên, các hạt giống trong quá
trình phát triển chia thành nhiều hạt giống mới, kết hợp với nhau tạo nên vật chất
theo quy luật của vũ trụ mà Anaxago gọi là "lý tính vũ trụ".
Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế và
những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận.
1.2.1.4 Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy lạp cổ đại được thể
hiện trong trường phải nguyên tử luận thế kỷ VIII (TCN). Leucippe là người
sáng lập và Democrite là người kế thừa phát triển.
Leucippe (500-440 TCN), ông cho rằng mọi sự vật được cấu thành từ
những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được,
nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể
thẩm thấu được. Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông
đã để lại qua những trang viết của các học trò ông tổng hợp.
Democrite (460-370 TCN) là học trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển

thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông, vũ trụ được cấu
thành bởi hai thực thể là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn
nguyên của các sự vật hiện tượng.
1.2.2 Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường
phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao
trong trường phải duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm
1.2.2.1 Trường phái Pythagore
Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế
giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất định, con số
có trước vạn vật. Ông cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn. Pytogo
đã lý giải các mặt đối lập vốn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp
đối lập cơ bản: hữu hạn và vô hạn, chẵn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, đực và cái,
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 6
động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp
đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là
những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pytago đã
đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
1.2.2.2 Trường phái Elee
Do Elee (V-VI TCN) thành lập theo chủ nghĩa duy vật nhưng sau đó
Parmenede phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt thành bảo vệ
và phát huy.
Xenophane (570-478 TCN) chịu ảnh hưởng của Thales, ông cho rằng mọi
cái đều từ đất mà ra và cuối cùng trở về với đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng
với nước, đất tạo nên sự sống của muôn lìa. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất
chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trên thế giới. Tồn tại là một phạm trù
triết học mang tính khái quát cao và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm tồn
tại đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Zeno (490-430 TCN) là ngưởi bảo vệ nhiệt thành trường phái Elee. Ông
đưa ra những Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông

qua chúng ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhấ, duy nất là bất biến”. Còn
tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
1.2.2.3 Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân
chủ Athen và bảo vệ hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận.
Được xây dựng bởi Socrate và Planton.
Socrate (469-399TCN), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên
cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. “Con
người hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức.
Plantông (427-347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen.
Ông trở thành kiệt xuất nhất thời Hy Lạp cổ đại bởi quan niệm triết học duy tâm
khách quan. Ông xây dựng chỉ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 7
“thuyết ý niệm”. với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều
tư tưởng sâu sắc về đạo đức chính trị và xã hội
1.2.2.4 Chủ nghĩa nhị nguyên
Aristote(384-322 TCN),ông sinh ra tại miền Bắc Hy lạp, là học trò xuất sắc
của Platon. Nhưng đặc biệt ông phế phán học thuyết “ý niệm” của Platon vì ý
niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platon, ông cho
rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platon còn
thể hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một
bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự
nhiên được thể hiện ra. Vận độn của thể giới tự nhiên có nhiều hìn thức, sự tăng
và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian, sự thay đổi về
chất Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học
Phương Tây phát triển.
2. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
2.1 Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất đai rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á (bao gồm

cả nước Pakixtan, Banglađét và Nêpan ngày nay) có điều kiệ tự nhiên và cư dân
rất đa dạng. Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn,
toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết
sức khắc nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn là tăng lữ, đẳng cấp quý tộc, đẳng cấp
bình đẳng tự do, đẳng cấp nô lệ. Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những
tri thức rất sớm và phong phú về nhiều lĩnh vực.
Dù cùng được hình thành và phát triển từ trong truyền thống Vêđa, nhưng
các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại lại luôn xung đột lẫn nhau và sự xung đột
này kéo dài cho đến hết thời trung đại. Tuỳ thuộc vào việc có thừa nhận hay
không quyền uy, sức mạnh của Vêđa mà các trường phái triết học Ấn Độđược
chia thành hệ thống chính thống và hệ thống không chính thống. Mặc dù có
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 8
những trường phái, hệ thống khác nhau nhưng nhìn chung, triết học Ấn Độ cổđại
có những đặc điểm cơ bản sau:thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất
phong phú nhưng không mang tính cách mạng điều này phản ánh sự trì trệ của xã
hội Ấn Độ cổ đại; thứ hai, triết học Ấn Độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo,
trên cơ sở tín ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học-tôn giáo; thứ
ba, các hệ thống triết học-tôn giáo ở Ấn Đọ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề nhân
sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
2.2 Những tư tưởng và những nhà triết học tiêu biểu
Tùy thuộc vào việc có thừa nhận hay không thừa nhận uy quyền và sức
mạnh của Kinh Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại được chia thành hai hệ thống.
2.2.1 Hệ thống triết học chính thống
Thừa nhận kinh Veda như một thánh điển thần khải, với 6 triết phái cơ bản
2.2.1.1 Triết phái Samkhya
Phái này sơ kỳ có khuynh hướng duy vật, cho rằng mọi cái đều xảy ra theo
nguyên nhân của mình. Nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng là
vật chất. Dạng vật chất đầu tiên là prariti. Nó là thể thống nhất của ba yếu tố
(guna): Satta (nhẹ, sáng, tưới, vui), Rajas (độnh, kích thích), Tamas (nặng, khó
khăn). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân băngf bị phá vỡ thì vật chất bị biểu hiện

thành các sự vật, hiện tường nhờ đó có thế giới tạo ra. Phái Samkhya hậu kỳ
chuyển sang lập trường nhị nguyên, thừa nhận rằng: ngoài Prariti thì cần phải có
Purusa truyền sinh khí vào mới sinh ra được vạn vật.
2.2.1.2 Triết phái Mimansa
Trường phái này do hiền triết Jaimini viết. Phái Mimansa sơ kỳ có xu
hướng vô thần không thừa nhận thần linh. Họ cho rằng sự tồn tại là không có
chứng cứ vì không thể tri giác được thần. Không tin vào thần linh nhưng những
người thuộc trường phái này lại tin vào sức mạnh của Vêđa, họ cho rằng các nghi
lễ trong Vêđa tự có sức mạnh vật chất chứ không phải do thần linh đem lại. Phái
Mimansa hậu kỳ lại msng tính nhị nguyên luận, thừa nận cái vật chất và ý thức cả
hai yếu tố cùng tồn tại song song.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 9
2.2.1.3 Triết phái Vedanta
Trường phái này do Badarayava viết. Phái này muốn hệ thống hóa lại tư
tưởng của Upanishad-bộ kinh cuối cùng trong Vêđa, Vedata có nghĩa là “kết thúc
Vêđa”. Phái Vedanta mang lập trường nhất nguyên duy tâm. Phái này cho rằng:
tồn tại là ý thức thuần túy, là sự thống nhất tuyệt đối giữa Brahman (linh hồn thế
giới) với Atman (linh hồn cá thể); thế giới vật chất là ảo giả, không thực do vô
minh sinh ra. Phái Vedanta hậu kỳ có quan điểm duy tâm khách quan, thừa nhận
sự tồn tại khách quan của cả Brahman lẫn Atman, trong đó Atman là bộ phận của
Brahman.
2.2.1.4 Triết phái Yoga
Ra đời vào khoản thế kỷ thứ II trước công nguyên, trường phái Yoga chấp
nhận cơ sở triết học của Samkhya và vận dụng nó vào mặt thực hành của việc tự
nhận thức mình. Mục đích của Yoga là loại trừ những lệch lạc, méo mó do ý thức
gây ra để tìm về với bản chất chân thực của Tinh thần. Phương thức để đạt tới là
sự suy tưởng, một điều cần nhiều sự rèn luyện và chuẩn bị về thể xác và tâm thức
qua Bát bảo tu pháp .
2.2.1.5 Triết phái Nyaya và Vaisesika
Lúc đầu hai phái này độc lập những có nhiều điển tương đồng, về sau sáp

nhập làm một. Trường phái này có hai đóng góp quan trọng là nguyên tử luận và
logic học.
Nguyên tử luận: theo thuyết này thế giới là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng tất cả đều được tạo nên từ bốn dạng vật
chất đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí; các dạng vật chất này lại được tạo
nên từ các nguyên tử (Anu). Nguyên tử là những hạt vật cất bất biến, vĩnh viễn,
khác nhau về khối lượng, hình dáng và tồn tại trong không gian và thời gian.
Ngoài nguyên tử còn có vô số những linh hông cá thể mà đặc tính của chúng là
ước vọng, ý chí, buồn vui, giận hơn. Để để điều khiển sự kết hợp giữa các
nguyên tử hay giữa nguyên tử và linh hồn cần phải có một lực lượng tứ ba là thần
Isvara.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 10
Logic học: phái này thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận
thức; đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm; coi thực tiễn (kinh nghiệm) là
tiêu chuẩn của chân lý- “phù hợp thì thắng”. Họ đưa ra phép ngữ đoạn luận-phép
suy luận gồm năm phán đoán: luận đề, nguyên nhận, minh họa, suy đoán, kết
luận.
2.2.2 Hệ thống triết học không chính thống
Hệ thống không thừa nhận kinh Veda bao gồm 3 triết phái cơ bản
2.2.2.1 Triết phái Jaina
Người sáng lập trường phái này là Mahavira. Trường phái này mang đượm
màu sắc tôn giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên. Quan điểm
của các nhà triết học theo trường phái này mang tính mâu thuẫn. Họ là những
người duy vật khi giải quyết vấn đề bản thề luận. Nhưng khi giải quyết vấn đề
nhận thức luận, họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và tương đối luận. Các
nhà triết học theo trường phái này đưa ra một hệ thống bao gồm 9 phạm trù triết
học như: giới hữu cơ, giới vô cơ, cái thiện, tội lỗi, Asrava, Samvara, phụ thuộc,
Nirjan, giải thoát và cho rằng người nào củng cố và làm chủ được 9 phạm trù kể
trên sẽ có những hành động đạo đức đúng, niềm tin vững chắc và tri thức đầy
đủ.Hai phạm trù “giới hữu cơ” và “giới vô cơ” được đặt lên vị trí hàng đầu, từ

chúng có thể triển khai thành các phạm trù khác.
2.2.2.2 Triết phái Lokayata
Triết học Lokayata hay còn gọi là Carvaka mang tính duy vật chủ nghĩa và
vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian tương đối
ngắn.Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử thi và cả trong kinh
sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là hiện hữu những gì
ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm tin vào những cái
như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng hợp lý luận cho
tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như một nguồn có
giá trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô điều kiện. Chỉ
nên chấp nhận sự suy ra nếu kết quả của nó ít nhất, về mặt nguyên tắc, có thể tri
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 11
giác được. Tuy nhiên nó vỏn vẹn chỉ là một yêu cầu siêu hình, một chọn lựa
cách thức thông giải kinh nghiệm của mỗi người.
2.2.2.3 Triết phái Budđhsam
Là một trường phái triết học tôn giáo lớn của Ấn Độ cố đạo, ra đời vào
khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, do thái tử Siddhara (Tất đạt đa) sáng
lập, về sau được tôn xưng là Sakyamuni (Thích ca mâu ni). Những tư tưởng cơ
bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ đại được thể hiện:
Về thế giới quan: Thế giới quan của triết học Phật giáo được phảnh ánh
trong ba phạm trù: vô ngã, vô thường, duyên khởi
Về nhân sinh quan: Đây là nội dung chủ yếu của triết học Phật giáo và tập
trung vào tứ diệu (4 chân lý tuyệt diệu): khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
Sau khi Siddhara mất, Phật giáo đã chia thành hai bộ phận: Thượng tọa và
Đại chúng. Đến khoảng thế kỷ thứ II trước công nguyên xuất hiện nhiều tông
phái Phật giáo khác nhau, về triết học có hai tông phái đáng chú ý là phái
Sarvaxtivadin và Sautrastika.Vào đầu công nguyên, Phật giáo Đại thừa xuất hiện
với chủ trương “tự giác”, “tự tha”, với phái Phật giáo đối lập là Tiểu thừa. Phật
giáo Ấn độ bắt đầu suy yếu từ thế kỷ thứ IX và đặc biệt trước sự tấn công của
Hồi giáo vào khoảng thế kỷ XII.

CHƯƠNG II:SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ CỔ
ĐẠI
1. Sự tương đồng giữa triết học Ấn độ cổ đại và Hy lạp cổ đại
1.1 Tư tưởng triết học Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại đều chịu ảnh hưởng từ sự
tác động của điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội
Tuy Ấn Độ và Hy lạp cổ có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau
nhưng cả hai nền triết học đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các thành tự rực rỡ
trong lĩnh vực văn hoá, khoa học tự nhiên cũng như chính chị, tôn giáo. Triết học
Ấn Độ cổ quan hệ mật thết với tôn giáo nên các quan điểm của nó cũng mang
đậm màu sắc tôn giáo. Chính điều tự nhiên tạo nên nền văn minh sông ấn cũn là
tác nhân gây ra nhiều hiện tượng kỳ bí, nhiều thiên tai dịch họa mà con người
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 12
bấy giờ không thể lý giải được. Từ đó, văn chương Ấn cổ đại đã phác họa ra các
thần linh như là điểm tựa để giải thích tự nhiên, và cũng từ đó, tôn giáo ra đời,
lớn mạnh và có ảnh hưởng lớn trong mọi hoạt động văn hóa xã hội, trong đó có
triết học.
Triết học Hy Lạp cổ lại gắn bó chặt chẽ với khoa học tự nhiên bởi các nhà
triết học Hy Lạp cũng là các nhà khoa học, họ dùng quan sát và tư duy lý luận để
tìm cách giải thích sự tồn tại của thế giới và vị trí của con người trong thế giới
đó. Vì các ngành khoa học lúc bấy giờ chưa đủ lớn mạnh nên các nhà khoa học
phải hướng đến triết học để tìm cái chung nhất, tìm phương pháp chung để giải
thích các câu hỏi đặt ra trong khoa học. Đó là lý do mà người Hy Lạp cổ xem
triết học là khoa học của mọi khoa học.
Ta cũng thấy được cả 2 nền triết học đều ra đời trong hoàn cảnh xã hội có
sự phân chia giai cấp rõ rệt – cả hai xã hội này đều xem tầng lớp nô lệ là tầng lớp
tận cùng xã hội và đáng bị đàn áp. Các nhà triết học Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại đều
đứng tại vị trí của giai cấp thống trị, tức là những người lao động trí óc, để lý giải
thế giới.
Triết lý Ấn Độ bảo vệ quan điểm Xã hội Ấn Độ bênh vực và đề cao tầng
lớp tăng lữ. Vì chịu ảnh hưởng bởi quan niệm xã hội và tôn giáo, Triết học Ấn độ

cổ đại cho rằng “ Vì sự phồn vinh của thế giới mà từ mồm, tay, đùi và bàn chân
mình, Ngài (Bratman) đã tạo ra tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ”, “Do
sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của Bratman, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết
Vêđa mà tăng lữ có quyền làm chúa tể của các tạo vật ấy” (Luật Manu). Và vì
sinh ra từ bàn chân của nên nô lệ là tầng lớp bị chà đạp và phải phục dịch các
tầng lớp trên. Tương tự, người Hy Lạp mà trong đó có đại đa số các nhà triết học
cổ Hy Lạp xem nô lệ không phải là con người mà là công cụ biết đi, là động vật
biết nói không hơn không kém.
1.2 Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của
vạn vật
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 13
Cả triết học cổ Ấn Độ và Hy Lạp đều phân hoá thành các bộ phận duy vật
và duy tâm. Một cánh cho rằng thế giới vạn vật là do thần linh tạo ra, cánh kia lại
phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, cho rằng thế giới được tạo thành từ vật chất.
Đối với quan điểm thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có
nguồn gốc thần bí, có thể tìm thấy các đại diện tiêu biểu từ cả hai nền triết học:
• Ấn Độ có trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý
niệm thần thánh hóa cặn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra
vạn vật. Tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân
hồi báo ứng. Hay trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã
và tiểu ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với
đại ngã.
• Triết học Hy Lạp cổ đại có các trường phái theo tư tưởng này như trường
phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm – tôn giáo của phương đông,
coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu luân hồi. Để lại nhiều
thành tựu nhất trong nền triết học duy tâm Hy Lạp phải kể đến trường phái
Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh sáng tạo và an bài. Ý
niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt đối. Thế giới sự vật
là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần Tạo hóa mô phỏng từ ý
niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới dạng các tinh tú, và chỉ được nhận

thức bằng linh hồn vũ trụ của con người. Con người bao gồm thể xác khả tử và
linh hồn bất tử.
Đối lập với quan điểm duy tâm cho rằng thế giới tự nhiên là do thần thánh
sáng tạo nên, cả hai nền triết học đều có các đại diện duy tâm với triết lý phủ
nhận sự tồn tại của thần thánh và đề cao thế giới vật chất: Triết học Ấn Độ có
trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất được cấu
thành từ các nguyên tử kết hợp lại. Trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ thuyết
nguyên tử luận. Phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm đất,
nước, gió, lửa. Triết học duy vật Hy Lạp cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành
bởi các yếu tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 14
cho rằng lửa tạo ra van vật. Êm pê đốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không
khí, kết hợp với lực tình yêu và hận thù. Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp –
Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên
tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra
sự vật.
1.3 Có sự tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần
bước đầu có tính biện chứng trong triết học Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại, xây
dựng phương pháp lý luận logic.
Nhận thức luận của Nyaya thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách
quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận, tương tự
và bằng chứng. Phái này cùng với Vaisêsika đều xây dựng những phương thức
logic học, xây dựng lý luận về phạm trù, phản ánh sự tồn tại của thế giới. Về phía
triết học Hy Lạp, Đêmôcrit đề cao nhận thức lí tính, xuất phát từ nhận thức cảm
tính, để tìm ra nhận thức lí tính; muốn nắm bắt được bản chất thế giới thì không
thể không sử dụng nhận thức lý tính. Ông cũng là người đã xây dựng những
phương pháp nhận thức logic học như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa và
được Arixtốt coi là nhà logic học đầu tiên phát biểu về nội dung logic học.
1.4 Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ
thống hóa và giải thích được nguồn gốc, tính chất vai trò của phạm trù đối với

nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do giới hạn trong nhận thức và cũng do triết
học thời kỳ cổ đại ra đời khi kiến thức khoa học của con người còn non nớt nên
triết học cổ đại Ấn Độ và Hy Lạp không tránh khỏi sai lầm hay việc đưa ra các lý
luận ngây ngô, chấc phác.
1.5 Trong quá trình nhận thức ,suy tư triết lý, đôi khi các nhà triết học Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đã đạt tới ý tưởng siêu thực; vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác
quan đạt tới những phán đoán siêu hình về sự tồn tại. Ví dụ như Apôri phân đôi
hay Apôri Asin và con rùa, Apôri mũi tên bay của Dênông đã tuyệt đối hóa và
tách tính gián đoạn ra khỏi tính liên tục của vận động, không thấy rằng vận động
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 15
là quá trình thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng yên, giữa tính liên tục
và gián đoạn.
2. Sự khác biệt giữa triết học Ấn độ cổ đại và Hy lạp cổ đại
2.1 Triết học Ấn Độ cổ có sự đan xen với tôn giáo, trong khi đó triết học
Hy Lạp cổ lại có mối quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên.
• Văn hóa Ấn Độ trải qua các thời kỳ của lịch sử mang đậm dấu ấn tín
ngưỡng văn hóa. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến nền triết học Ấn Độ thời kỳ Vêđa
và thời kỳ cổ điển. Rất khó để phân biệt giữa triết học và tôn giáo Ấn Độ khi mà
các tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi truyền thống và thể hiện trong các
bộ kinh Vêđa, Upanisát, Bàlamôn… Chính tự nhiên là cái nôi tạo nên nền văn
minh sông ấn cũng là nguyên nhân gây ra thiên tai dịch họa. Con người đi tìm lời
giải cho các hiện tượng thần bí, khắc nghiệt đó đã dẫn đến việc sáng tạo ra thế
giới các vị thần có tính chất tự nhiên để giải thích các hiện tượng phong phú và
phức tạp trong thực tại. Các vị thần đầu tiên trong kinh Vêđa đều tượng trưng
cho các lực lượng, sự vật tự nhiên mà người Ấn Độ thờ phụng. Người Ấn cổ đã
phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý giải chúng qua biểu tượng của thế giới
thần linh phong phú, chia nhau chi phối sự biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự
điều khiển của nguyên lý. Cũng vì triết học Ấn Độ có quan hệ mật thiết với tôn
giáo và góp phần hỗ trợ tôn giáo nên người Ấn Độ cổ đại rất sùng bái, tín
ngưỡng, cầu nguyện và hiến tế.

• Triết học Hy Lạp cổ đại, khác với triết học Ấn Độ cổ: sự phân hóa lao
động và đề cao lao động trí óc trong xã hội Hy Lạp cổ đã thúc đẩy sự hình thành
tầng lớp trí thức chuyên nghiệp, biết sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên
cứu triết học và khoa học. Triết học Hy Lạp cổ do đó gắn bó mật thiết với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng
bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật hiện
tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên
chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà
nó nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 16
giới. Cũng vì khoa học thời kỳ này vẫn con non nớt, các nhà khoa học chưa thể
tách riêng thành các bộ phận rõ ràng nên các nhà khoa học hướng đến triết học
để tìm điểm chung nhất, tìm cách để giải thích các vấn đề hóc búa của họ.Đó
chính là nguyên nhân mà các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết
học.
2.2 Triết học Ấn Độ cổ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình, ngược lại, triết học
Hy Lạp cổ có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật – duy tâm, vô thần– hữu thần
Bản thân các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại không có sự phân chia rõ
rệt thành duy vật hay duy tâm mà thay vào đó các trường phái này lại chia thành
hệ thống chính thống thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và hệ thống không chính
thống phủ nhận uy thế kinh Vêđa. Cụ thể thì trường phái Samkhya tuy ban đầu
phủ nhận sự tồn tại của Brahman và chỉ thừa nhận bản nguyên thế giới là prakiti
(vật chất), họ bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện chứng về
bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong
nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của
nguyên nhân trong kết quả. Tuy nhiên sau đó do không đứng vững trước lập
trường duy vật nhất nguyên của mình nên lại chuyển hướng sang nhị nguyên

thừa nhận hai thực thể độc lập là Tinh thần (Purusha) và Tự nhiên (Prakriti).
Còn các nhà triết học Mimansa đưa ra các kiến giải nhằm biện hộ, củng cố
và tuyên truyền cho các nghi thức được đề cập trong Vêđa, coi Vêđa như các tập
công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ coi cảm giác là nguồn gốc duy
nhất của nhận thức và phủ nhận sự tồn tại của thầnlinh. Theo Sabara thì chúng ta
thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần.
Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục
phát triển mà nó đã không đứng vững trước sự phê phán mạnh mẽ từ các trường
phái khác và chuyển sang lập trình hữu thần.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 17
Thêm một ví dụ nữa là trường hợp của triết phái Jaina. Triết học của phái
Jaina cố dung hòa quan niệm về thực thể bất biến với quan niệm vô thường, nên
nó mang tính mâu thuẫn. Những nhà triết học theo phái Jaina là những người duy
vật khi giải quyết vấn đề bản thể luận. Nhưng khi giải quyết vấn đề nhận thức
luận, họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và tương đối luận.
Các trường phái triết học trên cho thấy triết học Ấn Độ cổ đại không có
bước nhảy vọt về chất mà lẩn quẩn, không nhất quán và cùng đường do không
thoát ra được khỏi các ý niệm cổ đại đã tồn tại từ lâu đời.
Khác hẳn với triết học cổ đại Ấn Độ, nền Triết học Hy Lạp cổ đại khi đi
giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học đã phân chia rõ ràng thành các trường
phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm) và nhị nguyên. Thậm chí có sự đấu tranh
gay gắt giữa các trường phái triết học mà đáng nói nhất là giữa trường phái triết
học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm của Platông. Có thể nói
xuyên suốt các thời kỳ phát triển của Hy Lạp cổ đại, các trường phái triết học rất
nhất quán, kiên định một quan điểm, lập trường.
Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp nổi bật với các trường phái: Trường phái Milê
khẳng định thế giới xuất phát từ một khởi nguyên vật chất duy nhất.Trường phái
Lơxip – Đêmôcrit: Đêmôcrit dựa vào thuyết nguyên tử thừa nhận sự ràng buộc
lẫn nhau theo quy luật nhân quả tính khách quan trong tính tất yếu của sự vật,
hiện tượng tự nhiên song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là

một hiện tượng không có nguyên nhân, bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự
sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả của quá trình biến
đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang
tính mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm
duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn con người
Đại diện duy tâm của triết học Hy Lạp xuất phát từ Pytago và dừng lại phát
triển đỉnh cao với trường phái của thầy trò Xôcrat – Platông, đặc biệt là quan
điểm Platông. Platông đã hoàn thiện chủ nghĩa duy tâm và hệ thống duy tâm của
ông là mẫu mực nhất, nhất quán nhất trong tất cả các học thuyết duy tâm thời cổ
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 18
đại. Platông đã lấy ở người thầy mình Xôcrat học thuyết về đề cao cái chung và
cho rằng chân lý nằm trong tranh luận và chỉ có tranh luận mới dẫn đến chân lý.
Và ông lấy học thuyết Bacbarit học thuyết về cái tồn tại, cái bất biến, cái được
nhận thức bởi lý tính và chỉ có lý tính mới nắm bắt được chân lý. Từ đó xây dựng
học thuyết ý niệm để đối lập lại học thuyết nguyên tử của Đêmôcrit.
Nói đến Hy Lạp người ta không thể không đề cập đến người khổng lồ của
triết học Arixtôt. Ông đã tổng kết toàn bộ triết học Hy Lạp nên bắt buộc phải
đứng trên cả 2 trường phái duy vật và duy tâm để thấy được cái hay cái dở của
các trường phái. Ông đứng trên quan điểm duy vật phê phán thuyết ý niệm của
Platông, nhưng cũng không ủng hộ quan điểm của các trường phái triết học duy
vật bàn về khởi nguyên vật chất của vũ trụ.
2.3 Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn
đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận còn triết
học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người
Với nền triết học quan hệ chặt chẽ với tôn giáo, triết học Ấn Độ cổ đã đặt ra
nhiều vấn đề về nhân sinh quan như bản chất, ý nghĩa của cuộc sống, nguồn gốc
của nỗi khổ con người và làm sao để giải thoát chúng sinh khỏi những nổi khổ
trần gian để thoát khổ, để đạt đến trạng thái thanh tính, thoát khỏi luân hồi…
Trong triết học Upanishad, họ suy ngẫm về cuộc đời, số phận và đi tìm lẽ

sống cho con người, họ bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Brátman chỉ có
một, Átman là số nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai
chỉ là một. Những cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người
nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần tục đã gây ra những hậu
quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là "nghiệp báo" (Karma). Do
vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác khác, ràng
buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không
nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là Brahman được.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 19
Muốn được giải thoát con người ra khỏi thế giới nhị nguyên tương đối, bước vào
cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối thì phải trải qua tiến trình tu luyện.
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp báo" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni
đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và “Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh
ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi
Xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết các
vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng “hướng nội”. Có
thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và là ưu thế của nhiều học thuyết
triết học Ấn Độ cổ đại.
Về phần triết học Hy Lạp cổ, do các nhà triết học cũng là các nhà khoa học
nên họ có khuynh hướng chung là suy tư về bản chất và khởi thuỷ của thế giới
trước khi suy ngẫm về sự tồn tại của con người. Họ lấy một thực thể bản nguyên
tượng trưng làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là
nước, đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là
tinh thần. Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số,
Pacmênic cho rằng bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit
phỏng đoán mọi sự vật đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử
nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn.

Hêraclit đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của
các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được
thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân
sinh quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt
thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội
và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình Mỗi
con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức,
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 20
mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa
cá nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con
người, thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc
xã hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã) của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ
thuộc lẫn nhau. Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã
hội được xếp đặt theo trật tự duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá nhân
không thể tách khỏi xã hội và "nhân tính" là hình thành do xã hội và phát triển
trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh trong tư tưởng Hy Lạp Xôcrat và
Platông thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất con người trên tấm vải thô
lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của bản chất con người. Con người chỉ
thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã hội Arixtốt, một nhà duy
lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của Platông “Con người không thể là con
người nếu không có xã hội "
2.4 Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan
hệ giữa con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất” trong
khi các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét
khách quan
Nhiều nhà triết học Ấn Độ cổ đại cổ vũ, vận động cho việc hòa hợp giữa
con người với vũ trụ, đưa ra các hoạt động, nghi lễ, nghi thức và các “con
đường” tu luyện để đạt được sự giải thoát, để hướng tới cõi niết bàn (Nirvana)
hay đưa cái tự ngã (Átman) trở về hợp nhất với cái đại ngã (Bratman), với vũ trụ

đại đồng.
Trường phái triết học Vêđanta, triết phái Yoga và Mimasa đều đưa ra
những phương cách riêng của mình, hướng dẫn con người tu luyện hay thực hiện
các nghi lễ để vươn đến sự giải thoát, để cái Tự ngã có thể thoát khỏi luân hồi và
trở về đồng nhất với cái đại đồng, với linh hồn vũ trụ.
Triết học Ấn Độ cổ đại coi trọng việc tìm hiểu, chiêm nghiệm mối quan hệ
của con người với cuộc sống tâm linh, với cái nội tại bên trong tư tưởng con
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 21
người nhiều hơn là nghiên cứu về bản chất tự nhiên của con người hay mối quan
hệ của con người với thiên nhiên, với đời sống sản xuất…
Như một sự bổ sung cho triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Hy Lạp cổ đại khi
nghiên cứu đã xem con người là chủ thể nghiên cứu, chinh phục vũ trụ. Triết học
Hy Lạp có sự gắn bó mật thiết với Khoa học tự nhiên nên hẳn nhiên nó đào sâu
khám phá tự nhiên, đi tìm cách giải thích cái tự nhiên đó, đồng thời giải thích sự
tồn tại của con người trong đó.Các nhà triết học duy vật Hy Lạp thuộc phái Milê
(Thales, Anaximandre, Anaximene) hay phái Hêraclit đều đi tìm cái chung duy
nhất, vật chất đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ. Còn Đêmôcrit thì cho rằng bản
chất thế giới là vật chất – nguyên tử luôn vận đông theo quy luật nhân quả; vũ trụ
vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và cũng không bị hủy diệt…
Theo ông, con người muốn nắm bắt được bản chất thế giới thì không thể không
sử dụng nhận thức lý tính. Khi nói về con người, Đêmôcrit cho rằng con người
con người phát triển trong giới tự nhiên là do nhu cầu vật chất: do nhu cầu giao
tiếp mà có tiêng nói, do nhu cầu ăn ở mà có nhà cửa, quần áo, biết chăn nuôi, săn
bắn, trồng trọt…
Các nhà triết học duy tâm Hy Lạp, dù là khách quan hay chủ quan cũng đều
giải thích sự tồn tại của thế giới khách quan độc lập với con người, con người
không đồng nhất mới tự nhiên mà xem ý niệm có trước, sản sinh ra vạn vật. Linh
hồn con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được thượng đế tạo ra từ lâu.
Protagoras khẳng định rằng: “Con người là thước đo của vạn vật”. Với chủ
trương con người ta không thể suy tư về những điều gì không hiện hữu, ông đã

dùng giác quan của mình để tri thức vạn vật. Như thế, không có chân lý nào
khách quan, không có giá trị đạo đức hay luân lý nào chung cho tất cả mọi người.
Chỉ có chân lý đồng nhất với con người, cho nên tùy theo mỗi người, chân lý đó
được chấp nhận hay không chấp nhận. Sự vật được nhận thức bằng các quan
năng nên nó bị quy định, đặt tên bởi chủ thể cảm nhận. Cái tôi cảm nhận được
như thế nào thì cái đó sẽ như vậy. Nói cách khác, Protagoras là người đầu tiên tri
thức được tầm quan trọng của cái mà ngày nay ta gọi là chủ thể tính. Ông đã kéo
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 22
triết học suy tư từ trên trời xuống đặt vào lòng con người. Từ bây giờ, con người
đã ý thức được chủ quyền của mình trong vai trò kiến tạo vạn vật trong trời đất
này. Con người tự mình nhận thức sự vật và quyết tuyển chân lý cho riêng mình,
không còn lệ thuộc, không còn bị chi phối bởi niềm tin mù quáng vào sự thánh
thiêng của vụ trụ.
2.5 Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung trực giác, khác với triết học Hy
Lạp ngã về tư duy duy lý
Ở đây có sự đối lập trong cách cảm nhận thế giới giữa triết học Ấn Độ cổ
đại và triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học Ấn Độ xem trực giác là cách con người
cảm nhận thế giới. Phái Mimansa coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận
thức; và do cảm giác không nhận thấy được thần linh, vì vậy trong thế giới không
có thần linh. Hay như phái Nyaya đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận
thức, đồng thời cho rằng nhận thức là đúng khi nó phù hợp với bản chất của đối
tượng. Triết phái Lokayata cũng coi cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy
nhất của nhận thức, họ phủ nhận tính xác thực của nhận thức suy lý gián tiếp.
Khác với Ấn Độ cổ đại, triết học Hy Lạp cổ đại lại trọng tư duy duy lý.
Điều này có thể bắt nguồn từ việc các nhà triết học Hy Lạp cũng là các nhà khoa
học và họ thường xuyên phải sử dụng tư duy lý luận để giải thích các hiện tượng
khoa học mà họ đang nghiên cứu. Hêraclit cho rằng quá trình nhận thức phải bắt
đầu từ cảm tính, nhưng cảm tính không đủ sức để khám phá bí ẩn của tự nhiên, vì
vậy, muốn nhận thức thấu suốt tự nhiên phải sử dụng tư duy, lý tính. Đêmôcrit
thì lại chia nhận thức của con người ra thành nhận thức mờ tối (do giác quan

mang lại) và nhận thức sáng suốt (do suy đoán đem đến) tức nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính; muốn nắm bắt bản chất thế
giới không thể không sử dụng nhận thức lý tính. Phái duy tâm trong triết học Hy
Lạp cổ mặc dù có sự đấu tranh với phái duy vật về thế giới quan nhưng lại có sự
đồng nhất trong việc xem nhận thức lý tính là cách để khám phá ra bản chất đích
thực của thế giới; họ cho rằng hoạt động cảm tính chỉ mang lại kiến giải sai lầm
về thế giới sự vật.
GV: TS.Bùi Văn Mưa | HVTH: Nguyễn Xuân Yên 23

×